Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Các giải pháp quản lý của phòng giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 128 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đang chuyển sang thời kỳ phát triển mới, đó là thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong bối cảnh hội nhập chung hiện
nay, Đảng và Nhà nước ta đã chọn giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là
khâu đột phá, phát huy yếu tố con người, coi con người " vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự phát triển". Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 1992 đã ghi " giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu".
Chính vì vậy, mục tiêu của giáo dục nước ta là " đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mĩ, và nghề nghiệp,
trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và
bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân đáp ứng yêu cầu xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: " Giáo
dục và Đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền
tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ".
Thực hiện: " Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ
chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy học. Thực hiện chuẩn hoá,
hiện đại hoá, xã hội hoá, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam...”.
Xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý: " Bảo đảm đủ số lượng,
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên ở tất cả các cấp học, bậc học”. Tiếp tục
" Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của
cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục".
Đứng trước những yêu cầu mới của sự phát triển giáo dục trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục còn bộc lộ những hạn chế, bất cập là: Số lượng giáo viên còn thiếu
nhiều, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Cơ

1



cấu giáo viên đang mất cân đối giữa các môn học, bậc học, các vùng, miền.
Chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ nhà giáo có mặt chưa đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục và phát triển kinh tế - xã hội, đa số vẫn dạy theo lối
cũ, nặng về truyền đạt lý thuyết, ít chú ý đến phát triển tư duy, năng lực sáng
tạo, kỹ năng thực hành của người học; một bộ phận nhà giáo thiếu gương mẫu
trong đạo đức, lối sống, nhân cách, chưa làm gương tốt cho học sinh, sinh
viên noi theo. Đội ngũ quản lý còn thiếu so với định mức; số lượng cán bộ
quản lý có trình độ chuyên môn trên chuẩn, được bồi dưỡng về chuyên môn
nghiệp vụ quản lý, bồi dưỡng về lý luận chính trị từ trung cấp trở lên còn
thấp. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chưa cao, trình
độ và năng lực điều hành quản lý còn bất cập, đặc biệt trong tham mưu, chỉ
đạo và tổ chức thực hiện. Năng lực xây dựng kế hoạch, kiểm tra đánh giá
trong quá trình chỉ đạo và tổng kết các nhiệm vụ giáo dục của cán bộ quản lý
giáo dục còn hạn chế. Một số cán bộ quản lý còn tư tưởng ỷ lại, thiếu chủ
động, trông chờ sự chỉ đạo " cầm tay chỉ việc " của cấp trên.
Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục chưa ngang tầm với yêu
cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục. Chế độ, chính sách còn bất hợp lý,
chưa tạo được động lực đủ mạnh để phát huy tiềm năng của đội ngũ cán bộ
quản lý.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và yếu kém:
Công tác xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng giáo viên của ngành
giáo dục đào tạo chưa sát thực tế; kế hoạch tuyển dụng đội ngũ giáo viên hàng
năm còn hạn chế; do vậy tình hình thừa thiếu giáo viên cục bộ, không đồng
bộ về cơ cấu môn học, theo vùng chưa được khắc phục.
Công tác bồi dưỡng giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục chất lượng và
hiệu quả chưa cao; phương pháp bồi dưỡng chưa đổi mới, hình thức bồi
dưỡng còn đơn điệu.

2



Công tác kiểm tra đánh giá còn hình thức. Công tác thanh tra, đánh giá,
xếp loại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục hàng năm chưa thường
xuyên.
Thực hiện phân cấp trong quản lý giáo dục về tổ chức cán bộ chưa sát
yêu cầu trong chỉ đạo chuyên môn.
Một bộ phận cán bộ quản lý, giáo viên, chưa nhận thức đầy đủ về vai
trò trách nhiệm và yêu cầu nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn,
đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới về nội dung giáo dục đào tạo trong
tình hình mới, cá biệt còn giáo viên thiếu ý chí và quyết tâm tu dưỡng phấn
đấu về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống, chuyên môn nghiệp vụ, làm giảm
sút niềm tin của học sinh, cha mẹ học sinh và nhân dân đối với sự nghiệp giáo
dục đào tạo.
Hệ thống văn bản pháp quy còn thiếu, chưa đáp ứng cho công tác giáo
dục đào tạo, những vấn đề lý luận phát triển giáo dục, thực hiện quan điểm
giáo dục là quốc sách hàng đầu chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức.
Sự bất cập giữa nhu cầu của xã hội với thực tế phát triển giáo dục chưa
được giải quyết triệt để. Nền kinh tế thị trường, xu thế toàn cầu hoá ảnh
hưởng không nhỏ tới phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ mới.
Để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục có nhiều yếu tố trong đó có
yếu tố đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục đóng vai trò quan trọng. Quản lý giáo
dục và chất lượng của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục là những yếu tố mang
tính quyết định đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Bởi lẽ
người cán bộ quản lý giáo dục vừa giữ vai trò và trách nhiệm của nhà giáo,
vừa giữ vai trò và trách nhiệm của nhà quản lý giáo dục thực hiện tốt việc
đảm bảo chất lượng giáo dục.
Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan trọng trong việc tổ chức, quản
lý, điều hành các hoạt động giáo dục hướng vào việc nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục trong nhà trường. Cán bộ quản lý giáo dục phải không
ngừng học tập rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn,


3


năng lực quản lý và trách nhiệm cá nhân. Nhà nước, ngành giáo dục có kế
hoạch xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục
nhằm phát huy vai trò và trách nhiệm của cán bộ quản lý giáo dục, bảo đảm
phát triển sự nghiệp giáo dục.
Sự nghiệp giáo dục tỉnh Bắc Giang nói chung, sự nghiệp giáo dục
huyện Lục Nam nói riêng trong những năm vừa qua đã có nhiều cố gắng và
nỗ lực để đổi mới công tác quản lý giáo dục; nhưng chất lượng giáo dục nhìn
chung còn thấp, hiệu quả giáo dục chưa cao.... Một trong những nguyên nhân
của sự yếu kém là chất lượng ( phẩm chất, năng lực, trình độ,...) của đội ngũ
cán bộ quản lý trường học chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục
trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, cùng với các địa phương khác trong và
ngoài tỉnh cần khẩn trương nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý các
trường học trong đó có trường tiểu học.
Với tư cách người cán bộ chỉ đạo cấp học tiểu học của Phòng Giáo dục
huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang, bản thân luôn quan tâm, kỳ vọng sự nghiệp
giáo dục huyện Lục Nam sớm có những tiến bộ để đáp ứng yêu cầu xã hội.
Trong đó đội ngũ cán bộ quản lý là một trong những yếu tố quyết định chất
lượng và hiệu quả giáo dục. Quản lý của Phòng Giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học là yêu cầu cấp thiết không thể
thiếu được.
Đã có một số công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục nói chung. Những thành quả nghiên cứu về lĩnh vực
này đã được ứng dụng vào thực tiễn và đã mang lại hiệu quả nhất định. Tuy
vậy, việc đề xuất các giải pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý trường tiểu học huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang thì chưa có công
trình nghiên cứu nào đề cập tới.

Chính vì lý do trên chúng tôi chọn đề tài " Các giải pháp quản lý của
Phòng Giáo dục nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu
học ".

4


2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu để đề xuất một số giải pháp quản lý của Phòng Giáo dục
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học.
3. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Công tác quản lý của Phòng Giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học.
3.2 Đối tƣợng nghiên cứu
Các giải pháp quản lý của Phòng Giáo dục nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học trước yêu cầu đổi mới giáo dục.
4. Giả thuyết khoa học
Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học có ý nghĩa quyết
định đối với chất lượng giáo dục ở trường tiểu học.
Nếu áp dụng một cách đồng bộ và sáng tạo các giải pháp quản lý của
Phòng Giáo dục ( Công tác cán bộ, tổ chức cán bộ, công tác bồi dưỡng đội
ngũ, chế độ chính sách hợp lý...) do tác giả đề xuất thì chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý trường tiểu học huyện Lục Nam tỉnh Bắc Giang sẽ được ổn định
và nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ quản lý trường tiểu học.
Tìm hiểu thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
và thực trạng công tác quản lý của Phòng Giáo dục huyện Lục Nam tỉnh Bắc

Giang đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu
học.
Đề xuất một số giải pháp quản lý của Phòng Giáo dục nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học huyện Lục Nam tỉnh Bắc
Giang đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu

5


Chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu để tìm ra những giải pháp quản lý
chủ yếu của Phòng Giáo dục Lục Nam tỉnh Bắc Giang nhằm nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ quản lý các trường tiểu học trong địa bàn huyện Lục
Nam tỉnh Bắc Giang.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các văn bản, tài
liệu khoa học, sách ,... có liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm các phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát, phương pháp điều tra, phương pháp chuyên gia
7.3. Các phƣơng pháp hỗ trợ khác
8. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục
nội dung luận văn trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý của việc quản lý nhằm nâng cao
chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học.
Chương 2: Thực trạng chất lượng và quản lý nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ quản lý của Phòng GD huyện Lục Nam – tỉnh Bắc Giang.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp quản lý của Phòng GD nhằm nâng
cao chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học trước yêu cầu đổi mới giáo
dục.


6


Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆC QUẢN LÝ
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ
TRƢỜNG TIỂU HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Ở ngoài nước
Trung hoa cổ đại, vào khoảng 500 đến 300 năm trước Công nguyên, đã
xuất hiện các tư tưởng quản lý nhân sự của Khổng Tử nhằm mục đích đào tạo
lớp người cai trị xã hội từ triết lý đạo nhân. Khổng Tử và các học trò của ông
đã tiếp cận một cách khái quát các yếu tố nhân và lễ , nhân và lễ nghĩa, nhân
và trí, nhân và dũng, nhân và tín, nhân và lợi, lợi và nghĩa, lợi và thành vào
việc truyền đạo. Với việc đúc kết các yếu tố nhân, lễ, nghĩa, trí, dũng, tín, lợi,
thành để đi đến các hình mẫu về phẩm chất và năng lực của người quản lý xã
hội như "quân tử" và "kẻ sĩ". Tư tưởng nói trên, đã thể hiện những quan điểm
nâng cao chất lượng những cán bộ quản lý trong xã hội lúc bấy giờ [22].
Cuối thế kỷ XVIII, Robert

Owen (1771-1858), Charles Babbage

(1792- 1871) và Andrew Ure (1778- 1875) ở Phương Tây đã đưa ra ý tưởng:
muốn tăng năng xuất lao động, cần tập trung giải quyết một số yếu tố chủ yếu
như phúc lợi, giám sát công nhân, mối quan hệ giữa người quản lý đối với
người bị quản lý và đặc biệt là nâng cao trình độ quản lý cho các nhà quản lý.
Tiếp đó FrederickWinslow Taylor (1856- 1915) với bốn nguyên tắc quản lý
khoa học đã đề cập tới nâng cao chất lượng của người quản lý [22, tr.89].

7



Tại Pháp, Henri Fayol (1841- 1915) đã đưa ra 5 chức năng cơ bản của
quản lý hành chính. Theo ông, nếu người quản lý có đủ phẩm chất và năng
lực kết hợp nhuần nhuyễn các chức năng, các quy tắc và nguyên tắc quản lý
thì thực hiện được mục tiêu quản lý và dẫn đến thực hiện được mục tiêu của
tổ chức [22, tr.42].
Ở thế kỷ XX vào những thập kỷ 70- 80, một trường phái tiếp cận về
quản lý trên cơ sở xem xét những yếu tố văn hoá đã xuất hiện trong đó có nêu
những nét văn hoá quản lý vừa thể hiện ở phẩm chất vừa thể hiện ở năng lực
người quản lý. Cũng trong thời kỳ này, việc nghiên cứu quản lý trên cơ sở
xem xét tổng thể, thì lý thuyết sơ đồ 7S: Structure (cơ cấu), Strategy (chiến
lược), Skills (các kỹ năng), Style ( phong cách), System (hệ thống) và Shared
value (các giá trị chung) và đặc biệt là Staff (đội ngũ) đã xuất hiện. Khi phân
tích về đội ngũ người đọc thấy được giá trị về chất lượng đội ngũ quản lý
trong việc đạt tới mục tiêu của tổ chức [11, tr.28].
Khi xã hội công nghiệp phát triển có dấu tích của sự bùng nổ thông tin
và dần chuyển thành xã hội thông tin (cuối thế kỷ XX đến nay), đã có các
công trình nghiên cứu về quản lý trong môi trường luôn luôn biến đổi, quản lý
theo quan điểm hệ thống, quản lý theo tình huống [11, tr.29] thì vấn đề nâng
cao chất lượng của người quản lý thực sự đã được đề cập tới. Tiêu biểu nhất
là công trình của ba tác giả Harold Koontz, Cyril Odonnell, Heinz Weihrich
với tác phẩm nổi tiếng là “ Những vấn đề cốt yếu của quản lý” (NXB Khoa
học và kỹ thuật Hà Nội - 1994). Công trình này đã đề cập nhiều hơn về các
yêu cầu chất lượng của người quản lý.
Năm 1991, Tổ chức UNESCO đã cho xuất bản cuốn “Quản lý hành
chính và sư phạm trong các nhà trường tiểu học” của Jean Valerien [34].
Thông qua việc giới thiệu một số modul về vai trò, chức năng về nhiệm vụ
của người hiệu trưởng trường tiểu học; tác giả đã có quan điểm vai trò, trách
nhiệm và yêu cầu chất lượng của người hiệu trưởng.


8


Gần đây, Vương Lạc Thu và Tưởng Nguyệt Thần (Trung quốc) đã có
công trình khoa học lãnh đạo hiện đại (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội2000) [52], trong đó có hẳn một chương nêu lên vấn đề chất lượng và hiệu
quả quản lý của cán bộ lãnh đạo và quản lý.
1.1.2. Ở trong nước
Hồ Chí Minh (1890- 1969) tư tưởng về quản lý giáo dục: khi bàn về
công tác cán bộ, Người khẳng định "cán bộ là cái gốc của mọi công việc",
"mọi thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém", "có cán bộ tốt thì
việc gì cũng xong" [55].
Các nhà khoa học Việt Nam đã chắt lọc những vấn đề tinh tuý nhất của
hầu hết các tác phẩm về quản lý của nước ngoài để thể hiện trong các công
trình nghiên cứu của mình về những vấn đề chất lượng của người quản lý (
NXB Lao động, Hà Nội - 1982) [36]; Kiều Nam với cuốn Tổ chức bộ máy
lãnh đạo và quản lý ( NXB Sự thật, Hà Nội - 1983) [40]; Nguyễn Minh Đạo
với cuốn Cơ sở của Khoa học quản lý ( NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997) [27]; Đỗ Hoàng Toàn với cuốn Khoa học tổ chức và quản lý - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn ( Trung tâm nghiên cứu Khoa học tổ chức và quản
lý- NXB Thống kê, Hà Nội - 1999) [53],... đã đề cập tới nhiều khía cạnh quan
trọng của chất lượng cán bộ quản lý của một tổ chức; trong đó có chất lượng
của đội ngũ cán bộ quản lý.
Với góc độ lý luận quản lý giáo dục, các nhà khoa học Việt Nam đã
tiếp cận quản lý trường học chủ yếu dựa trên nền tảng lý luận giáo dục học.
Hầu hết các cuốn giáo dục học của các tác giả Việt Nam có đề cập tới chất
lượng và phương thức nâng cao chất lượng cán bộ quản lý trường học thông
qua việc phân tích thành tố lực lượng giáo dục. Như cuốn Phương pháp luận
khoa học giáo dục ( Phạm Minh Hạc- Tổng chủ biên- 1981- Viện Khoa học
giáo dục ấn hành) [29]; Quá trình sư phạm - Bản chất, cấu trúc và tính quy
luật của Hà Thế Ngữ, 1986 [41]; Giáo dục học đại cương của Nguyễn Sinh

Huy và Nguyễn Văn Lê, 1999 [32]; Tuyển tập Giáo dục học - Một số vấn đề

9


lý luận và thực tiễn của Hà Thế Ngữ, 2001. Kiểm định chất lượng giáo dục
đại học của Nguyễn Đức Chính ( chủ biên), NXB Đại học Quốc Gia Hà Nội,
2002 [17].
Nhìn chung, vấn đề chất lượng cán bộ quản lý trường học và nâng cao
chất lượng cán bộ quản lý trường học đã được thể hiện ít nhiều trong các công
trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước ( đã nêu trên), nhưng những giải
pháp quản lý để nâng cao chất lượng cán bộ quản lý trường học nói chung và
cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng thì chưa có công trình nghiên cứu cụ
thể nào đề cập đến chính vì vậy mà chúng tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài
nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài:
1.2.1. Quản lý
Có nhiều cách hiểu về quản lý, tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau:
W.Taylor cho rằng: " Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người
khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và
rẻ nhất" [22, tr.68].
Trung tâm Nghiên cứu khoa học tổ chức, quản lý đã nêu ra: "quản lý là
một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến khách thể quản
lý nhằm đạt mục tiêu chung,.... Quản lý là một nghệ thuật đạt được mục tiêu
đã đề ra thông qua việc điều khiển, phối hợp, hướng dẫn, chỉ huy hoạt động
của những người khác" [7, tr.176].
Theo Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì: " Quản lý là hoạt
động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý ( người quản lý) đến
khách thể quản lý ( người bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức
vận hành và đạt được mục đích của tổ chức" [11, tr.1].

Theo Trần Quốc Thành: " Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể
quản lý để chỉ huy, điều khiển hướng dẫn các quá trình xã hội của nhà quản
lý, phù hợp với quy luật của khách quan" [50].

10


Qua những định nghĩa trên ta thấy rõ quản lý có những nét đặc trưng cơ
bản về bản chất của hoạt động quản lý như sau:
- Quản lý gồm hai thành phần là chủ thể và khách thể quản lý.
" Ai quản lý": đó là chủ thể quản lý. Chủ thể quản lý có thể là một
người hoặc một tổ chức.
" Quản lý ai?", " quản lý cái gì?", " quản lý sự việc gì?": đó là khách
thể quản lý. Khách thể quản lý có thể là người, tổ chức, hay là sự vật cụ thể,
cũng có khi khách thể là người, tổ chức được con người đại diện trở thành chủ
thể quản lý cấp dưới thấp hơn.
- Giữa chủ thể và khách thể quản lý có mối quan hệ tác động qua lại,
tương hỗ nhau, " chủ thể làm nảy sinh các tác động quản lý, còn khách thể thì
sản sinh các giá trị vật chất và tinh thần có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng
nhu cầu của con người, thoả mãn mục đích của chủ thể quản lý" [50]. Chủ thể
quản lý thực hiện các tác động thông qua việc xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ
đạo và kiểm tra - đánh giá việc thực hiện kế hoạch.
Ngày nay, quản lý thường được định nghĩa: Quản lý là quá trình đạt
đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng phối hợp các chức năng: kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Theo chúng tôi: Quản lý là hoạt động có định hướng, có chủ đích của
chủ thể quản lý ( người quản lý) đến khách thể quản lý ( người bị quản lý)
trong một tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng
các chức năng: kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra.
Quản lý cần có thông tin nhiều chiều. Thông tin là nền tảng của quản

lý. Do vậy, có thể coi thông tin là chức năng đặc biệt cùng với bốn chức năng
đã nêu trên. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý được thể hiện tại sơ đồ
sau đây:
Kế hoạch

11


Kiểm tra

Thông tin
quản lý

Tổ chức

Chỉ đạo
Sơ đồ1: Các chức năng cơ bản của quản lý
1.2.2. Quản lý giáo dục
Cũng có nhiều quan điểm về quản lý giáo dục dưới đây:
- Theo học giả M.I.Kônđacôp: " Quản lý giáo dục là tập hợp những
biện pháp tổ chức, cán bộ, kế hoạch hoá, tài chính, cung tiêu,... nhằm đảm bảo
vận hành bình thường của các cơ quan trong hệ thống giáo dục, để tiếp tục
phát triển và mở rộng hệ thống cả mặt số lượng lẫn chất lượng" [39].
- Theo GS. TS Nguyễn Ngọc Quang " Quản lý giáo dục là hệ thống tác
động có mục đích, có kế hoạch hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm
cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng thực hiện
được các tính chất nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ
là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến
tiến lên trạng thái mới về chất"[46].
Theo PGS. TS Trần Kiểm " Quản lý giáo dục thực chất là những tác

động của chủ thể quản lý vào quá trình giáo dục (được tiến hành bởi tập thể
giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã hội) nhằm
hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục tiêu đào tạo
của nhà trường" [35, tr.38].
Theo PGS. TS Đặng Quốc Bảo: " Quản lý giáo dục theo nghĩa tổng
quan là điều hành, phối hợp các lực lượng nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo
thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Ngày nay, với sứ mệnh phát

12


triển giáo dục, công tác giáo dục không chỉ giới hạn ở thế hệ trẻ mà cho mọi
người. Cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ thống giáo dục
quốc dân" [2].
Như vậy, quản lý giáo dục được hiểu theo các cấp độ vĩ mô và vi mô.
Ở cấp độ vĩ mô: quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, có quy luật) của chủ thể quản lý
đến tất cả các mắt xích của hệ thống ( từ cấp cao đến các cơ sở giáo dục là
nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển
giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành giáo dục. Ở cấp vi mô:
quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác ( có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo
viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã
hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu giáo dục của nhà trường.
Như vậy, quản lý giáo dục là quản lý hệ thống giáo dục, là sự tác động
có mục đích, có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể quản lý lên đối
tượng quản lý theo những quy luật khách quan nhằm đưa hoạt động sư phạm
của hệ thống giáo dục đạt đến kết quả mong muốn.
1.2.3. Quản lý nhà trường

Quản lý trường học là một bộ phận của quản lý giáo dục, được xác định
trong một cơ sở giáo dục cụ thể ( trường học).
Quản lý nhà trường là thực hiện hoạt động quản lý giáo dục trong tổ
chức nhà trường. Hoạt động quản lý nhà trường do chủ thể quản lý nhà trường
thực hiện, bao gồm các hoạt động quản lý bên trong nhà trường như: Quản lý
giáo viên, quản lý học sinh, quản lý quá trình dạy học, giáo dục, quản lý cơ sở
vật chất trang thiết bị dạy học, quản lý tài chính trường học, quản lý lớp học
như nhiệm vụ của giáo viên, quản lý mối quan hệ giữa nhà trường và cộng
đồng [Từ điển GD (2001) NXB từ điển BK].

13


Hoạt động quản lý nhà trường chịu tác động của những chủ thể quản lý
bên trên nhà trường (các cơ quan quản lý giáo dục cấp trên) nhằm hướng dẫn
và tạo điều kiện cho hoạt động của nhà trường và bên ngoài nhà trường, các
thực thể bên ngoài nhà trường, cộng đồng nhằm xây dựng những định hướng
về sự phát triển của nhà trường và hỗ trợ tạo điều kiện cho nhà trường phát
triển [Từ điển GD (2001) NXB Từ điển BK].
Theo GS. VS. Phạm Minh Hạc " Quản lý trường học ( nhà trường) là
thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình,
tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu
giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng
học sinh" [29].
Cũng có một số tác giả khác trình bày khái niệm quản lý trường học và
trong các định nghĩa đó vẫn nổi bật cái chung, cái bản chất của quản lý
trường học là quá trình quản lý lao động sư phạm của thầy, hoạt động học tập
và tự giáo dục của trò diễn ra chủ yếu thông qua quá trình dạy học.
Như vậy, quản lý trường học là tập hợp những tác động tối ưu của chủ
thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các bộ phận khác. Tận dụng các

nguồn dự trữ do nhà nước đầu tư cũng như các lực lượng xã hội đóng góp,
hoặc vốn tự có của nhà trường; hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của
nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá trình đào tạo thế hệ trẻ, tất cả nhằm
thực hiện có chất lượng mục tiêu và kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến
đến một trạng thái mới.
Chúng tôi cho rằng: Quản lý nhà trường là những tác động hợp quy luật
của chủ thể quản lý nhà trường ( hiệu trưởng) đến khách thể quản lý nhà
trường ( giáo viên, nhân viên và học sinh,...) nhằm đưa các hoạt động giáo
dục và dạy học của nhà trường đạt tới mục tiêu phát triển giáo dục của nhà
trường.
1.2.4. Chất lượng

14


Theo từ điển Bách khoa Việt Nam: " Chất lượng, phạm trù triết học
biểu thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định
tương đối của sự vật, phân biệt hoá với các sự vật khác. Chất lượng là đặc tính
khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính.
Nó liên kết các thuộc tính của sự vật lại là một, gắn bó sự vật như một tổng
thể, bao quát toàn bộ sự vật và không thể tách khỏi sự vật. Sự vật trong khi
vẫn còn là bản thân nó thì không thể mất chất lượng của nó. Sự thay đổi chất
lượng kéo theo sự thay đổi của sự vật về căn bản. Chất lượng của sự vật bao
giờ cũng gắn liền với tính qui định về số lượng của nó và không thể tồn tại
ngoài tính qui định ấy. Mỗi một sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của chất
lượng và số lượng" [56, tr.419].
Có nhiều quan điểm nhận diện chất lượng. Khi nói về chất lượng giáo
dục, có 6 quan điểm về đánh giá chất lượng mà có thể vận dụng vào nhận
diện chất lượng mọi hoạt động nói chung như: " Chất lượng đánh giá bằng
đầu vào; chất lượng đánh giá bằng đầu ra; chất lượng đánh giá bằng giá trị gia

tăng; chất lượng đánh giá bằng học thuật; chất lượng đánh giá bằng văn hoá tổ
chức riêng và chất lượng được đánh giá bằng kiểm toán" [17; tr.23]. Ngoài 6
quan điểm về đánh giá chất lượng nêu trên, còn có các quan niệm về chất
lượng như:
" - Chất lượng là sự phù hợp với các tiêu chuẩn qui định.
- Chất lượng là sự phù hợp với mục đích.
- Chất lượng với tư cách là hiệu quả của việc đạt mục đích.
- Chất lượng là sự đáp ứng của nhu cầu khách hàng"[17, tr.28].
Những năm gần đây, khái niệm chất lượng được thống nhất sử dụng
khá rộng rãi là định nghĩa theo chuẩn quốc tế ISO 8402: 1994 do tổ chức quốc
tế về tiêu chuẩn hoá ( ISO) đưa ra đã được đông đảo các quốc gia chấp nhận (
và dựa vào đó Việt Nam ban hành tiêu chuẩn TCVN 8402: 1999):
Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể ( đối tượng), tạo
cho thực thể đó khả năng thoả mãn những nhu cầu đã được đề ra. Trong đó

15


thuật ngữ “ thực thể” hay “ đối tượng” bao gồm cả sản phẩm theo nghĩa rộng:
một hoạt động, một quá trình, một tổ chức hay cá nhân [ Nguyễn Quốc Chí (
2000) Quản lý chất lượng sản phẩm theo TQM &ISO. 9000. NXB Khoa học
và Kỹ thuật Hà Nội, trang 39].
1.2.5. Chất lượng giáo dục
Chất lượng giáo dục là một khái niệm mang tính tương đối, động và đa
chiều với nghĩa rộng, hẹp và theo các cách tiếp cận khác nhau.
- Tuy nhiên chất lượng giáo dục có thể được hiểu một cách cụ thể như
sau:
Chất lượng giáo dục theo nghĩa hẹp: Chất lượng giáo dục được quy về
mức độ thực hiện mục tiêu hay kết quả giáo dục. CLGD là sự phù hợp với
mục tiêu giáo dục và được đo bằng các chuẩn mực xác định.

Chất lượng giáo dục theo tiếp cận tổng thể: CLGD được quy cho tất cả
các nhân tố cấu thành giáo dục và các điều kiện bên ngoài giáo dục.
- Chất lượng giáo dục là mức độ đạt được mục tiêu giáo dục và thoả
mãn nhu cầu của người học; là kết quả của quá trình giáo dục được biểu hiện
ở mức độ nắm vững kiến thức, hình thành những kỹ năng tương ứng, những
thái độ cần thiết và được đo bằng các chuẩn xác định: Đổi mới quản lý nhà
trường theo hướng vận dụng tiếp cận “quản lý chất lượng tổng thể”, Tạp chí
Khoa học Giáo dục - Lưu Xuân Mới.
- Chất lượng giáo dục được xác định theo khung tổng quát xét về chức
năng:
Chất lượng đầu vào ( tương ứng với chức năng khởi đầu): là các điều
kiện đảm bảo chất lượng đối với nhà trường: chương trình, nội dung, giáo
viên, cơ sở vật chất- trang thiết bị dạy học, tài chính, quản lý và có tính đến
chất lượng đầu vào của học sinh.
Chất lượng của quá trình dạy học - giáo dục: phương pháp dạy học cải
tiến; kỹ thuật dạy học; tương tác sư phạm giữa giáo viên - học sinh; khai thác

16


tiềm năng của học sinh, thiết bị dạy học, hệ thống đánh giá thích hợp, thời
lượng,...
Chất lượng của kết quả học tập: tiếp thu kiến thức, hình thành kỹ năng,
thái độ và gí trị.
1.2.6. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học
Cán bộ quản lý trường tiểu học là người có phẩm chất chính trị và đạo
đức tốt, nắm vững nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về giáo
dục; có năng lực tổ chức quản lý trường học; xây dựng và tổ chức thực hiện
kế hoạch ngắn hạn cũng như dài hạn; thực hiện tốt công tác kiểm tra nội bộ
trường học, công tác dân chủ hoá nhà trường, quản lý tốt công tác hành chính,

công tác kế hoạch phát triển, thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nội dung,
phương pháp giáo dục. Làm tốt công tác tham mưu, vận động nhân dân, xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh,...
Chất lượng đội ngũ CBQL trường tiểu học thể hiện trên hai mặt cơ bản
của nhân cách người CBQL:
1.2.6.1. Phẩm chất:
Phẩm chất được hiểu là cái làm lên giá trị của người hay sự vật. Phẩm
chất con người được thể hiện qua các mặt như phẩm chất tâm lí, phẩm chất trí
tuệ, phẩm chất ý chí và phẩm chất sức khoẻ và tâm trí.
- " Phẩm chất tâm lí là những đặc điểm thuộc tính tâm lí nói lên mặt
đức ( theo nghĩa rộng) của một nhân cách" [56, tr.426].
- " Phẩm chất trí tuệ là những đặc điểm đảm bảo cho sự nhận thức của
một con người đạt kết quả tốt, bao gồm phẩm chất của tri giác ( nhớ nhanh,
chính xác,..., của tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ và chú ý' [56, tr.427] .
- " Phẩm chất ý chí là mặt quan trọng trong nhân cách bao gồm những
đặc điểm nói lên một con người có ý chí tốt: có chí hướng, có tính mục đích,
quyết đoán, đấu tranh bản thân cao, có tinh thần vượt khó,..." [56, tr.427].
- Ngoài ra, trong thực tiễn phát triển của xã hội hiện nay, các nhà khoa
học còn đề cập tới phẩm chất sức khoẻ thể chất và tâm trí con người; nó bao

17


gồm các mặt rèn luyện sức khoẻ, tránh và khắc phục những ảnh hưởng của
một số bệnh lý mang tính rào cản hoạt động của con người,...
Đội ngũ CBQL trường tiểu học cần có và cần phát huy các phẩm chất
này.
1.2.6.2. Năng lực:
Trước hết " Năng lực là đặc điểm của cá nhân thể hiện mức độ thông
thạo - tức là có thể thực hiện được một cách thành thục và chắc chắn một hay

một số dạng hoạt động nào đó" [59, tr.41].
Người cán bộ quản lý trường tiểu học cần có các năng lực: xây dựng và
tổ chức thực hiện kế hoạch, năng lực tổ chức nhân sự, năng lực chỉ đạo, năng
lực kiểm tra, năng lực thu thập thông tin, xử lý thông tin, truyền đạt và lưu trữ
thông tin.
Năng lực gắn liền với phẩm chất và tâm lý của cá nhân. Năng lực có
thể được phát triển trên cơ sở kết quả hoạt động của con người và kết quả phát
triển của xã hội ( đời sống xã hội, sự giáo dục và rèn luyện, hoạt động của cá
nhân,...).
Qua những khái niệm, cách tiếp cận và những quan điểm đánh giá chất
lượng nêu trên, có thể nhận diện chất lượng cán bộ ở hai mặt chủ yếu là phẩm
chất và năng lực trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
họ. Nói cách khác, khi tiếp cận chất lượng của người cán bộ quản lý thì phải
gắn với nhiệm vụ, chức năng và quyền hạn đã được qui định cho họ. Ví dụ :
Khi nghiên cứu chất lượng cán bộ quản lý trường tiểu học phải gắn nó với
những phẩm chất và năng lực của họ trong khi thực hiện các hoạt động quản
lý nhà trường.
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về yêu cầu của người
cán bộ cách mạng là " vừa hồng, vừa chuyên", trong luận văn này chúng tôi
tiếp cận chất lượng của cán bộ quản lý trường tiểu học trên hai mặt chủ yếu
cấu thành chất lượng cán bộ là phẩm chất (hồng) và năng lực ( chuyên) của họ
[55].

18


1.3. Cơ sở lý luận của việc quản lý nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ
quản lý trƣờng tiểu học
1.3.1. Quản lý đội ngũ
Quản lý đội ngũ được xem là một trong những lĩnh vực quản lý của các

tổ chức và của mọi cán bộ quản lý đối với một tổ chức. Để nâng cao chất
lượng cán bộ quản lý thì không thể thiếu được hoạt động đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ quản lý; đồng thời cần phải có những giải pháp quản lý mang
tính khả thi về lĩnh vực này.
Có nhiều phương pháp nhằm quản lý đội ngũ có hiệu quả như quản lý
bằng chế tài ( pháp lý, quy định, quy ước,...), quản lý bằng kế hoạch, tự quản
lý,...; trong đó tự quản lý là vấn đề quan trọng vì chỉ có tự quản lý, tự hiểu
biết chính mình mới nhận định, đánh giá và điều chỉnh được chính công việc
trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch quản lý một
cách hợp lý, phù hợp với điều kiện và khả năng của mình.
Quản lý đội ngũ phải đảm bảo sự chung sức của cả tổ chức ( nhà
trường) đó là cùng làm việc với nhau trên cơ sở nhận thức chung, mục đích
chung, nhất trí thủ tục, cam kết, hợp tác, giải quyết bất đồng công khai bằng
thảo luận.
Quản lý đội ngũ nói chung và quản lý đội ngũ cán bộ quản lý trường
tiểu học nói riêng là nhiệm vụ quan trọng của các cấp quản lý. Để quản lý đội
ngũ có hiệu quả các nhà quản lý cần xây dựng kế hoạch quản lý phù hợp với
từng điều kiện và khả năng cụ thể, việc quản lý phải áp dụng một cách linh
hoạt nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho mọi cán bộ quản lý được tự khẳng định
mình, tự phát huy hết khả năng và làm việc với đúng lương tâm và trách
nhiệm.
Quản lý đội ngũ cán bộ quản lý

Phát triển

Sử dụng

19

Xây dựng, nuôi dƣỡng



môi trƣờng cho CBQL
phát triển
- Đào tạo

- Tuyển chọn

- Môi trường pháp lý

- Bồi dưỡng

- Bổ nhiệm

- Môi trường sư phạm

- Nghiên cứu khoa học

- Luân chuyển

- Các chế độ chính sách

- Tổng kết và viết sáng - Miễn nhiệm
kiến kinh nghiệm

- Đánh giá
- Khen thưởng
- Kỷ luật

Sơ đồ 2: Sơ đồ quản lý đội ngũ cán bộ quản lý

1.3.2. Quy hoạch, kế hoạch, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
Công tác quy hoạch, xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý và kế
hoạch là một trong những hoạt động quản lý của người quản lý và cơ quan
quản lý. Nó có tác dụng làm cho cơ quan quản lý hoặc người quản lý biết
được về số lượng, chất lượng, cơ cấu tuổi, trình độ và cơ cấu chuyên môn, cơ
cấu giới,.. của từng cán bộ quản lý và của cả đội ngũ cán bộ quản lý; đồng
thời quy hoạch, xây dựng được kế hoạch phát triển đội ngũ nhằm tìm ra các
biện pháp nâng cao chất lượng cho từng cán bộ quản lý và cả đội ngũ CBQL.
Công tác quy hoạch xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý nói
chung, công tác quy hoạch xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý trường
tiểu học nói riêng là nhiệm vụ quan trọng có tính chất chiến lược quyết định
chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và chất lượng giáo dục. Công tác quy
hoạch xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ quản lý phải được tổ chức theo một
quy trình khép kín, đảm bảo theo kế hoạch và được tiến hành thường xuyên
nhằm phát hiện, bồi dưỡng, đánh giá đúng kế hoạch, quy hoạch, và phát
triển,... trên cơ sở đó có sự đánh giá đúng thực trạng, khách quan và điều
chỉnh kế hoạch, quy hoạch hợp lý với điều kiện hiện tại nhằm tạo điều kiện và
phát huy tối đa khả năng của đội ngũ CBQL.

20


1.3.3. Tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ quản lý
trường tiểu học
- Tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển cán bộ công chức
nói chung và đối với cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng là công việc
thuộc lĩnh vực công tác tổ chức và cán bộ.
Việc tuyển chọn, bổ nhiệm phải thực hiện một cách chính xác cán bộ
quản lý có đủ phẩm chất và năng lực tạo điều kiện tiên quyết cho tổ chức đó
đạt mục tiêu. Bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ quản lý là yêu cầu tất yếu cho

việc thực hiện kế hoạch nâng cao chất lượng cán bộ quản lý cũng như đáp
ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp giáo dục hiện nay.
- Miễn nhiệm cán bộ quản lý thực chất là làm cho cán bộ quản lý luôn
đảm bảo các yêu cầu về chuẩn của đội ngũ, không để cho đội ngũ cán bộ quản
lý có những thành viên không đủ điều kiện và không đáp ứng được yêu cầu
giáo dục. Miễn nhiệm cũng là một hình thức nhằm nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ quản lý.
- Luân chuyển ( có thể hiểu là bao hàm cả điều động) cán bộ quản lý có
tác dụng làm cho chất lượng đồng đều trong các tổ chức; mặt khác lại tạo điều
kiện thoả mãn các nhu cầu riêng tư trong đời sống của cán bộ quản lý. Hai
mặt tác dụng nói trên gián tiếp làm cho chất lượng cán bộ quản lý được nâng
cao.
Công tác tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển đội ngũ cán
bộ quản lý nói chung, đội ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng cần
xem xét, đánh giá, cân nhắc kỹ lưỡng lấy mục tiêu tuyển chọn, bổ nhiệm,
miễn nhiệm, luân chuyển đội ngũ cán bộ quản lý để thúc đẩy phát triển sự
nghiệp giáo dục. Việc tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển đội
ngũ cán bộ quản lý là việc làm diễn ra thường xuyên theo kế hoạch của công
tác cán bộ ( công tác tổ chức cán bộ) nhưng phải được tổ chức một cách minh
bạch, công khai, dân chủ, đúng các quy trình, hợp lý hợp tình, đúng quy định
của ngành và của pháp luật.

21


1.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý trường tiểu học
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý có tác dụng hoàn thiện và
nâng cao trình độ cho từng cán bộ quản lý và cả đội ngũ cán bộ quản lý. Bản
chất của công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý là nâng cao phẩm chất và
năng lực cho cán bộ quản lý để họ có đủ các điều kiện hoàn thành nhiệm vụ,

chức năng và quyền hạn của mình.
Đào tạo, bồi dưỡng CBQL theo 2 hướng cơ bản:
- Đạt trình độ chuẩn cán bộ quản lý.
- Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ và quản lý.
Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý nói chung và bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng là nhiệm vụ quan trọng không
thể thiếu được trong quá trình quản lý của các cấp quản lý giáo dục. Việc tổ
chức bồi dưỡng phải tiến hành thường xuyên, liên tục lấy việc tự học, tự bồi
dưỡng làm tiền lệ phát huy khả năng của từng cá nhân cán bộ quản lý. Công
tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý phải được tiến hành công khai, dân chủ
có kế hoạch trước mắt cũng như lâu dài, thực hiện bồi dưỡng phải được sắp
xếp một cách phù hợp với điều kiện thực tế nhà trường, với khả năng cá
nhân,...khi tổ chức bồi dưỡng phải có những chính sách đãi ngộ, hỗ trợ kịp
thời. Kết quả bồi dưỡng cần đạt phải được kiểm chứng, trải nghiệm thực tế từ
đó có hướng xây dựng các điển hình và nhân rộng điển hình.
1.3.5. Thanh tra, kiểm tra và đánh giá công tác cán bộ quản lý
Thanh tra, kiểm tra và đánh giá công tác của cán bộ quản lý là một
trong những chức năng của quản lý. Đặc biệt, đánh giá chất lượng đội ngũ cán
bộ quản lý là một trong những công việc không thể thiếu được trong công tác
quản lý của các cơ quan quản lý của các chủ thể quản lý và của công tác tổ
chức cán bộ nói chung.
Thanh tra, kiểm tra và đánh giá hoạt động của cán bộ quản lý vừa có
tác dụng phòng ngừa, vừa có tác dụng thúc đẩy các hoạt động quản lý của đội
ngũ cán bộ quản lý theo đúng hướng phát triển giáo dục.

22


Đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý không những để nhận biết thực trạng
mọi mặt của cán bộ quản lý mà còn dự báo về tình hình chất lượng đội ngũ

cán bộ quản lý cũng như việc vạch ra những kế hoạch khả thi đối với hoạt
động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Mặt khác, kết quả đánh giá
đội ngũ cán bộ quản lý nếu chính xác lại là cơ sở cho việc mỗi cá nhân có sự
tự điều chỉnh bản thân nhằm đảm bảo tiêu chuẩn đội ngũ.
Nội dung thanh tra, kiểm tra và đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý trường
tiểu học: Việc thi hành pháp luật, công tác tham mưu, xây dựng và thực hiện
kế hoạch, nhiệm vụ năm học, công tác tổ chức bộ máy, công tác thanh, kiểm
tra cán bộ, giáo viên, công tác quản lý tài chính, cơ sở vật chất, thực hiện chế
độ chính sách, thực hiện dân chủ hoá trong nhà trường, công tác quản lý học
sinh, công tác bồi dưỡng đội ngũ, công tác thi đua, khen thưởng, công tác xã
hội hoá giáo dục,...
Công tác thanh tra, kiểm tra và đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý phải
được tiến hành định kỳ, thường xuyên, công khai dân chủ, công bằng, đúng
theo các quy định của ngành, của pháp luật; đồng thời trong quá trình tổ chức
thanh tra, kiểm tra và đánh giá phải luôn chú ý đến nhiệm vụ tư vấn và thúc
đẩy,.... nhằm khích lệ đội ngũ cán bộ quản lý khắc phục những hạn chế , phát
huy những ưu điểm luôn luôn phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ được giao.
1.3.6. Thực hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ quản lý
Thực hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ quản lý nói chung và thực
hiện chính sách đãi ngộ đối với cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng là
nhiệm vụ quan trọng trong đường lối lãnh đạo của các cấp quản lý giáo dục.
Để cán bộ quản lý thêm động lực, mang hết tâm lực, trí lực, nghị lực phục vụ
sự nghiệp chung thì vấn đề có chính sách đãi ngộ là quan trọng, cần thiết, phù
hợp với điều kiện hiện nay. Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng và
chính sách đúng đắn, phù hợp nhằm thu hút và khích lệ cán bộ quản lý giáo
dục tham gia trong công cuộc đổi mới sự nghiệp giáo dục hiện nay như: tiền
lương, chính sách ưu tiên cho CBQL, nhà giáo công tác ở các trường chuyên

23



biệt, vùng miền có nhiều khó khăn, chính sách luân chuyển CBQL, nhà
giáo,...
Việc thực hiện chế độ đãi ngộ đối với cán bộ quản lý phải được thực
hiện và diễn ra công bằng, công khai, dân chủ và là việc làm thường xuyên
được sự đồng tình và ủng hộ của các cấp các ngành, sự giám sát của mọi
thành viên trong tổ chức,... thì mới phát huy được tác dụng thực sự.
Như vậy, để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nói
chung và cán bộ quản lý trường tiểu học nói riêng cần phải có những chính
sách và chế độ ưu đãi phù hợp đối với cán bộ quản lý trong điều kiện hiện nay
để đội ngũ này có đủ điều kiện, an tâm công tác và cống hiến phục vụ trọn đời
cho sự nghiệp giáo dục. Trong thực tế việc đáp ứng mọi nhu cầu của đội ngũ
cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế, bất cập vì điều kiện, hoàn cảnh đất nước
còn nhiều khó khăn. Vậy, mỗi cán bộ quản lý giáo dục nói chung, cán bộ
quản lý trường tiểu học nói riêng hãy nhận thức đúng đắn với chính sách hiện
tại, trên cơ sở đó cần quyết tâm phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được
giao ( hãy tự vượt lên chính mình).
1.4. Cơ sở pháp lý của quản lý nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ quản
lý trƣờng tiểu học
1.4.1. Đặc trưng chủ yếu của nhà trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay
1.4.1.1. Vai trò, vị trí và chức năng của trường tiểu học
Trường tiểu học là cơ sở giáo dục của bậc tiểu học, bậc học nền tảng
của hệ thống giáo dục quốc dân. Trường tiểu học có tư cách pháp nhân và có
con dấu riêng [ điều 2, Điều lệ trường tiểu học].
Nhà trường tiểu học là đơn vị cấu trúc cơ bản của hệ thống giáo dục
quốc dân có nhiệm vụ chung là hình thành và xây dựng nhân cách người học
theo những mục tiêu, nguyên lý, nội dung, phương pháp giáo dục,...

TIẾN SĨ


THẠC SĨ

2 – 4 năm

2 năm
24

Gi¸o
dôc
Th­êng


ĐẠI HỌC

4 - 6 năm

CAO ĐẲNG

3 năm

THCN
3 - 4 năm

THPT

3 n¨m
Tõ líp 10 - líp 12
(Tõ 15 ®Õn 18 tuæi)

DẠY NGHỀ

Dài hạn:
Từ 1 năm
đến 3 năm

THCS

Ngắn hạn:
Dưới 1 năm

4 n¨m
Tõ líp 6 - líp 9
(Tõ 11 ®Õn 15 tuæi)

TIỂU HỌC

5 năm
Từ lớp 1 - lớp 5
(Từ 6 đến 11 tuổi)

MẦM NON
(Từ 3 đến 6 tuổi)

Sơ đồ 3: Hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
Mặt khác, nhà trường tiểu học có mối quan hệ đặc biệt mật thiết với
cộng đồng và xã hội ở các mặt chủ yếu sau:

25



×