Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BẢO TỒN
KHÔNG MỔ VỠ GAN CHẤN THƯƠNG
Ngô Quang Duy*, Nguyễn Văn Hải**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả kết quả điều trị bảo tồn không mổ (ĐTBTKM) vỡ gan do chấn thương (VGCT) tại bệnh
viện Nhân Dân Gia Định.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang không nhóm chứng. Tất cả
các trường hợp VGCT được chọn để ĐTBTKM từ 01/2008 đến hết 12/2012 tại bệnh viện Nhân Dân Gia Định.
Kết quả: Có tất cả 116 t.h VGCT được chọn để điều trị ĐTBTKM, bao gồm 80 bệnh nhân nam và 36 bệnh
nhân nữ. Tuổi trung bình là 31,17 ±15,64 (lớn nhất 82 tuổi, nhỏ nhất 16 tuổi). Tỷ lệ thành công ĐTBTKM là
90,5%. Thất bại phải chuyển qua phẫu thuật hay làm tắc mạch ở 9,5% t.h. Ở 67 t.h có chụp CT bụng, mức độ
VGCT theo AAST là: 7,46% độ I, 35,82% độ II, 44,77% độ III, 10,44% độ IV và 1,51% độ V. Biến chứng của
ĐTBTKM gặp ở 20 t.h(17,24%), gồm sốt (12,06%), tụ dịch dưới gan (0,85%), rò mật (3,04%) và tràn dịch
màng phổi 1 t.h (0,85%). Thời gian nằm viện trung bình là 6,35 ngày, trong đó có 77t.h (66,38%) không phải
nằm điều trị ở khoa hồi sức.
Kết luận: Với bệnh nhân VGCT có tình trạng huyết động ổn định, không có các tổn thương kèm trong ổ
bụng cần can thiệp ngoại khoa, mức độ tổn thương gan nhẹ thì ĐTBTKM có tỷ lệ thành công cao, là điều trị an
toàn, tỷ lệ biến chứng thấp.
Từ khóa: Điều trị bảo tồn không mổ. Vỡ gan chấn thương.
ABSTRACT
RESULTS OF NON‐OPERATIVE MANAGEMENT FOR BLUNT LIVER TRAUMA
Ngo Quang Duy, Nguyen Van Hai * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ No 6 ‐ 2013: 166 ‐ 171
Objective: To describe the results of non‐operative management (NOM) for blunt live trauma at Gia
Đinh’s people hospital.
Methods: Retrospective cross‐sectional study without control group. All patients (pts) with blunt liver
trauma hospitalizedfrom 01/2008 to 12/2012 at Gia Dinh’speople hospital who were selected initially for NOM.
Results: There were 116 pts, including 80 males and 36 females with the mean age was 31.17 ±15.64 years
(range 16‐82 years). Successful rate of NOM was 90.5%. Emergency surgery or TAE was necessary in 9.5% of
pts to controll bleeding. About severity of liver trauma in 67 pts with abdominal CT, there were 7.46% of pts
with grade I, 35.82% of pts with grade II, 44.77% of pts with grade III, 10.44% of pts with grade IV and 1.51%
of pts with grade V. Complications occurred in 20 pts (17.24%), including 14 fever (12.06%), 1 subhepatic fluid
collection (0.85%), 4 bile leakage (3.04%) and 1 pleural effusion (0.85%). The mean hospital stay was 6.35 days.
Staying in surgical ICU was not necessary in 77 pts (66.38%).
Conclusion: In patients who have blunt liver trauma with stable hemodynamic status, no associated
abdominal injuries requiring surgical intervention, mild to moderated hepatic damage; successful rate of NOM is
high. NOM is safe with low complication rate.
Keywords: Non‐operative manegment, Blunt liver trauma
* Khoa Ngoại Tiêu Hóa- Bệnh viện Nhân Dân Gia Định - ** Đại học Y dược TP
Tác giả liên lạc: BS.CKI. Ngô Quang Duy ĐT 0905995070 Email :
166
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vỡ gan do chấn thương (VGCT) là một cấp
cứu thường gặp trong chấn thương bụng, đòi
hỏi phải chẩn đoán đúng và xử trí thích hợp. Với
tiến bộ về chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt là
MSCT, chẩn đoán VGCT hiện nay không khó,
thậm chí có thể chẩn đoán được từng mức độ vỡ
gan. Cũng vì vậy, điều trị VGCT đã có thay đổi
lớn trong hơn 2 thập kỷ qua. Từ chỉ định mổ
hàng loạt trước đây đã chuyển qua điều trị bảo
tồn là chính và chỉ mổ trong những trường hợp
vỡ gan nặng hay có tổn thương phối hợp.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy khoảng
71%‐ 94% bệnh nhân VGCT có thể được điều trị
bảo tồn không mổ (ĐTBTKM) với tỷ lệ thành
công 85%‐ 94%. Tại bệnh viện Nhân Dân Gia
Định, điều trị bảo tồn không mổ VGCT đã được
áp dụng từ đầu những năm 2000 và ngày càng
trở thành một cách điều trị đầu tay cho những
VGCT mà huyết động còn ổn định. Tiếp theo
công trình nghiên cứu trước đây của bệnh viện
chúng tôi về điều trị VGCT nói chung, nghiên
cứu này được thực hiện nhằm:(1) xác định tỷ lệ
thành công của điều trị bảo tồn không mổ
VGCT(2). Xác định tỷ lệ phân độ vỡ gan ở các
trường hợp điều trị bảo tồn không mổ và(3) xác
định tỷ lệ các biến chứng của điều trị bảo tồn
không mổ VGCT.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Tất cả những bệnh nhân VGCT nhập bệnh
viện Nhân Dân Gia Định từ 01/2008 đến hết
12/2012 được chỉ định ĐTBTKM ngay từ đầu.
Những bệnh nhân được chỉ định mổ ngay từ
đầu được loại trừ khỏi nghiên cứu này.
Phương pháp
Nghiên cứu được thiết kế theo kiểu hồi cứu
mô tả cắt ngang, không nhóm chứng.
Xác định mức độ tổn thương gan dựa trên
CT theo phân loại của Hiệp hội Phẫu thuật Chấn
thương Hoa Kỳ (American Association for the
Surgery of Trauma‐ AAST) (Bảng 1). Các biến
Nghiên cứu Y học
số thu thập chính là: tuổi, giới, nguyên nhân chấn
thương, tình trạng huyết động, mức độ tổn
thương gan, các tổn thương kèm theo, tỷ lệ
thành công, biến chứng.
Bảng 1.Phân độ vỡ gan theo AAST
Độ Tổn Thương
I
Tụ máu
Tổn thương
nhu mô
II
III
IV
V
VI
Mô tả
Dưới bao: < 10% diện tích bề mặt.
Sâu < 1cm
Tụ máu
Dưới bao: 10-50% diện tích bề mặt.
Trong nhu mô: kích thước < 10cm.
Tổn thương
nhu mô
Sâu: 1-3 cm, dài: < 10cm.
Tụ máu
Dưới bao: > 50% diện tích bề mặt.
Trong nhu mô: kích thước > 10cm.
Vỡ khối tụ máu.
Tổn thương
nhu mô
Sâu: > 3 cm.
Vỡ 25-75% thuỳ.
Vỡ 1-3 phân thuỳ trong một thuỳ gan.
Vỡ > 75% thuỳ.
Tổn thương
nhu mô
Vỡ > 3 phân thuỳ trong một thuỳ gan.
Tổn thương mạch máu chính của gan
Mạch máu (tĩnh mạch trên gan) hay lân cận gan
(tĩnh mạch chủ dưới)
Mạch máu
Đứt lìa cuống gan
Tổn thương
nhu mô
KẾT QUẢ
Trong thời gian 5 năm, chúng tôi có 148 t.h
VGCT, trong đó có 116 t.h(78,38%) được chọn để
ĐTBTKM ngay từ đầu. Tỷ lệ thành công của
ĐTBTKM là 105/116 t.h (90,5%). Chỉ có 11t.h
(9,5%) phải chuyển mổ hay làm tắc mạch
(Transarterial embolism ‐TAE).
Bảng 2: Đặc điểm dịch tể học, lâm sàng và xét
nghiệm
Tỷ lệ nam/nữ
Độ tuổi trung bình
Nguyên nhân chấn thương
TNLT
TNLĐ
TNSH
Tình trạng huyết động ổn
khi nhập viện
Bụng mềm
Hct > 30%
Nồng độ Hb
N
80/36
32,17± 15,64
Tỷ lệ (%)
81
18
17
106
69,83
15.51
14,66
91,38%
106
103
123,54 ± 27,67
mg/dL
91,38%
88,79%
Đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và xét
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
167
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
nghiệm liên quan đến 116 bệnh nhân VGCT
được ĐTBTKM như trên bảng 2.
máu tiếp diễn ở vỡ gan độ III và IV. Bảy t.h phải
mổ và 4 t.h được làm tắc mạch.
Có 80t.h là nam và 36t.h là nữ. Tỉ lệ nam/nữ
là 2,2: 1. Bệnh nhân nhỏ tuổi nhất là 16 tuổi, lớn
nhất là 82 tuổi, tuổi trung bình 31,17± 15,64 tuổi.
Có 20t.h (19,3%) bị biến chứng khi
ĐTBTKM, chủ yếu sốt 14t.h(70%). Số còn lại (6
t.h – 30%) là tụ dịch dưới gan, rò mật và tràn
dịch màng phổi (TDMP). Không có tử vong
trong lô nghiên cứu.
Về nguyên nhân chấn thương, tai nạn lưu
thông chiếm 81 t.h (69,83%)%, tiếp theo là tai
nạn lao động 18 t.h(18,51%) và tai nạn sinh hoạt
17t.h (14,66%).
Có 106/116 t.h (91,38%) nhập viện với tình
trạng huyết động ổn và chỉ 10/116 t.h (8,62%)
nhập viện với huyết động không ổn lúc đầu, số
này sau khi được hồi sức tại cấp cứu thì huyết
động cải thiện nên vẫn được chọn ĐTBTKM.
Đa số trường hợp VGCT được chọn
ĐTBTKM đều có tình trạng bụng mềm (chiếm lệ
98,28%) và Hct > 30% (chiếm 88,79%).
Về chẩn đoán hình ảnh, SA ghi nhận có tổn
thương gan ở 83,62% t.h và có dịch bụng ở
62,07% t.h; trong khi đó CT bụng phát hiện có
tổn thương gan ở 98,52% t.h và có dịch bụng ở
70,15% t.h.
Phân độ tổn thương gan theo AAST ở bệnh
nhân được ĐTBTKM dựa 67t.h có CT bụng ghi
nhận 88,05% VGCT mức độ nhẹ (độ I, II, III),
trong khi có 10,44% VGCT độ IVvà 1,51%
VGCT độ V. Không có VGCT độ VI(bảng 3).
Bảng 3: Phân độ vỡ gan nhóm ĐTBTKM
Độ I
Độ II
Độ III
Độ IV
Độ V
Độ VI
N
5
24
30
7
1
0
Tỷ lệ ( %)
7,46
35,82
44,77
10,44
1,51
0
Có 64/116t.h (55,17%) VGCT đơn thuần,
52t.h (44,83%) chấn thương gan có kèm chấn
thương phối hợp ở 1 hay nhiều cơ quan khác.
Thời gian nằm viện trung bình của
ĐTBTKM là 6,35± 3,13 ngày, trong đó có 77t.h
(66,38%) không cần theo dõi ở hồi sức. Ở 39t.h
cần theo dõi tại hồi sức thì có 22/39 t.h (56,4%)
nằm tại hồi sức dưới 3 ngày (Bảng 4).
Bảng 4: Kết quả điều trị
Chấn thương gan đơn thuần
Chấn thương gan phối hợp
*Thời gian nằm viện
+ Không nằm ở hồi sức
+ Nằm ở hồi sức
<3 ngày
3-7 ngày
> 7 ngày
*Thời gian nằm viện trung
bình (ngày)
Biến chứng
+ Sốt, nhiễm khuẩn huyết
+ Tụ dịch dưới gan,
+ Dò mật
+TDMP
N
64
52
77
Tỷ lệ(%)
55,17
44,83
66,38
39
22
16
1
6,35±3,13
33,62
18,97
13,79
0,86
20
14
1
4
1
17,24
12,07
0,8
3,4
0,8
BÀN LUẬN
ĐTBTKM vỡ gan do chấn thương đã có
nhiều thay đổi trong những thập niên gần
đây.Do có nhiều phương tiện tốt hơn để chẩn
đoán, theo dõi và hồi sức nên tỷ lệ ĐTBTKM vỡ
gan ngày càng tăng. Các tiêu chuẩn sau chọn
bệnh ban đầu để ĐTBTKM cho VGCT thường
là: huyết động ổn định hay nhanh chóng ổn
định khi vào viện, khám bụng không có dấu
kích thích phúc mạc, trên siêu âm hoặc CT bụng
tổn thương gan đơn giản, dịch ổ bụng lượng ít
hay vừa và không có dấu hiệu thoát mạch.
Trong nghiên cứu 5 năm của chúng tôi (từ
01/2008 ‐12/2012), có 148 bệnh nhân nhập viện vì
chấn thương gan, trong đó 116 t.h thỏa tiêu
chuẩn chọn cho ĐTBTKM, chiếm tỷ lệ 78,38%.
Kết quả này gần bằng số liệu VGCT được
ĐTBTKM trong nghiên cứu của tác giả Martin
Coore là 82%(10), J.David Richardson là 80%(15 và
cao hơn số liệu trong nghiên cứu trước đây của
Nguyễn Văn Hải và Đỗ Hoài Kỷ là 53,7%(13).
Nguyên nhân thất bại của 11t.h đều là chảy
168
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Với những bệnh nhân VGCT được lựa chọn
để ĐTBTKM từ đầu, chúng tôi có tỷ lệ thành
công tương đối cao (105/116 t.h – 90,5%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi nguyên
nhân VGCT do tai nạn lưu thông chiếm 69,83%,
tai nạn lao động và tai nạn sinh hoạt gần bằng
nhau lần lượt 15,51% và 14,66%. Tuổi bị VGCT
thường là tuổi trẻ. Nghiên cứu của chúng tôi ghi
nhận tuổi trung bình là 32,17 tuổi, tỷ lệ nam/nữ
là 2,2: 1. Độ tuổi trung bình bị VGCT trong
nhiều nghiên cứu cũng dao động từ 20 đến 30
tuổi; bệnh nhân nam vẫn chiếm ưu thế (2,5,19,3).
Hầu hết các nghiên cứu đều nhấn mạnh tiêu
chuẩn huyết động của bệnh nhân ổn định lúc
nhập viện là quan trọng nhất trong số các tiêu
chuẩn để chọn lựa ĐTBTKM cho VGCT(16,17,18).
Chúng tôi cũng có 106/116 t.h (91,38%) có huyết
động ổn lúc nhập viện. Các dấu hiệu lâm sàng ở
bệnh nhân chấn thương gan được chọn
ĐTBTKM chủ yếu là trầy xướt dưới sườn phải
(DSP), đau khu trú DSP và bụng còn mềm với tỉ
lệ lần lượt là 43,97%; 87,93% và 98,28%.
Việc chẩn đoán chấn thương gan vào thời
điểm tiếp cận bệnh nhân khi vào viện của chúng
tôi có nhiều thuận lợi vì có sẵn SA, CT scan
bụng. Tác giả Carmen Garcia Bernardo cho rằng
SA và CT có độ nhạy và độ đặc hiệu cao trong
chẩn đoán VGCT(4). Nghiên cứu của chúng tôi
ghi nhận SA giúp chẩn đoán được VGCT ở 83,62
% t.h và CT giúp chẩn đoán được ở 98,53% t.h.
Tuy nhiên, theo tác giả Hossam Hamdy, CT
bụng không nhất thiết phải chỉ định cho tất cả
các trường hợp VGCT mà chỉ nên dành cho các
trường hợp cần thiết để đánh giá giúp cho can
thiệp bằng phẫu thuật(9). Chúng tôi cũng không
sử dụng CT bụng một cách thường qui. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, siêu âm vẫn là khảo
sát ban đầu. Ưu điểm của siêu âm là có độ nhậy
và độ đặc hiệu tương đối cao(80‐95%), ít xâm
lấn, dễ làm, thực hiện nhanh chóng và có thể
làm lại nhiều lần trong quá trình theo dõi
ĐTBTKM(5).
Trong nghiên cứu của chúng tôi có 11t.h
(9,5%) được ghi nhận ĐTBTKM thất bại phải
Nghiên cứu Y học
chuyển qua phẫu thuật hoặc làm thuyên tắc
mạch. Thời gian theo dõi chuyển mổ ghi nhận từ
24 giờ đến 48 giờ. Trong 11t.h, có 6 t.h phải mổ
mở khâu cầm máu do biểu biện chảy máu tiếp
diễn và viêm phúc mạc, 4t.h được thuyên tắc
mạch và 1 t.h mổ vì nghi ngờ tụ dịch mật trong
ổ bụng. Tất cả các t.h mổ sau khi theo dõi đều ổn
định và được xuất viện. Không có trường hợp
nào tử vong. Tỷ lệ thất bại của ĐTBTKM vỡ gan
theo các nghiên cứu thay đổi từ 11 đến 15%(5,19,6).
Riêng tác giả Ajai k.Malhotra có tỷ lệ thất bại
7,5% trong 560t.h được ĐTBTKM(1).
Về mức độ tổn thương gan, nhiều tác giả
khác chọn ĐTBTKM chủ yếu cho VGCT độ I, II
và III(20,12). Một số tác giả chọn cả VGCT độ IV và
V cho ĐTBTKM miễn là huyết động còn ổn
định(3). Trong nghiên cứu của chúng tôi có 7 t.h
vỡ gan độ IV và 1t.h vỡ gan độ V. Theo chúng
tôi, VGCT độ IV hay V mà thỏa các tiêu chuẩn
chọn lựa, nhất là huyết động ổn định, và không
có dấu hiệu thoát mạch trên CT thì vẫn có thể
ĐTBTKM bước đầu, nhưng phải theo dõi sát và
sẵn sàng cho tình huống thất bại phải chuyển
qua phẫu thuật. Với những t.h có dấu hiệu đang
thoát mạch (thì động mạch) trên CT mà huyết
động bệnh nhân còn cho phép, nếu có trang bị,
có thể thực hiện làm tắc mạch để cầm máu,
tránh đi một cuộc mổ(7). Chúng tôi đã có 4 t.h
được làm tắc mạch thành công.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 20t.h
(19,3%) có biến chứng liên quan đến ĐTBTKM,
chủ yếu là sốt có lẽ do nhiễm khuẩn hay hoại tử
tế bào gan phần gan bị chấn thương. Chỉ có 1
trường hợp tụ dịch máu dưới gan, 4t.h có rò mật
và 1 t.h có tràn dịch màng phổi. Chúng tôi đã
điều trị bằng kháng sinh trong các trường hợp
nhiễm khuẩn, chọc hút ổ tụ dịch, hay làm nội soi
mật tuy ngược dòng (ERCP) để giải áp đường
mật…Tất cả các trường hợp sau khi điều trị các
biến chứng đều ổn định, không có tử vong.
Trong chọn lựa bệnh nhân VGCT để
ĐTBTKM, nếu chúng ta bỏ sót các thương tổn
của các cơ quan khác trong ổ bụng như là dập
vỡ ruột non, dập vỡ tụy hay các cơ quan khác
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
169
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
Nghiên cứu Y học
thì sẽ làm tăng tỷ lệ thất bại cũng như biến
chứng và tử vong. Nhờ có CT bụng, chúng tôi
không có t.h nào có tổn thương kèm ở cơ quan
khác bị bỏ sót. Tỷ lệ bỏ sót chẩn đoán này theo
y văn là 0,5‐12%(11).
Việc theo dõi ĐTBTKM bằng CT bụng vẫn
còn tranh luận. Nhiều nghiên cứu đã đề xuất
chụp lại CT bụng 7 – 10 ngày sau chấn thương
để đánh giá lại. Một số tác giả khuyên chụp lại
CT bụng có chọn lọc dựa vào mức độ vỡ gan
hay dựa vào diễn tiến của bệnh. Nhiều tác giả
cho rằng, đối với bệnh nhân có VGCT mức độ
nhẹ, diễn tiến lâm sàng tốt thì không cần chụp
lại CT bụng mà chỉ cần theo dõi bằng siêu âm.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, hầu hết các
bệnh nhân chỉ được theo dõi bằng siêu âm bụng
để kiểm tra dịch ổ bụng và tình trạng của cơ
quan tổn thương. Chúng tôi cũng đồng ý rằng,
việc theo dõi bệnh nhân ĐBTKM vỡ gan do chấn
thương bằng CT bụng nên dành cho bệnh nhân
VGCT độ IV, V. Còn lại, chỉ cần theo dõi lâm
sàng, xét nghiệm phối hợp với siêu âm bụng là
đủ.
Chọn lựa ĐTBTKM cho VGCT, nhất là
VGCT độ IV, V thường đồng nghĩa với thời
gian nằm viện kéo dài vì phải theo dõi đến khi
ổn, vì phải xử trí các biến chứng có thể có(7).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, thời gian nằm
viện trung bình 6,35± 3,13 ngày, bệnh nhân có
thời gian nằm viện lâu nhất là 29 ngày, và
ngắn nhất là 1 ngày. Nghiên cứu của chúng tôi
có thời gian nằm viện trung bình thấp hơn một
số tác giả khác, như nghiên cứu của tác giả
Hayan A. Bismar là 9‐12 ngày, nghiên cứu của
George C.Velmahos là 13 ngày Gustav
Norrman là 14 ngày(4,8,14).
Vì phần lớn bệnh nhân của chúng tôi là
VGCT độ III trở lại nên có đến 77t.h (66,38%)
không phải nắm điều trị ở khoa hồi sức. Ở 39t.h
còn lại thì có 22t.h phải nằm điều trị ở hồi sức
dưới 3 ngày. Có 1 t.h phải nằm hồi sức trên 7
ngày vì bệnh nhân ĐTBTKM thất bại, sau đó
được chỉ định làm tắc mạch, đến ngày thứ 5 tình
trạng chảy máu vẫn tiếp diễn, có dấu hiệu kích
170
thích phúc mạc nên được chuyển mổ khâu gan
cầm máu.
KẾT LUẬN
Với bệnh nhân VGCT có tình trạng huyết
động ổn định, không có các tổn thương kèm
trong ổ bụng cần can thiệp phẫu thuật, mức độ
tổn thương gan nhẹ (độ III trở lại) thì
ĐTBTKM có tỷ lệ thành công cao, là điều trị an
toàn, tỷ lệ biến chứng thấp. Tuy nhiên, việc
thực hiện ĐTBTKM vỡ gan do chấn thương
cần được thực hiện ở các trung tâm có khoa
hồi sức và đội ngũ phẫu thuật viên có kinh
nghiệm để can thiệp kịp thời các trường hợp
ĐTBTKM thất bại. Trong theo dõi ĐTBTKM,
tình trạng huyết động, dung tích hồng cầu và
mức độ dịch ổ bụng là những thông số cần
được đánh giá thường xuyên để quyết định
tiếp tục hay chấm dứt ĐTBTKM kịp thời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ajai k.Malhotra, Timothy C.Fabian, et al(2000), “Blunt hepatic
injury: A paradigm shiff from operative to nonoperative
management in the 1990s”, Ann Surg, , 231 (6): pp.804‐813.
2. Ayman Zaki Azzam, et al (2013) “The role of non‐operative
management (NOM) in blunt hepatic trauma”; Alexandria
Journal of Medecine;, 49: pp.223‐227
3. Beuran M, Negoi I, et al (2010), “ Nonoperative management of
high degree hepatic trauma in the patient with risk factors for
failure: have we gone too far?”, Journal of Medicine and Life,
3(3): pp.289‐296.
4. Bismar HA, Alam MK, et al (2004), “Outcome of nonoperative
management of blunt live trauma”, Saudi Medicine Journal, , 25
(3): pp.294‐298.
5. Carmen Garcia Bernardo, et al (2010) “ Treatment of Live
Trauma:
Opertive
or
conservative
management”,
Gastroenteology Research; 3(1): pp.9‐18
6. Croce MA, Fabian TC, et al(1991), “Factor affecting morbidity
following hepatic trauma”, Ann.Surg, , 213 (6): pp.540‐547.
7. Demetriades D, Hadjizacharia P 2006, et al, “Selective
nonoperative management of penetrating abdominal solid
organ injuries”, Ann Surg , 244 (4): pp.620‐628.
8. Giannopoulos GA, et al (2009) “ Non‐operative management of
blunt abdominal trauma.Is it safe an feasible in a district general
hospital?”, Scand J Trauma, Resuscitation and Emergency
Medicine, 17: pp.22
9. Hamdy H, et al “Evaluation of management options for
traumatic live injuries”; Egypt J Surg, 31(1).
10. Letoublon C., Arvieux C (2002),, “Nonoperative management of
blunt hepatic trauma”, Minerva Anesthesiol, 68: pp.132‐137.
11. Markogiannakis H, Sanidas E, Messaris E 2006,, “Management
of blunt hepatic and splenic trauma in a Greek level I trauma”,
Acta Chir Belg, 106: pp. 566‐571.
12. Nguyễn Thanh Phước (2002), “Điều trị vỡ gan chấn thương”,
Luận án Thạc sỹ Y học, trường ĐHYD TP.HCM.
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Số 6 * 2013
13. Nguyễn Văn Hải, Đỗ Hoài Kỷ (2006), “Kết quả điều trị vỡ gan
chấn thương”, Ngoại Khoa, tập 56, số 4: tr.31‐39
14. Norrman G, , et al (2009) “Non‐operative management of blunt
live trauma: feasible and safe also in centres with a low trauma
incidence”, Hepato‐Pancreato‐biliary; 11:pp.50‐56.
15. Richardson JD, Frankin GA, et al (2000), “Evolution in the
management of hepatic trauma: A 25‐year perspective”, Ann
Surg, 232(3): pp.324‐330.
16. Trần Bình Giang và cs (2006), “Chỉ định và kết quả bước đầu
điều trị bảo tồn không mổ chấn thương gan tại bệnh viện Việt
Đức 2004‐2005”, Ngoại Khoa, tập 56, số 4: tr. 97‐104.
17. Trần Vĩnh Hưng, (2006) “ Điều trị bảo tồn không mổ chấn
thương gan do chấn thương bụng kín”, Ngoại Khoa, tập 56 , số
4; tr. 9‐20.
18. Trịnh Hồng Sơn và cs,(1999) “Chấn thương và vết thương gan
Nghiên cứu Y học
phân loại mức độ tổn thương, chẩn đoán và điều trị (198 trường
hợp trong 6 năm 1990 ‐1995)”, Tạp chí Y học thực hành, 1999, số
1, tr 40‐46.
19. Velmahos GC, Toutouzas K, et al (2003), “High success with
nonoperative management of blunt hepatic trauma”, Arch
Surg, , 138: pp.475‐481.
20. Zargar M, Laal M, “Liver Trauma: Operative and Non‐
operative Management”, International Journal of Collaborative
Research on Internal Medicine & Public Health, 2(4): pp.96‐107.
Ngày nhận bài báo
Ngày phản biện nhận xét bài báo
Ngày bài báo được đăng
Hội Nghị Khoa Học Công Nghệ BV. Nhân Dân Gia Định năm 2013
15/8/2013
01/10/2013
10/12/2013.
171