Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Kết quả điều trị phẫu thuật bắc cầu động mạch não

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.12 KB, 5 trang )

Nghiên cứu Y học 

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ PHẪU THUẬT BẮC CẦU ĐỘNG MẠCH NÃO 
Trần Minh Trí*, Trần Quyết Tiến* 

TÓM TẮT 
Mục tiêu: Phẫu thuật bắc cầu động mạch não trong ngoài sọ qui ước là phương pháp được công nhận rộng 
rãi với mục đích điều chỉnh tuần hoàn máu não. Những bệnh nhân với tình trạng suy giảm huyết động học nặng 
có nguy cơ cao xảy ra đột quị trong tương lai.Phẫu thuật bắc cầu động mạch não trong ngoài sọ cho thấy hiệu 
quả trong việc làm giảm nguy cơ đột quị ở những bệnh nhân này.Những bệnh nhân với tình trạng suy giảm 
huyết động học với nguy cơ đột quỵ có thể xác định bằng xạ hình tưới máu não có Diamox test. Tác giả nghiên 
cứu 33 trường hợp bệnh nhân với 35 phẫu thuật được thực hiện trong 4,5 năm. 
Phương  pháp  nghiên  cứu: Dữ liệu nghiên cứu gồm 33 trường hợp bệnh moyamoya và bệnh tắc nghẽn 
mạch máu não được phẩu thuật từ 01/2009 đến 06/2013. Nghiên cứu tiền cứu đặc điểm lâm sàng, dich tể học 
liên quan đến đánh giá, theo dõi kết quả phẫu thuật. 
Kết quả: Tác giả điều trị 33 bệnh nhân với 35 phẫu thuật (tuổi trung bình 42 + 12), và có một bệnh nhân trẻ 
em (9 tuổi) được phẫu thuật 1 bên. Thời gian theo dõi trung bình 3,8 năm, với tỉ lệ tai biến liên quan đến phẫu 
thuật 3%, tỉ lệ tử vong do phẫu thuật 0%. Tỉ lệ theo dõi đột quị và tử vong đến thời điểm hiện tại 6%. Nhìn 
chung tình trạng cải thiện chất lượng sống theo thang điểm Ranking cải tiến trước và sau mổ có sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (p<0,005). 
Kết luận: Phẫu thuật tái tạo tuần hoàn não hữu ích trong việc làm giảm tình trạng suy giảm tưới máu não 
ở bệnh nhân có bệnh lý tắc nghẽn mạch máu não, bệnh lý moyamoya. Phẫu thuật này với tỉ lệ tai biến thấp, hiệu 
quả trong việc làm giảm nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cũng như xuất huyết não tái phát, đã được xác định trong 
nghiên cứu này. 
Từ khóa: bệnh moyamoya, bệnh tắc nghẽn mạch máy não, phẫu thuật bắc cầu 

ABSTRACT 


CLINICAL OUTCOME OF EC‐IC BYPASS SURGERY 
Tran Minh Tri, Tran Quyet Tien * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 6 ‐ 2014: 398 ‐ 402 
Objective:  Standard  extracranial‐  intracranial  bypass  (EC‐IC)  arterial  bypass  surgery  represent  a  well‐
recognized  procedure  in  which  the  aim  is  augment  distal  cerebral  circulation.  Patients  with  major  cerebral 
hypoperfusion and to be at an increased risk of future strokes, EC‐IC bypass has been shown to reduce this risk. 
Patients with cerebral hypoperfusion, and who are at risk of haemodynamic ischemia, can be identified by using 
SPECT Scan with and without Diamox test. Authors reviewed the records of 33 patients who underwent 35 EC‐
IC bypass procedures over the past 4.5 years. 
Methods  and  Materials: Data obtained in consecutive series of 33 patients with Moyamoya disease and 
cerebrovascular  occlusive  disease  treated  microsurgically  between  jan  2009  and  june  2013  were  analyzed. 
Demographic,  clinical,  and  surgical  data  were  prospectively  gathered  and  neurological  outcomes  assessed  in 
postoperative follow‐up. 
Results:  The  authors  treated  a  total  of  33  patients  undergoing  35  procedures  (mean  age  42  +‐12)  and  1 
pediatric patient undergoing 1 procedure (age of 9). The mean follow up 3,8 years, the surgical morbidity rate was 
3% and the mortality rate was 0%. The cumulative 3.8 year risk of recurrence strokes or death was 6%. Overall, 
there was a significant improvement in quality of life in the corhort as measured in using the Modifyied Ranking 
* Bệnh viện Chợ Rẫy, Thành phố Hồ Chí Minh 
Tác giả liên lạc: Bs Trần Minh Trí  ĐT: 0939729559  

398

Email:  

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học


 
Scale (p<0,005). 
Conclusion:  Cerebral  revascularization  can  be  useful  in  mitigating  the  severe  sequalae  from  cerebral 
occlusive disease as well as moyamoya disease with documented hemodynamic compromise. EC‐IC bypass carries 
a low risk, is effective at preventing future ischemic and recurrent hemorrhagic events with patient with cerebral 
occlusive disease and moyamoya disease have been statistically confirmed in this study. 
Key words: Moyamoya disease, cerebral occlusive disease, bypass 

ĐẶT VẤN ĐỀ 
Phẫu  thuật  bắc  cầu  động  mạch  não  trong 
ngoài sọ đã được sử dụng rộng rãi trong điều trị 
tình trạng suy giản huyết động học ở bệnh nhân 
có bệnh lý tắc nghẽn mạch máu não từ năm 1967 
bởi  Yasargil  và  Donaghy.  Nghiên  cứu  đa  trung 
tâm năm 1985 về vai trò của phẫu thuật bắc cầu 
động mạch não trong ngoài sọ, chứng minh rằng 
phẫu thuật này không có hiệu quả làm giảm tỉ lệ 
đột quị thứ phát so với điều trị nội khoa(1). Kể từ 
đó nghiên cứu này được chấp nhận rộng rãi và 
số  lượng  phẫu  thuật  bắc  cầu  giảm  đáng  kể  chỉ 
được  thực  hiện  ở  một  số  ít  các  trung  tâm.Tuy 
nhiên gần đây nhiều tác giả cho rằng nghiên cứu 
đa trung tâm không có đánh giá tình trạng huyết 
động học trước mổ, một yếu tố quyết định đến 
kết quả phẫu thuật. 
Một số nghiên cứu riêng lẽ chứng minh tính 
hiệu  quả  của  phương  pháp  này  cho  thấy  phẫu 
thuật  có  hiệu  quả  trong  việc  làm  giản  tỉ  lệ  đột 
quỵ thứ phát sau phẫu thuật(2). Mục đích nghiên 
cứu này nhằm đánh giá kết quả phẫu thuật bắc 

cầu động mạch não ở bệnh nhân có bệnh lý tắc 
nghẽn mạch máu não và bệnh lý moyamoya. 

ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Chúng  tôi  thực  hiệnnghiên  cứutiền  cứu  33 
bệnh  nhân  với  35  phẫu  thuật  được  thực  hiện 
trong  đó  có  10  bệnh  nhân  tắc  động  mạch  cảnh 
trong, 3 bệnh nhân hẹp động mạch não giữa, 20 
bệnh nhân với bệnh lý moyamoya. Tất cả bệnh 
nhân  được  chẩn  đoán  dựa  trên  biểu  hiện  lâm 
sàng, chụp CT scan não đánh giá tình trạng xuất 
huyết  não,  MRI  đánh  giá  các  tổn  thương  nhũn 
não,  nhồi  máu  não,  DSA  chẩn  đoán  bệnh 
nguyên theo hướng dẫn của guidelines.Xạ hình 
tưới  máu  não  với  diamox  test  nhằm  xác  định 

Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 

khả năng tồn lưu máu não chọn lựa bệnh nhân 
trước khi phẫu thuật. Những bệnh nhân còn khả 
năng  tồn  lưu  máu  não  được  loại  khỏi  nghiên 
cứu này. 
Đây là nghiên cứu tiến cứu mô tả hang loạt 
ca  bệnh,  không  đối  chứng,  phân  tích  sử  dụng 
phép kiểm χ2, so sánh T đôi. 
Kỹ thuật  mổ: Bệnh nhân được  gây mê  toàn 
thân, đầu nghiêng sang bên 60 độ. Đường mở da 
Question‐Mark  bộc  lộ  vạt  da,  động  mạch  thái 
dương  nông  được  bộc  lộ  tại  gốc,  trên  cung 
Zygoma,  (hoặc  đường  thẳng  ngay  trên  động 

mạch thái dương nông) tách động mạch khỏi vạt 
da  và  cơ  thái  dương,  nhánh  trán  và  đính  dược 
bộc  lộ,  chiều  dài  của  động  mạch  ghép  từ  8‐10 
cm,  lòng  động  mạch  được  bơm  rửa  với  dung 
dịch  nước  muối  sinh  lý  có  pha  heparin.  Dùng 
dao điện cắt cơ và cân cơ thái dương hình chữ Y, 
khoan  và  gặm  sọ  trán  thái  dương  3cm  đường 
kính,  màng  cứng  được  mở  và  đính  vào  cân  cơ 
thái  dương, bộc  lộ  và  tách nhánh  M4  của  động 
mạch  não  giữa  ngay  rãnh  sylvien  khỏi  màng 
nhện. Động mạch thái dương nông được cắt vát, 
2 nhánh được chọn lọc và nối với 2 nhánh động 
mạch  não  giữa  đoạn  M4,  mỗi  mối  nối  tận  bên 
được  khâu  vào  lớp  intima  từ  6  –  8  mũi  với  chỉ 
prolène 10.0, cơ được đính vào mép màng cứng, 
cân cơ được khâu kín, và tránh làm tăng áp lực 
và hẹp động mạch thái dương nông. 

KẾT QUẢ 
Bệnh nhân được đánh giá lâm sàng một tuần 
sau  phẫu  thuật,  và  sau  đó  theo  dõi  1  tháng,  6 
tháng, 1 năm, 2 năm sau phẫu thuật. Bệnh nhân 
được chụp DSA hoặc MSCT sau mổ để đánh giá 
cầu nối sau mổ 1 tuần đến 1 tháng, sau 3 tháng 
được chụp xạ hình tưới máu não. Đối với bệnh 

399


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
nhân không đến tái khám tại bệnh viện được gọi 
điện thoại hỏi về tình trạng bệnh sau mổ. 
Thời gian theo dõi tối thiểu 6 tháng, đánh giá 
các  kết  quả  lâm  sàng,  tình  trạng  đột  quị,  đau 
đầu, xuất huyết não, cơn thoáng thiếu máu não. 
Thang  điểm  Ranking  cải  tiến  được  đánh  giá 
trước mổ và 6 tháng sau mổ. 
Từ 01/2009 đến 06/2013 chúng tôi phẫu thuật 
33  trường  hợp  bệnh  Moyamoya,  bệnh  lý 
tắcmạch  cảnh  trong,  hẹp  động  mạch  não  giữa 
(biểu đồ 1), thời gian theo dõi lâu nhất 5,8 năm, 
ngắn nhất 16 tháng sau phẩu thuật, và bước đầu 
ghi nhận kết quả khả quan. Tuổi trung bình 42 ± 
12 (9 – 65), tỉ lệ nam/nữ là 1,2. 

Đánh  giá  cải  thiện  chất  lượng  sống  bệnh 
nhân bằng thang điểm Ranking cải tiến trước và 
sau mổ. 

40%
30%
24%

0%

0%


0

1

2
0

1

3
2

4
3

4

0%

0%

5

6

5

6


Biểu đồ 3: thang điểm Ranking cải tiến trước mổ

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi  có 2 nhóm 
bệnh nguyên: bệnh moyamoya có 20 bệnh nhân, 
bệnh tắc nghẽn mạch máu não có 13 bệnh nhân. 

0

82%

12%

6%

0%
0

1

2

3

1

0%

0%

0%


4

5

6

2

3

Biểu đồ 4: Thang điểm Ranking cải tiến sau mổ 
Bệnh Moymoya

BÀN LUẬN 

Tắc động mạch cảnh trong

Đối  với  bệnh  nhân  bệnh  moyamoya  chúng 
tôi lựa chọn phẫu thuật bên bán cầu não có biễu 
hiện  lâm  sàng  nặng  (xuất  huyết  não  hoặc  dấu 
hiệu thần kinh khu trú). Trong trường hợp lâm 
sàng không biểu hiện rõ dấu hiệu thần kinh khu 
trú bên nào, chúng tôi sẽ phẫu thuật bên bán cầu 
não không ưu thế trước. Riêng phía bên bán cầu 
còn lại sẽ được phẫu thuật sau 1 đến 3 tháng tùy 
tình trạng lâm sàng của bệnh nhân. Đối với bệnh 
lý  tắc  nghẽn  động  mạch  cảnh  trong  hoặc  hẹp 
động  mạch  não  giữa  sẽ  phẫu  thuật  bên  có 
thương  tổn.Phẫu  thuật  bắt  cầu  động  mạch  não 

nối  trực  tiếp  gồm  cầu  nối  giữa  động  mạch  thái 
dương nông và động mạch não giữa. 

Hẹp động mạch não giữa

Biểu đồ 1: Bệnh nguyên
Bệnh nhân biểu hiện lâm sàng đột quỵ chiếm 
tỉ  lệ  cao  nhất  42,4%  xảy  ra  chủ  yếu  ở  bệnh  lý 
moyamoya, dấu hiệu thần kinh khu trú chiếm tỉ 
lệ 36,4% xảy ra chủ yếu ở nhóm bệnh lý tắc động 
mạch  cảnh  và  hẹp  động  mạch  não  giữa,  triệu 
chứng nhức đầu chiếm tỉ lệ 21,2% (biểu đồ 2). 
Đau đầu

Dấu TKKT

Đột quỵ

36.400% 42.400%
21.200%

Đau
đầu

Dấu 
TKKT

Đột quỵ

Biểu đồ 2: Triệu chứng lâm sàng


400

Trong  nghiên  cứu  của  chúng  tôi,  biểu  đồ  2 
cho  thấy  đa  số  biểu  hiện  lâm  sàng  với  triệu 
chứng  đột  quỵ  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  42,4%,  dấu 
hiệu thần kinh khu trú chiếmtỉ lệ 36,4%, và đau 
đầu  chiếm  tỉ  lệ21,2%.  Theo  Peter  Horn  triệu 

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014 

Nghiên cứu Y học

 
chứng  đột  quỵ  chiếm  tỉ  lệ  cao  nhất  60%(2), 
nhưng  với  tác  giả  Hiren  C  Patel  triệu  chứng 
chính là dấu hiệu thầnkinh khu trú chiếm 92%(7). 
Tỉ  lệ  nhiễm  khuẩn  vết  mổ  trong  nghiên 
cứu  của  chúng  tôi  là  3%  thấp  hơn  so  với 
nghiên cứu của Sepideh và Tummala là 8% và 
4,6%.  Kết  quả  cải  thiện  chất  lượng  sống  của 
bệnh  nhân  được  đánh  giá  theo  thang  điểm 
Ranking cải tiến, trong nghiên cứu ghi nhận có 
sự cải thiện đáng kể chất lượng sống của bệnh 
nhân 3 tháng sau phẫu thuật bằng sự cải thiện 
thang điểm Ranking sau mổ và sự khác biệt có 
ý nghĩa thống kê với (p< 0,005). 

Kết  quả  nghiên  cứu  này  cho  thấy  hiệu  quả 
của phẫu thuật bắc cầu động mạch trong điều trị 
bệnh lý tắc nghẽn mạch máu não cũng như bệnh 
lý moyamoya trong việc làm giảm tỉ lệ đột quỵ 
thứ phát do xuất huyết não, nhồi máu não. Với tỉ 
lệ tai biến cũng như tỉ lệ tử vong thấp so với các 
nghiên cứu khác, phương pháp này được đánh 
giá an toàn và hiệu quả trong điều trị các bệnh lý 
tắc nghẽn mạch máu não và moyamoya(4,1). 
Ghi nhận có sự cải thiện thang điểm Ranking 
cải  tiến  sau  mổ  so  với  tình  trạng  trước  mổ,  sự 
khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,005. Thời 
gian  khởi  bệnh  lâu  nhất  5,8  năm,  tỉ  lệ  nử  60% 
thấp  hơn  so  với  các  với  báo  cáo  gần  đây  trong 
nghiên cứu bệnh moyamoya so với nghiên cứu 
tại California (Mỹ) và Châu Á(5,6). Tuy nhiên với 
số lượng phẩu thuật còn ít nên chúng tôi mới ghi 
nhận bước đầu có sự khác biệt về tuổi cũng như 
tỉ  lệ  nữ/nam(5,6).  Biểu  hiện  lâm  sàng  đa  số  là 
triệu chứng xuất huyết não, tất cả các bệnh nhân 
đến  với  chúng  tôi  đều  là  người  lớn.  Tất  cả  các 
bệnh nhân đều có cải thiện về mặt lâm sàng các 
triệu  chứng:  đau  đầu,  dấu  hiệu  thần  kinh  khu 
trú,  cơn  thiếu  máu  não  thoáng  qua.  Chúng  tôi 
chưa  ghi nhận  trường hợp  tái  xuất huyết,  cũng 
như triệu chứng thiếu máu não tái phát của bệnh 
nhân,  sau  19  –  69  tháng  theo  dõi.  Có  2  trường 
hợp tử vong 1 tháng sau trường hợp phẩu thuật, 
do vỡ dộng mạch xuyên vỏ não gây máu tụ dưới 


Mạch Máu Não và Xạ Phẫu 

màng  cứng  cấp  tính.  Một  trường  hợp  khác  tử 
vong sau mổ 1 tháng do người nhà thông tin lại. 
 Đối  với  bệnh  tắc  nghẽn  động  mạch  não 
chúng  tôi  ghi  nhận  có  10  trường  hợp  tắc  động 
mạch cảnh trong, 3 trường hợp hẹp động mạch 
não  giữa,  có  6  trường  hợp  biểu  hiện  lâm  sang 
đột  quỵ,  7  trường  hợp  biểu  hiện  dấu  hiệu  thần 
kinh khu trú. Trong 13 trường hợp trên đều cải 
thiện  dấu  hiệu  thần  kinh  khu  trú,  và  chưa  ghi 
nhận  đột  quỵ  tái  phát  trong  nhóm  bệnh  nhân 
này. Tuy nhiên có 1 trường hợp hoại tử vạt da 1 
tuần  sau  mổ  do  máu  tụ  dưới  da  đầu,  và  được 
phẫu thuật lần 2 xoay vạt da, kết quả lành da tốt. 
Mặc  dù  số  lượng  phẫu  thuật  bắc  cầu  động 
mạch não giảm đáng kể sau công bố của nghiên 
cứu đa trung tâm năm 1985, nhưng nhiều tác giả 
vẫn  tiếp  tục  thực  hiện  nghiên  cứu  về  kỹ  thuật 
này với sự lựa chọn bệnh nhân có suy giảm tuần 
hoàn não bằng cách đánh giá khả năng tồn lưu 
máu não với các kỹ thuật xạ hình tưới máu não 
Spect Scan), cộng hưởng từ chức năng đánh giá 
tưới máu não, Chụp cắt lớp đánh giá tưới máu 
não, với Diamox test nhằm xác định và chọn lựa 
bệnh nhân trước phẫu thuật, các nghiên cứu gần 
đây(2) đều ghi nhận hiệu quả của phẫu thuật bắt 
cầu động mạch não, và kỹ thuật này ngày càng 
được  nhiều  trung  tâm  ứng  dụng  trong  điều  trị 
bệnh  lý  tắc  nghẽn  mạch  máu  não  và  bệnh  lý 

moyamoya. 

KẾT LUẬN 
Phẫu thuật bắc cầu động mạch não đã giảm 
tỉ lệ đột quỵ thứ phát, cải thiện chất lượng sống 
của bệnh nhân, với tỉ lệ tai biến và tử vong của 
phẫu thuật thấp. 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1.

2.

3.

AndrewsBT,  ChaterNL,  and  WeinsteinPR,  (1985),” 
Extracranial‐intracranial  arterial  bypass  for  middle  cerebral 
artery stenosis and occlusion”. J Neurosurg 62:831‐838. 
HaydenMG,  MarcoleeMAS,  GuzmanR,  and  SteinbergGK 
(2009): “The evolution of cerebral revascularization surgery”. 
Neurosurg Focus 26 (5):E17. 
HornP, ScharfJ, Pena‐TapiaP, and VajkoczyP, (2008),” Risk of 
intraoperative  ischemia  due  to  temporary  vessel  occlusion 
during  standard  extracranial–intracranial  arterial  bypass 
surgery”. J Neurosurg 108:464–469. 

401


Nghiên cứu Y học 


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 6 * 2014

 
4.

5.

6.

Kleiser  B  and  WidderB  (1992),“  Course  of  carotid  artery 
occlusions  with  impaired  cerebrovascular  reactivity”, 
Stroke;23;171‐174 
MesiwalaAH,  SviriG,  BritzGW,  and  NewellDW,  (2008), 
”Long‐term  outcome  of  superficial  temporal  artery–middle 
cerebral artery bypass for patients with moyamoya disease in 
the US”. Neurosurg Focus 24 (2):E15. 
NakagawaA,  FujimuraM,  ArafuneT,  SakumaI,  and 
TominagaT,  (2009),  “Clinical  implications  of  intraoperative 
infrared brain surface monitoring during superficial temporal 
artery–middle  cere‐bral  artery  anastomosis  in  patients  with 
moyamoya disease”. J Neurosurg 111:1158–1164. 
 

7.

8.

PatelHC,  McnamaraIR,  Al‐Rawi  PG  &  KirkpatrickPJ, 
“Improved  cerebrovascular  reactivity  following  low  flow 

EC/IC  bypass  in  patients  with  occlusive  carotid  disease”, 
British Journal of Neurosurgery, April 2010; 24(2): 179–184. 
SmithER  and  ScottRM  (2008),”  Progression  of  disease  in 
unilateral moyamoya syndrome”. Neurosurg Focus 24 (2):E17. 

 
Ngày nhận bài báo:  

 

 

20/10/2014 

Ngày phản biện nhận xét bài báo:  

2/11/2014 

Ngày bài báo được đăng: 

5/12/2014 

 

 

402

Chuyên Đề Phẫu Thuật Thần Kinh 




×