Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đánh giá sự thay đổi đường huyết ở bệnh nhân gây mê nội khí quản để phẫu thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (222.09 KB, 7 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009

Nghiên cứu Y học

ĐÁNH GIÁ SỰ THAY ĐỔI ĐƯỜNG HUYẾT
Ở BỆNH NHÂN GÂY MÊ NỘI KHÍ QUẢN ĐỂ PHẪU THUẬT
Đoàn Văn Nhã*, Nguyễn Văn Chừng**, Nguyễn Văn Sách***

TÓM TẮT
Gây mê phẫu thuật gây ra một tình trạng kích xúc, kích thích hệ thống thần kinh nội tiết làm tăng tiết nhiều
kích thích tố có tác dụng làm tăng đường huyết trong và sau phẫu thuật.
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi đường huyết ở những bệnh nhân không bị bệnh đái tháo đường được gây
mê nội khí quản để phẫu thuật.
Phương pháp: Mô tả cắt ngang có so sánh ở 2 nhóm nghiên cứu. Nhóm người bệnh được truyền tĩnh
mạch dung dịch Glucose 5% và nhóm được truyền dung dịch Lactat Ringer trong gây mê phẫu thuật. Nồng
độ đường huyết được đo vào các thời điểm: trước khi truyền dịch, 15 phút sau rạch da, lúc kết thúc phẫu
thuật và 1 giờ sau mổ.
Kết quả: 100 trường hợp được chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm nghiên cứu mỗi nhóm 50 trường hợp. Ở nhóm
bệnh nhân được truyền tĩnh mạch dung dịch Glucose 5%, đường huyết trung bình trước truyền dịch là 4,79 ±
0,58mmol/l, 15 phút sau rạch da là 7,99±1,72 mmol/l, lúc kết thúc phẫu thuật là 10,68±3,59 mmol/l và là
9,02±3,02mmol/l 1 giờ sau mổ. Ở nhóm bệnh nhân được truyền Lactat Ringer, đường huyết tương ứng là
4,65±0,61 mmol/l, 5,55±0,83 mmol/l, 6,56±1,24 mmol/l và 5,96±1,23 mmol/l.
Kết luận: Nồng độ đường huyết trung bình trong và sau mổ đều tăng lên so với trước mổ và ở nhóm
truyền tĩnh mạch dung dịch Glucose 5%, đường huyết tăng cao hơn so với đường huyết ở nhóm truyền
dung dịch Lactat Ringer.

ABSTRACT
BLOOD GLUCOSE CONCENTRATION CHANGES
IN PATIENTS UNDERGOING GENERAL ANESTHESIA FOR SURGERY.
Doan Van Nha, Nguyen Van Chung, Nguyen Van Sach
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 - Supplement of No 1 - 2009: 476 - 480


Objectives: to evaluate the changes in blood glucose concentration in nondiabetic patients undergoing
general anesthesia for surgery.
Methods: 100 patients were randomly assigned into 2 groups, each group 50 patients.
.Group Glucose: Patients were infused with Glucose 5% solution.
.Group Lactat: Patients were infused with Lactat Ringer solution.
All patients were anesthetized with Midazolam, Fentanyl, Propofol Rocuronium and maintained with
Isoflurane or Halothane. Blood glucose concentrations were measured before infusion, 15 mins after incision, the
end of surgery and 1 hour postoperative.
Results: Blood glucose concentration in Glucose group before infusion: 4.79 ± 0.58mmol/l, 15 mins after
incision: 7.99±1.72 mmol/l, end of surgery: 10.68±3.59mmol/l and 1 hour postoperative: 9.02±3.02 mmol/l. Blood
glucose concentration in Lactat group were 4.65±0.61 mmol/l, 5.55±0.83 mmol/l, 6.56±1.24 mmol/l and
5.96±1.23 mmol/l, respectively.
* Bệnh viện đa khoa Long An ** Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh *** Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang

Chuyên Đề Nội Khoa

1


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009

Nghiên cứu Y học

Conclusions: Blood glucose concentrations increased in both group during and postoperative and the
increase were more in Glucose group when compare with Lactat group

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự điều hòa nồng độ đường huyết phụ
thuộc vào chức năng gan. Gan chịu trách
nhiệm chính cho quá trình tổng hợp glycogen

và tân tạo đường. Gan có thể dự trữ một lượng
glycogen đủ để cung cấp glucose cho người
bình thường nhịn đói từ 12 đến 24 giờ, sau thời
gian đó glucose được tân tạo từ acid amin,
glycerol và lactat(7).
Các trường hợp mổ chương trình người
bệnh đều phải nhịn ăn trước mổ và tùy vào tính
chất mỗi cuộc mổ mà thời gian nhịn ăn có thể từ
8 đến 24 giờ. Do vậy truyền tĩnh mạch dung dịch
đường trong mổ nhằm đề phòng hạ đường
huyết trong lúc gây mê phẫu thuật, cung cấp cho
người bệnh một phần năng lượng, bù lại lượng
nước mất trong thời gian nhịn ăn và cơ thể giảm
sử dụng protein để cung cấp năng lượng(11)
Chúng tôi thường truyền dung dịch đường
trong gây mê phẫu thuật nhưng chưa theo dõi
và đánh giá sự thay đổi nồng độ đường huyết
khi có sự kích thích của phẫu thuật, làm tăng tiết
nhiều kích thích tố có tác dụng gây tăng đường
huyết như epinephrin, glucagon, cortisol, …
Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này
nhằm đánh giá sự thay đổi nồng độ đường
huyết trong và sau mổ ở những người bệnh
không bị đái tháo đường khi truyền tĩnh mạch
dung dịch Glucose 5% và khi truyền dung dịch
Lactat Ringer.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tiêu chuẩn chọn bệnh

-Bệnh nhân có chỉ định gây mê PT chương
trình.
-Tuổi > 15.
-Không mắc bệnh tiểu đường.
-ASA I, II.

2Chuyên Đề Nội Khoa

Tiêu chuẩn loại trừ
- Có thời gian gây mê PT <30 phút hoặc > 180
phút.
- Có bệnh gây tăng tiết catecholamin,
glucagon, insulin.
- Thời gian nhịn ăn < 8 giờ.

Phương pháp tiến hành
Bệnh nhân được làm đầy đủ các xét nghiệm
tiền phẫu.
Người bệnh đủ tiêu chuẩn chọn bệnh được
chọn ngẫu nhiên vào 2 nhóm nghiên cứu, mỗi
nhóm 50 trường hợp:
- Nhóm Glucose: Người bệnh được truyền
tĩnh mạch dung dịch Glucose 5% trong gây mê
PT.
- Nhóm Lactat: Người bệnh được truyền tĩnh
mạch dung dịch Lactat Ringer trong gây mê PT.

Tiến hành gây mê
Tiền mê: Midazolam 1-4 mg tĩnh mạch.
Fentanyl 1-3μg/kg tĩnh mạch.

Khởi mê: Propofol 2-2,5 mg/kg tĩnh mạch.
Dãn cơ: Rocuronium 0,45- 0,6mg/kg tĩnh
mạch.
Duy trì mê: Isofluran hoặc Halothan.

Thu thập số liệu
Những đặc điểm của người bệnh: Tuổi, giới,
cân nặng, ASA, nhịp tim, huyết áp, độ bão hòa
oxy trong và sau mổ, thời gian gây mê PT, tổng
lượng dịch truyền và lượng thuốc sử dụng được
ghi nhận vào phiếu thu thập sô liệu.
Đường huyết được đo vào các thời điểm:
Trước khi truyền dịch, sau rạch da 15 phút, lúc
kết thúc cuộc mổ và 1 giờ sau mổ.

Xử lí số liệu
Bằng phần mềm Stata 8.0.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009
KẾT QUẢ

Nghiên cứu Y học

Thay đổi độ bão hòa oxy trong gây mê PT.

Từ tháng 10/2007 đến tháng 04/2008 chúng
tôi tiến hành nghiên cứu 2 nhóm, mỗi nhóm 50
trường hợp, kết quả như sau:


Đặc điểm chung

100
99.5
99

Glucose
Lactat

98.5
98

Bảng 1.
Nhóm
Đặc điểm
Tuổi(năm)
Giới(Nam/nữ)
Cân nặng(kg)
ASA(I/II)
Thời gian PT

97.5

Nhóm Glucose Nhóm Lactat Trị số p
39,50±13,79
19/31
50,70±8,26
41/9
83,70±34,74


42,16±14,72
18/32
52,82±6,96
34/16
78,80±30,38

0,35
0,84
0,17
0,11
0,45

30

Khởi mê

60

90 120 150 180
phút

Biểu đồ 3: Thay đổi độ bão hòa oxy trong gây mê PT.

Thay đổi đường huyết.

Thuốc sử dụng trong gây mê PT.

Bảng 3

Bảng 2.


Nhóm
Glucose
Thời điểm
Trước truyền dịch
4,79±0,58
15 phút sau rạch da 7,99±1,72
Lúc kết thúc PT
10,68±3,59
1 giờ sau mổ
9,02±3,02

Nhóm

Trị số
Nhóm Glucose Nhóm Lactat
p

Thuốc
Midazolam(mg)
2,02±0,25
Fentanyl(µg)
123±5,75
Propofol(mg)
109,60±16,16
Rocuronium(mg)
30,30±5,09
Isofluran/halothan
18/32
Dịch truyền(ml)

577±201,58

2,08±0,34
115,50±4,68
110,20±13,92
30,70±5,80
27/23
630±164,13

0,32
0,31
0,84
0,71
0,31
0,15

100
95
90
85
80
75
12
0
15
0
18
0

60


Lactat

90

Khởi mê

Glucose

30

mmHg

Thay đổi HATB trong gây mê PT.

phút

Biểu đồ 1: Thay đổi HATB trong gây mê PT.

Thay đổi nhịp tim trong gây mê PT.

nhip/phút

85
80

Glucose
Lactat

75

70
30

Khởi mê

60

90 120 150 180
phút

Biểu đồ 2: Thay đổi nhịp tim trong gây mê PT.

Chuyên Đề Nội Khoa

Lactat

Giá trị p

4,65±0,61
5,55±0,83
6,56±1,24
5,96±1,23

0,22
< 0,0001
< 0,0001
< 0,0001

BÀN LUẬN
Bảng 1 cho thấy ở 2 nhóm Glucose và Lactat

không có sự khác biệt về tuổi trung bình ở 2
nhóm, cũng như giới tính, cân nặng, phân độ
ASA và thời gian phẫu thuật.
Bảng 2 cũng cho thấy lượng thuốc sử dụng
trong gây mê phẫu thuật giữa 2 nhóm là
Midazolam, Fentanyl, Propofol, Rocuronium và
thuốc mê hô hấp khác nhau không có ý nghĩa
thống kê.
Tổng lượng dịch truyền trung bình ở nhóm
Glucose là 577ml, tốc độ truyền trung bình
khoảng 8,15ml/kg/giờ, ở nhóm Lactat là 630ml,
tốc độ truyền khoảng 9,08ml/kg/giờ. Cũng
không có sự khác biệt về lượng dịch truyền ở 2
nhóm(p= 0,15). Tốc độ truyền dịch trong nghiên
cứu của chúng tôi tương tự như trong một số
nghiên cứu của Lattermann(3,2), Schricker(9).
Thay đổi HATB, trong suốt quá trình gây mê
phẫu thuật HATB ở 2 nhóm không có sự khác
biệt. Trong cùng một nhóm HATB lúc 30 phút
sau rạch da có giảm hơn so với trước mổ nhưng
mức độ giảm trong khoảng 10mmHg, mức giảm
có thể chấp nhận được.

3


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009
Trong gây mê phẫu thuật nhịp tim ở 2 nhóm
khác nhau cũng không có ý nghĩa thống kê.
Trong suốt thời gian theo dõi, nhịp tim thay đổi

ở từng thời điểm nhưng mức độ thay đổi < 10
nhịp/phút.
Độ bão hòa oxy ở 2 nhóm trong thời gian
nghiên cứu cũng không có sự khác biệt. Vào
từng thời điểm khác nhau trong thời gian nghiên
cứu độ bão hòa oxy có thay đổi nhưng độ bão
hòa oxy qua mạch luôn trên 97%.
Nồng độ đường huyết trung bình trước mổ
ở nhóm Glucose là 4,79 mmol/l, ở nhóm Lactat
là 4,65mmol/l. Không có sự khác biệt về nồng
độ đường huyết trung bình trước mổ ở 2 nhóm
(p= 0,22).
Sau rạch da 15 phút nồng độ đường huyết ở
nhóm Glucose là 7,99 mmol/l, ở nhóm Lactat là
5,55 mmol/l. Lúc này có sự khác biệt về nồng độ
đường huyết giữa 2 nhóm (p< 0,0001). Nồng độ
đường huyết vào thời điểm này tương tự như
trong nghiên cứu của Zucker(14).
Và khi so sánh nồng độ đường huyết 15 phút
sau rạch da với nồng độ đường huyết trước mổ,
sự gia tăng về nồng độ đường huyết có ý nghĩa
thống kê (p< 0,0001). Sự gia tăng này là do
những kích thích của việc đặt nội khí quản, của
động tác rạch da cũng như những thao tác trong
phẫu thuật kích thích hệ thống thần kinh nội tiết
làm giải phóng nhiều kích thích tố có tác dụng
làm tăng đường huyết như catecholaminm95)(4),
cortisol, glucagon,….
Khi kết thúc cuộc mổ, nồng độ đường huyết
ở nhóm Glucose là 10,68 mmol/l, ở nhóm Lactat

là 6,56 mmol/l. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (p<0,0001) về nồng độ đường huyết 2 nhóm.
Nồng độ đường huyết vào thời điểm này tương
tự như trong nghiên cứu của Nguyễn Viết
Quang(6), Lattermann(2), Schricker(8), Welborn(13).
Và khi so sánh với nồng độ đường huyết 15
phút sau rạch da, đường huyết lúc kết thúc cuộc
mổ tăng lên nhiều có ý nghĩa thống kê (p<
0,0001). Sự gia tăng này ngoài nguyên nhân do
tăng tiết những nội tiết tố có tác dụng làm tăng
đường huyết còn do sự đề kháng insulin của cơ

4Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

thể trong quá trình gây mê phẫu thuật cũng như
gia tăng sự sản xuất glucose nội sinh làm gia
tăng đường huyết(1,11,12). Ngoài ra ở nhóm
Glucose đường huyết tăng nhiều hơn nhóm
Lactat còn do việc truyền tĩnh mạch dung dịch
đường. Trong gây mê phẫu thuật nồng độ
đường huyết tăng tỉ lệ thuận với tốc độ truyền
tĩnh mạch dung dịch đường(10,11).
Nồng độ đường huyết 1 giờ sau mổ ở nhóm
Glucose là 9,02mmol/l, ở nhóm Lactat là 5,96
mmol/l. Nồng độ đường huyết vào lúc này ở 2
nhóm khác nhau có ý nghĩa thống kê (p< 0,0001).
Đường huyết lúc này cũng tương tự như trong
nghiên cứu của Lattermann(2), Schricker(8).

Khi so sánh với nồng độ đường huyết lúc
kết thúc cuộc mổ, nồng độ đường huyết 1 giờ
sau mổ có giảm hơn và sự thay đổi này cũng
có ý nghĩa thống kê (p< 0,0001). Đường huyết 1
giờ sau mổ giảm xuống có thể là do sau mổ
những kích thích của phẫu thuật không còn,
làm giảm những kích thích tố có tác dụng làm
tăng đường huyết.

KẾT LUẬN
Nồng độ đường huyết trung bình đều tăng
lên trong và sau mổ so với trước mổ. Đường
huyết ở nhóm truyền tĩnh mạch dung dịch
Lactat Ringer ổn định hơn so với truyền tĩnh
mạch dung dịch Glucose 5% trong gây mê
phẫu thuật.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1.

2.

3.

4.

5.

Lattermann R, Carli F, Wykes L, Schricker T (2001). Effect of
epidural analgesia on perioperative glucose homeostasis.

Canadian Journal of Anesthesia, 48, pp A9.
Lattermann R, Carli F, Wykes L, Schricker T (2003).
Perioperative glucose infusion and the catabolic response to
surgery: The effect of epidural block. Anesthesia-Analgesia,
96, pp 555-562.
Lattermann R, Schricker T, Wachter U, Georgieff M, Schreiber
M (2001). Laparoscopic- assisted vaginal hysterectomy and
the hyperglycemic response to surgery: an observational
study. Canadian Journal of Anesthesia, 48, pp 871-875.
Nguyễn Thy Khuê, Mai Thế Trạch (2007).Bệnh đái tháo
đường. Nội Tiết Học Đại Cương. Nxb Y học Tp Hồ Chí Minh,
tr 373-454.
Nguyễn Văn Chừng (2006). Gây mê cho bệnh nhân đái tháo
đường. Bài Giảng Gây Mê Hồi Sức tập 2. Nxb Y Học Tp Hồ
Chí Minh, tr 225- 238.


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009
6.

7.

8.

9.

10.

11.


12.
13.

14.

Nghiên cứu Y học

Nguyễn Viết Quang (2005). Perioperative plasma Glucose in
pediatric surgery. Narrowing the gaps in anesthesia. 14th
Asean congress of Anesthesiologists, p 188.
Peloquin R, Bailin M.T (2007). Specific considerations with
liver disease. Clinical anesthesia procedures of the
Massachusetts General hospital. Lippincott William&
Wilkins, sixth edition, pp 56-67.
Schricker T, Lattermann R, Carli F (2005). Intraoperative
protein sparing with glucose. Journal of applied physiology,
99, pp 898- 901.
Schricker T, Lattermann R, Fiset P, Wykes L, Carli F (2001).
Intergrated analysis of Protein and Glucose metabolism
during surgery: effect of anesthesia. Journal of applied
physiology, 91, pp 2523-2530.
Sheean P, Brauschweig C (2006). The incidence and impact of
dextrose dose on hyperglycemia from parenteral nutrition
exposure in hematopoietic sterm cell transplant recipients.
Journal of parenteral and enteral nutrition, 30(4), pp 345-350.
Sieber F.E, Smith D.S, Trayman R.J, Wollman H (1987).
Glucose: A reevaluation of its intraoperative use.
Anesthesiology, 67, pp 72 – 81.
Weissmann C (1990). The metabolic response to stress: An
overview and update. Anesthesiology, 73, pp 308-327.

Welborn L.G, McGill W.A, Hannallah R.S, Nisselson C.L,
Ruttimann U.E, Hicks J.M (1986). Perioperative blood glucose
concentrations in pediatric outpatients. Anesthesiology, 65, pp
543-547.
Zucker H.A, Nicolson S.C, Steven J.M, Jobes D.R, Betts E.K
(1998). Blood glucose concentrations during anesthesia in
children undergoing hypothermic circulatory arrest.
Anesthesiology, 59(3A), p A739

Chuyên Đề Nội Khoa

5


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009

6Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 13 * Phụ bản của Số 1 * 2009

Chuyên Đề Nội Khoa

Nghiên cứu Y học

7




×