Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.39 KB, 5 trang )
iện và có tỉ lệ
tử vong cao. Andrew Deryke và cs tiến hành
nghiên cứu về dịch tễ học, điều trị và tử vong do
viêm phổi bệnh viện có nhiễm trùng huyết do S.
aureus trên 206 bệnh nhân trong 5 năm từ 19992004 nhận thấy rằng viêm phổi do S.aureus phát
triển chậm trên bệnh nhân thở máy tại ICU và tử
vong 55,5% so với tử vong chung và không có sự
khác nhau về tử vong và thời gian nằm viện giữa
điều trị thích hợp sớm và điều trị thích hợp trễ,
giữa VPBV do S.aureus nhậy methicillin và
kháng methicillin khi điều trị vancomycin. Kết
quả từ nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên
cứu của Osmon và cs (11). Điều này cho thấy nhu
cầu một thuốc mới ngoài vancomycin trong điều
trị tác nhân này(3).
Oxacillin, nafcillin và cefazolin được dùng
cho nhiễm trùng MSSA. Vancomycine được xem
là tiêu chuẩn vàng điều trị MRSA trước đây.
Trong vòng 2 thập niên qua MIC gia tăng làm
giảm nhạy cảm với vancomycin (MIC trung gian
(vancomycin intermediate susceptibility S. aureus
(VISA)) với MICs 4–8 mg/l hay kháng hoàn toàn
(vancomycin-resistant S. aureus (VRSA)) với
MICs >8 mg/l. ngoài ra, một số chủng MRSA có
40
hiện tượng giảm nhạy cảm với vancomycin,
(MIC creep). Những vi khuẩn này vẫn còn nhạy
bằng test nhạy cảm nhưng cần nồng độ cao
vancomycin gần mức trung gian để ức chế vi