Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Nhiễm trùng huyết do burkholdeia pseudomallei (melioidosis) báo cáo ca lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.02 KB, 6 trang )

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Nghiên cứu Y học

NHIỄM TRÙNG HUYẾT DO BURKHOLDEIA PSEUDOMALLEI
(MELIOIDOSIS) BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
Nguyễn Thị Thủy Ngân*, Đỗ Thị Ngọc Khánh *, Lê Khắc Quyến *

TÓM TẮT
Melioidosis là bệnh nhiễm trùng gây ra bởi trực khuẩn gram âm Burkhoderia pseudomallei (trước đây là
Pseudomonas pseudomallei). Bệnh thường gặp ở các nước Đông Nam Á và miền Bắc nước Úc, là một bệnh nhiệt
đới ít được chú ý đến trong chẩn đoán và điều trị. Những năm đầu thế kỷ 21, với sự bùng nổ của các bệnh nhiễm
do virus và vi trùng trên sức khỏe cộng đồng, melioidosis được quan tâm nhiều hơn vì tỉ lệ tử vong cao và việc
điều trị khó khăn. Hơn nữa, Burkholderia pseudomallei còn là một tác nhân được quan tâm trong chế tạo các loại
vũ khí khủng bố sinh học. Do đó, việc chẩn đoán sớm và dự đoán được loại vi khuẩn này gây bệnh trong những
trường hợp nhiễm trùng huyết nặng giúp cho việc lựa chọn kháng sinh thích hợp có thể cải thiện được tỉ lệ tử
vong. Chúng tôi báo cáo một trường hợp nặng được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết do Burkholderia
pseudomallei, viêm phổi nặng, suy hô hấp trên bệnh nhân đái tháo đường type I, nhiễm ceton acid, béo phì và
được điều trị thành công.
Từ khóa: Melioidosis, Burkholderia pseudomallei (B.pseudomallei), nhiễm trùng huyết, viêm phổi nặng, đái
tháo đường type 1, nhiễm ceton acid, béo phì.

SUMMARY
SEPTICAEMIA DUE TO BURKHOLDERIA PSEUDOMALLEI (MELIOIDOSIS) A CASE REPORT
Nguyen Thi Thuy Ngan, Do Thi Ngoc Khanh, Le Khac Quyen
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 147 - 152
Melioidosis is an infectious disease caused by the gram- negative bacterium Burkholderia pseudomallei
(formerly called Pseudomonas pseudomallei). This disease occurs in Southeast Asia and northern Australia but is
one of neglected tropical diseases in diagnosis and treatment. Until recent years of 21st century, together with the
viral and bacterial infection outbreaks in public health, melioidosis is more considerable because of high mortality
rate and difficult therapy. Moreover, Burkholderia pseudomallei is considerable as an agent of terrorism biological


weapons. Therefore, the early diagnosis and bacterial prediction for severe cases will help to choose appropriate
antibiotics and can reduce the mortality. We report a septicemia, severe pneumonia, acute respiratory failure case
caused by Burkholderia pseudomallei on patient with diabetes type I, ketoacidosis and obesity that was treated
successfully.
Keywords: Melioidosis, Burkholderia pseudomallei, septicemia, pneumonia, diabetes type I, ketoacidosis and
obesity.
còn gọi là trực khuẩn Whitmore, là loại trực
ĐẶT VẤN ĐỀ
trùng gram âm, hiếu khí, di động, sống nội bào.
Nhiễm trùng gây ra bởi Burkholderia
Vi trùng này sống trong đất, cát…tại các cánh
pseudomallei (Melioidosis) chưa được chú ý nhiều
đồng trồng lúa, các vùng nước tù đọng trong
ở Việt Nam. Bệnh này còn có tên khác là bệnh
khu vực Đông Nam Á và Bắc Úc. Ở miền Nam
Whitmore, do Whitmore tìm ra tại Myanma năm
Việt Nam từ năm 1992-1998, Parry et al. đã phân
1911. Burkholderia pseudomallei (B.pseudomallei)
lập được 15/71 chủng từ đất có độc lực về mặt
* Khoa Bệnh Nhiệt Đới - BV Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: TS.BS Lê Khắc Quyến

ĐT: 0903944434

Email:

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

147



Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Nghiên cứu Y học

sinh học(5). Người mắc bệnh do tiếp xúc với
nguồn đất và nước bị ô nhiễm qua các vết trầy
xước ở ngoài da hoặc do hít phải bụi nhiễm vi
khuẩn, xảy ra khá phổ biến trong mùa mưa.
Theo thống kê của khoa Vi Sinh - bệnh viện Chợ
Rẫy, số trường hợp bị nhiễm B.pseudomallei càng
tăng dần: năm 2009 có 83 ca, 2010: 76 ca và 2011:
85 ca. Bệnh có thể gặp ở các khoa lâm sàng
nhưng thường gặp ở khoa cấp cứu, hồi sức tích
cực, nội tiết, và bệnh nhiệt đới. Bệnh có thể tiến
triển nhanh, nhiều biến chứng ở các cơ quan phủ
tạng, trong khi chẩn đoán xác định thường chậm
vì chờ kết quả phân lập vi trùng. Vì vậy, điều trị
thường khó khăn và tỉ lệ tử vong rất cao nếu
điều trị kháng sinh ban đầu và điều trị hồi sức
không không thích hợp. Chúng tôi báo cáo một
trường hợp điển hình nhiễm Burkholderia
pseudomallei được điều trị thành công tại Khoa
Bệnh Nhiệt Đới-Bệnh viện Chợ Rẫy.

TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG
Bệnh nhân nam, sinh 1994. Nghề nghiệp: học
sinh. Địa chỉ: Biên Hoà, Đồng Nai. Nhập viện:
09/12/2011. Số nhập viện: 114238. Lý do nhập
viện: sốt và khó thở.


Bệnh sử
Cách nhập viện 2 tuần, bệnh nhân sốt cao, ho
khạc đàm ít, kèm chóng mặt. Bệnh tự điều trị
không giảm. 5 ngày trước nhập viện, bệnh nhân
đến bệnh viện đa khoa Thống Nhất Đồng Nai
trong tình trạng: sốt cao liên tục, ho khó thở ngày
càng tăng, đau đầu, mệt. Xét nghiệm ghi nhận
bạch cầu máu 19.7 G/L (Neu: 89,1%), CRP 119
ng/L, đường huyết cao, ceton máu dương tính,
phết họng có nấm, X-quang phổi ghi nhận nhiều
nốt mờ không đồng nhất phổi phải. Bệnh nhân
được chẩn đoán là nhiễm trùng huyết nặng,
viêm phổi phải do vi trùng và nấm , đái tháo
đường type I có nhiễm ceton acid, rối loạn
chuyển hóa lipid máu, tăng huyết áp, hạ kali
máu trên bệnh nhân béo phì. Điều trị trong 4
ngày với ceftiaxone 2 g/ngày sau đó đổi
imipenem (Tienam) 1g phối hợp levofloxacine
750 mg, fluconazol 300mg, fenofibrat và insuline

148

truyền tĩnh mạch 8 IU/giờ. Lâm sàng bệnh nhân
không cải thiện: sốt cao liên tục, khó thở tăng
dần nhịp thở 30 lần/phút nên bệnh nhân được
chuyển bệnh viện Chợ Rẫy.

Tiền căn
Bản thân

Không có tiền căn tiểu đường. Trước nhập
viện có ghi nhận triệu chứng ăn nhiều, uống
nhiều, tiểu nhiều. Thể trạng bệnh nhân béo
phì (90kg).
Gia đình
Mẹ mắc bệnh đái tháo đường type II.

Tình trạng bệnh nhân
Tại khoa cấp cứu (09/12/2011)
Bệnh nhân trong tình trạng tỉnh, đừ, không
phù. Thể trạng béo phì (cân nặng: 90kg, cao: 165
cm, BMI # 33,05). Mạch (M) 90 lần/phút; Huyết
áp (HA) 100/ 60 mmHg; nhịp thở 30 lần/ phút;
Nhiệt độ 38,2ºC. Da niêm hồng nhạt, không dấu
xuất huyết, không sang thương da. Hạch ngoại
vi không sờ chạm. Tim đều rõ, không âm thổi.
Phổi ran ẩm, nổ 2 bên, bên phải nhiều hơn bện
trái. Bụng mềm, mập mỡ, không điểm đau khu
trú. Gan, lách không sờ chạm. Cổ mềm. Không
dấu thần kinh định vị, không giới hạn vận động.
Chẩn đoán sơ bộ: Theo dõi Nhiễm trùng huyết Viêm phổi - Đái tháo đường type I.
Xét nghiệm tại cấp cứu
Công thức máu: Hồng cầu (HC): 4.55T/L;
Bạch cầu (BC):15,1 G/L; Đa nhân: 77,1 %; Tiểu
cầu (TC): 151 G/L; Đường huyết (ĐH): 193mg/dl;
Ceton máu: 90mg/dl; Na+: 131 mEq/L; K+: 3,7
mmol/L. Chức năng gan trong giới hạn bình
thường. BUN 15 mg%, creatinin 1,26 mg%;
Procalcitonin (PCT) > 10ng/ml. Khí máu động
mạch: pH:7.33; pO2: 89 mmHg; pCO2: 16.1

mmHg; HCO3: 8.4 mmol/l; BEecf:-17.4 mmol/l.
X-Quang phổi: thâm nhiễm dạng nốt mờ 2 bên
phổi, bên (P) nhiều hơn bên (T). Bệnh nhân được
cấy máu lần 1(Hình 1).

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

Nghiên cứu Y học

BEecf:-12.6mmol/l. Xét nghiệm huyết thanh chẩn
đoán viêm phổi không điển hình âm tính (M.
pneumoniae, L. pneumoniae, C. pneumoniae).
Xét nghiệm cấy máu lần 3, x quang phổi ngày
11/12 và ngày 13/12/2011: thâm nhiễm dạng nốt
mờ cả 2 phổi tăng thêm (Hình 2).

Hình 1: XQ phổi lần 1(09/12/2011): thâm nhiễm
dạng nốt mờ 2 bên phổi, P>T
Xử trí tại Cấp cứu
Thở oxy qua canula. Đặt Catheter tĩnh mạch
dưới đòn. Kháng sinh: Cilapenem 1g pha NaCl
0.9% 100ml TTM XXX g/p, Insulin actrapid
50IU/50ml NaCl 0,9% bơm điện 3 IU/giờ, truyền
dịch. Sau đó được chuyển đến khoa nội tiết với
chẩn đoán: Hôn mê nhiễm ceton acid - viêm
phổi phải nghi do nấm.


Tại khoa Nội tiết (từ 9/12/2011 đến
11/12/2011)
Bệnh nhân nhập vào khoa nội tiết trong tình
trạng tỉnh, đừ, sốt cao liên tục, thở nhanh nông
28-30l/p, mạch (M):100 lần/phút, huyết áp
(HA):110/60mmHg. Có dấu mất nước và loét
họng. Tim đều và phổi ran nổ 2 bên Đường
huyết/2 giờ: 300 xuống 180 mg/dl. Ceton máu
(10/12): 60mg/dl sau đó âm tính (13/12). TPTNT:
đường: 500 mg%, đạm:100mg%, máu:50HC/µl.
BUN: 14 mg%, Creatinin: 1,06mg%. Na: 125, K:
3,6 mmol/l. Phết họng: có nấm men. Cấy nước
tiểu: vi trùng không mọc, có nấm. Cấy đàm: vi
trùng thường trú, có nấm. BK đàm âm tính. Xét
nghiệm cấy máu lần 2 (10/12/2011). CRP: 519.1
mg/L, PCT:291 ng/ml. KMĐM: pH:7.37, pO2:65
mmHg, pCO2:21.7mmHg, HCO3:12.7mmol/l,

Hình 2: XQ phổi lần 3 (13/12/2011): Thâm nhiễm
dạng nốt mờ cả 2 phổi tăng thêm.
Điều trị tại khoa nội tiết
Thở oxy qua mask, dịch truyền, kháng
sinh imipenem 2g/24giờ phối hợp vancomycin
2g/ngày x 5 ngày. Hội chẩn khoa hô hấp 02
lần, bổ sung kháng sinh ciprofloxacine
0,6g/24giờ x 2 ngày, Sporal 0,2g/24 giờ x 4
ngày, Insulin Actrapid 6 IU/giờ. Điều trị
không đáp ứng. Bệnh diễn tiến nặng hơn, sốt
cao liên tục và khó thở tăng.
Kết quả 2 lần cấy máu (9/12 và 10/12):

Burkholderia pseudomallei. Kháng sinh đồ:
nhạy với ceftazidim, imipenem, meropenem,
trimethoprim/ sulfamethoxazole, doxycycline,
ceftriaxon,
cefoperazon/
sulbactam,
ciprofloxacin, piperacilline/ tazobactam; Kháng:
colistin, ticarcillin/ clavulanic acid, cefepim,
gentamycin, netilmycin và amikacin.
Bệnh nhân được hội chẩn và chuyển đến

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012

149


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

khoa Bệnh Nhiệt đới với chẩn đoán: nhiễm trùng
huyết do Burkholderia Pseudomallei, viêm phổi
nặng, suy hô hấp/ đái tháo đường type I- nhiễm
Ceton acid trên bệnh nhân béo phì.

Tại khoa Bệnh Nhiệt Đới (13/12/201111/01/2012)
Tiếp tục điều trị với imipenem TTM nhưng
tăng liều lên 2g x 3/ngày, phối hợp ceftazidim
TM 2g x 4/ ngày (bơm tiêm điện 9ml/h - sau đó
tiêm tĩnh mạch). Ngưng kháng sinh vancomycin

và ciprofloxacin. Tiếp tục kiểm soát đường bằng
insulin actrapid (TTM) sau đó chuyển sang điều
trị insulin mixtard (TDD) 15UI (5:00AM), 12UI

Hình 3: XQ phổi lần 5(19/12/2011): thâm nhiễm mờ
hai phế trường giảm.
Bệnh nhân được xuất viện ngày 12/01/2012,
cấp toa và tái khám liên tục theo dõi tại khoa
Bệnh Nhiệt đới trong 6 tháng với kháng sinh
duy trì doxycyclin 100mg 2v x 2/ ngày, bactrim
960mg 3viên x2 /ngày và kiểm soát đường huyết
với insulin mixtard.

BÀN LUẬN
Melioidosis thường xảy ra trên những bệnh
nhân có các yếu tố nguy cơ như cơ địa suy giảm
miễn dịch, tiểu đường, suy thận mạn, sỏi thận,
nghiện rượu, xơ gan, thalassemie, điều trị với các

150

(17:00 PM).
- Sau 3 ngày, sốt giảm dần, bớt khó thở, lâm
sàng cải thiện tốt dần. Sau 28 ngày, bệnh nhân
khoẻ, hết sốt, tự thở êm, sinh hiệu ổn. XQ phổi:
Thâm nhiễm hai phế trường giảm dần và sau
cùng còn tổn thương dạng xơ hoá 2 bên (Hình 3,
hình 4). Cấy máu lần 3(12/12): B. pseudomallei;
Cấy máu lần 4 (19/12/2011) có kết quả ngày 26/12
âm tính. Các xét nghiệm khác đều cải thiện:

BC:15.39G/L xuống 5,1 G/L tỉ lệ N:86% xuống
71%. PCT: 9.38 xuống 0,2 ng/ml. Đường huyết
dao động 100 đến 130mg%. HbA1C:10,9%.

Hình 4: XQ phổi lần 7(29/12/2011): thâm nhiễm ít bên
đáy P, tổn thương dạng xơ hoá .
thuốc ức chế miễn dịch như corticosteroids dài
ngày.(Currie et al.(2), Esters et al(4). Đái tháo đường
là yếu tố nguy cơ thường gặp nhất trong bệnh
melioidosis, chiếm khoảng 45% trường hợp.
Phần lớn các bệnh nhân nhiễm Burkholderia
pseudomallei có một hoặc nhiều yếu tố nguy cơ kể
trên. Bệnh cũng có thể xảy ra ở trẻ em và người
lớn khỏe mạnh, mặc dù biến chứng nặng và tử
vong ít xảy ra hơn. Trong trường hợp này, bệnh
nhân có bệnh đái tháo đường type I mới mắc, có
nhiễm ceton acid và đáp ứng tốt với điều trị
bằng Insulin. Tiền sử gia đình có mẹ mắc bệnh

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
đái tháo đường type II nên hội đủ yếu tố nguy cơ
mắc bệnh. Bệnh nhân sống trong vùng dịch tễ
của bệnh Melioidosis ở miền Nam Việt Nam, tuy
bệnh nhân là học sinh không làm những công
việc tiếp xúc với đất cát như những người làm
ruộng, rẫy, nhưng khi khai thác bệnh sử có ghi
nhận bản thân thường xuyên đá banh nên vi

trùng có cơ hội xâm nhập qua các vết thương da.
Bệnh thường ghi nhận vào mùa mưa (Currie et
al.(2), Esters et al.(4) và Parry et al.(6), trường hợp
bệnh này của chúng tôi xảy ra vào tháng 11 cũng
phù hợp với thời điểm vẫn còn mưa nhiều cuối
năm 2011.
Hình ảnh lâm sàng của melioidosis đa
dạng: viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết là bệnh
cảnh phổ biến nhất. Tỷ lệ tử vong của bệnh rất
cao: 25-76%, tỷ lệ tái phát cũng cao vì vi trùng
sống trong nội bào(2,4). Nhiễm trùng B.
pseudomallei có thể không có triệu chứng, tuy
nhiên bệnh có thể chuyển nặng nhanh chóng
thành các thể bệnh nặng trên lâm sàng khi có
các yếu tố thuận lợi như phẫu thuật, suy giảm
miễn dịch, bệnh ác tính.
Nhiễm trùng nặng trên lâm sàng xảy ra trên
bệnh nhân có nhiều yếu tố nguy cơ. Thời gian ủ
bệnh 1 - 21 ngày. Bệnh cấp (triệu chứng kéo dài
dưới 2 tháng). Bệnh mãn (triệu chứng kéo dài
trên 2 tháng). Nhiễm trùng tiềm tàng và tái hoạt
hóa đến 29 năm đã được ghi nhân trong y văn
(Vietnamese Time Bomb)(2;4). Đặc điểm lâm sàng
của bệnh Melioidosis thường gặp ở dạng nhiễm
trùng huyết (tối cấp, choáng), viêm phổi (cấp, tối
cấp, mãn, giống lao), loét da hoặc áp xe lách, gan,
thận, tiền liệt tuyến, viêm tuyến mang tai. Xquang phổi trong bệnh Melioidosis thường ở
dạng thâm nhiễm nốt 47%, thâm nhiễm phế
nang 23% rất dễ nhầm lẫn viêm phổi do tụ cầu
hoặc lao. Trường hợp bệnh này của chúng tôi Xquang phổi có hình ảnh như viêm phổi đốm rất

dễ nhầm với tổn thương phổi do vi khuẩn
Staphylococcus aureus.
Hiện nay, chẩn đoán xác định melioidosis
chủ yếu dựa vào phân lập được B. pseudomallei;
các xét nghiệm khác: kháng nguyên và kháng

Nghiên cứu Y học

thể thể đặc hiệu với các phương pháp ELISA,
PCR… vẫn chưa được thực hiện tại bệnh viện
Chợ Rẫy. Tuy nhiên, nhuộm gram các bệnh
phẩm như mủ, dịch khớp, đàm,... có thể giúp gợi
ý sớm về trực khuẩn gram âm lưỡng cực trong
khi chờ xét nghiệm cấy để định danh và phân
biệt với Burkholderia cepacia. Vi trùng này có tính
kháng nội tại với nhiều kháng sinh:
Cephalosporin thế hệ 1, 2, Penicilline,
Macrolides, Aminoglycosis, colistin,…và nhạy
với Cephalosporin thế hệ 3, Carbapenem,
Chloramphenicol,
Tetracyclin,
Trimethoprim/sulfamethoxazol
(TMP(1,2,3,4,7)
SMX)
.
Về điều trị trong giai đoạn tấn công:
ceftazidime liều cao tĩnh mạch hoặc imipenem
hoặc meropenem ít nhất 10-14 ngày phối hợp
thêm với TMP-SMX, giai đoạn thải trừ: TMPSMX phối hợp Doxycyclin 20 tuần (có tỉ lệ tái
phát

3%).
Ciprofloxacin
phối
hợp
Azithromycin trong 12 tuần (tái phát 22%),
trong khi đó Amoxycyclin/ clavulanic acid
được sử dụng cho trẻ em và phụ nữ có thai(1;4).
Trường hợp này, bệnh nhân được chẩn đoán
nhiễm trùng huyết nặng nên được sử dụng
kháng sinh Imipenem từ bệnh viện tỉnh, vào
khoa Cấp cứu và Nội tiết được phối hợp thêm
với vancomycine và ciprofloxacine. Khi có kết
quả cấy máu, đã phân lập được vi trùng là
B.pseudomallei, việc ngưng kháng sinh
vancomycin được thực hiện. Điều trị kháng
sinh được tiếp tục với imipenem, tuy nhiên vì
bệnh nhân có cân nặng đến 90kg, liều
imipenem sử dụng thông thường sử dụng ban
đầu tại khoa cấp cứu và nội tiết không đủ để
kiểm soát bệnh, cấy máu ba lần sau điều trị
đều cho kết quả dương tính với B.
pseudomallei. Từ khi tăng liều kháng sinh
Imipenem và phối hợp ceftazidim tại khoa
bệnh nhiệt đới bệnh mới khống chế được hoàn
toàn. Kết quả cấy máu lần 4 âm tính chứng
minh được hiệu quả của việc điều trị với
phương pháp phối hợp kháng sinh, đảm bảo
nồng độ thuốc trên nồng độ ức chế tối thiểu

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012


151


Nghiên cứu Y học

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013

(MIC) đối với vi trùng cũng như đạt thể tích
phân phối thuốc đến các cơ quan đích. Liệu
pháp xuống thang và duy trì trong giai đoạn
thải trừ đảm bảo điều trị tiệt căn đối với vi
trùng này. Kinh nghiệm của chúng tôi trong
sử sụng ceftazidim trong giai đoạn tấn công
bằng việc bolus kháng sinh liều đầu và duy trì
bơm tiêm điện liên tục đảm bảo duy trì nồng
độ thuốc ổn định đóng góp vào sự thành công
của việc điều trị.
Một vấn đề hết sức quan trọng góp phần
thành công trong trường hợp này, ngoài việc
chọn lựa kháng sinh trị liệu hợp lý, đó là cần
phải thực hiện tốt kiểm soát đường huyết, việc
sử dụng insulin actrapid giúp đưa đường
huyết trở về giới hạn cho phép và đưa cetone
máu trở lại âm tính. Nhiễm trùng không thể
khống chế được nếu đường huyết không được
kiểm soát tốt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


2.
3.

4.

KẾT LUẬN
Nhiễm trùng huyết gây ra do B. pseudomallei
là một bệnh nhiễm trùng nặng. Bệnh nhân
thường nhập viện trong tình trạng tổn thương
hầu hết các cơ quan (nhiễm trùng huyết, choáng
nhiễm trùng, viêm phổi, áp xe gan, lách, viêm
tuyến mang tai, viêm khớp…). Việc chẩn đoán
thường bị nhầm lẫn và điều trị chậm. Để chẩn
đoán cần lưu ý về yếu tố dịch tể như mùa mưa,
nghề nghiệp, địa phương…, và các yếu tố nguy

152

cơ của bệnh như tiểu đường, suy thận mạn, sỏi
thận, xơ gan, nghiện rượu hoặc cơ địa suy giảm
miễn dịch… Việc chẩn đoán sớm kịp thời và
chọn lựa kháng sinh thích hợp giúp cải thiện
được tỉ lệ sống còn và tiên lượng bệnh. Nhuộm
gram các bệnh phẩm rất hữu ích trong chẩn
đoán, giúp chọn lựa được kháng sinh điều trị
ban đầu thích hợp, trong khi chờ phân lập được
vi trùng. Để phòng bệnh tái phát việc tiếp tục
ðiều trị kháng sinh củng cố kéo dài sau giai ðoạn
tấn công trong thời gian ít nhất 4-6 tháng được

khuyến cáo (3).

5.

6.
7.

Cheng A.C et al (2004). Outcomes of patients with melioidosis
treated with meropenem. Antimicrobial agents and
chemotherapy, 1763-65.
Currie B et al (2011). Epidermiology, pathogenesis, clinical
manifestations and diagnosis of melioidosis. Uptodate 2011.
Dance DAB (2001). Melioidosis.. Essential of Tropical Infectious
Diseases. Richard L. Guerrant; David H Walker; Peter F. Weller
2001. Chapter 31. P203-207.
Esters DM. et al., (2010). Present and future therapeutic
strategies for melioidosis and glanders. Expert. Rev. Anti.
Infect. Ther., 8(3): 325-38.
Parry C.M. et al (1999). Melioidosis in southern Vietnam:
Clinical surveillance and enviromental sampling. Clinical
infectious diseases, 29: 1323-26.
Tsai WC et al (1998). Septicemic melioidosis in southern
Taiwan: a case report. J Microbiol Immunol Infect, 31:137-40.
Wirongrong C et al (2005). Two Randomized Controlled Trials
of Ceftazidime Alone Versus Ceftazidime in Combination with
Trimethoprim- Sulfamethoxazol Fot The Treatment of Severe
Melioidosis. CID, 41, 1105-13.

Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012




×