Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Giải pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục trên địa bàn huyện lục nam tỉnh bắc giang trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.98 MB, 134 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

THÂN VĂN DÀN

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG XÃ HỘI HOÁ
SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM
TỈNH BẮC GIANG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
MÃ SỐ : 601405

Cán bộ hướng dẫn khoa học : PGS.TS Lê Ngọc Hùng

HÀ NỘI, NĂM 2006


MỤC LỤC
Trang

Mở đầu

1

1 Lý do chọn đề tài

1

2 Mục đích nghiên cứu


3

3 Khách thể và đối tượng nghiên cứu

3

4 Giả thuyết khoa học

3

5 Nhiệm vụ nghiên cứu

4

6 Giới hạn đề tài

4

7 Phương pháp nghiên cứu

4

8 Kế hoạch và tiến độ nghiên cứu

5

9 Cấu trúc nội dung luận văn

5


Chương 1: Cơ sở lý luận về XHHSNGD và quản lý công tác
XHHSNGD

6

1.1 Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh của Đảng và Nhà nước về XHHSNGD.

6

1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục

6

1.1.2 Quan điểm của Đảng, Nhà nước về giáo dục và XHHSNGD.

8

1.1.3 Quan điểm lịch sử phát triển.

13

1.1.4 Quan điểm tiếp cận hệ thống trong khoa học quản lý giáo dục

15

1.2 Một số khái niệm cơ bản về quản lý, tổ chức, chỉ đạo, xã hội hoá,
XHHSNGD


17

1.2.1 Khái niệm xã hội hoá

17

1.2.2 Khái niệm XHHSNGD

18

1.2.3 Khái niệm về quản lý, tổ chức, chỉ đạo

20

1.3 Tổng quan một số quan điểm khoa học quản lý giáo dục về
XHHSNGD

23


1.3.1 Một số nét về tình hình nghiên cứu XHHSNGD trong nước và Quốc tế

23

1.3.2 Mục tiêu của XHHSNGD

29

1.3.3 Nội dung chủ yếu của XHHSNGD


30

1.3.4 Điều kiện thực hiện xã hội hoá sự nghiệp giáo dục

31

1.3.5 ý nghĩa của XHHSNGD

33

Chương 2: Thực trạng công tác XHHSNGD ở huyện Lục
36

Nam, tỉnh Bắc Giang.
2.1 Đặc điểm tình hình huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

36

2.1.1 Khái quát tình hình địa lý, kinh tế - xã hội

36

2.1.2 Tình hình phát triển giáo dục

37

2.1.3 Tình hình thực hiện chủ trương của Đảng về XHHSNGD.

39


2.2 Thực trạng quản lý công tác XHHSNGD ở huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang

42

2.2.1 XHHSNGD ngành học Mầm non

43

2.2.2 XHHSNGD cấp Tiểu học

44

2.2.3 XHHSNGD bậc THCS

46

2.2.4 XHHSNGD THPT

49

2.2.5 Xã hội hoá giáo dục thường xuyên

51

2.3 Kết qủa thực hiện XHHSNGD ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
2.3.1 Nhận thức về XHHSNGD
2.3.2 Thực hiện một nền giáo dục cho mọi người

52

53
57

2.3.3 Huy động toàn xã hội tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo
dục.

58

2.4 Tổng kết kinh nghiệm và bài học thực tiễn về công tác XHHSNGD

67

2.4.1 Những thuận lợi, khó khăn, hạn chế yếu kém đối với công tác
XHHSNGD ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang

67

2.4.2 Một số bài học thực tiễn về công tác XHHSNGD ở huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang

71

Chương 3: Xu hướng và giải pháp tăng cường XHHSNGD.

74

4


3.1 Xu hướng biến đổi XHHSNGD.


74

3.1.1 Phát triển các cấp học, trình độ và loại hình giáo dục

74

3.1.2 Định hướng phát triển giáo dục và chủ trương XHHSNGD của tỉnh
Bắc Giang.

75

3.1.3 Phát triển giáo dục - đào tạo giai đoạn 2006-2010 của huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang

76

3.2 Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá sự nghiệp giáo dục.

78

3.2.1 Tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước.

78

3.2.2 Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền...

81

3.2.3 Hoàn thiện cơ chế phối hợp các lực lượng xã hội...


87

3.2.4 Nâng cao hiệu quả của ba môi trường giáo dục...

93

3.2.5 Tăng cường xã hội hoá về mục tiêu, kế hoạch và nội dung giáo dục.

96

3.2.6 Củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Hội
đồng giáo dục các cấp và các trung tâm học tập cộng đồng.

97

3.2.7 Hoàn thiện cơ chế và tăng cường các biện pháp quản lý tài chính nhằm
phát huy hiệu quả của nguồn lực tài chính huy động từ XHHSNGD.
3.3 Khảo nghiệm tầm quan trọng, tính cần thiết và tính khả thi…

100
101
103

Kết luận và khuyến nghị
1 Kết luận.

103

2 Khuyến nghị


104

Tài liệu tham khảo
Phụ lục

5


CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
TW

Trung ương

BCH

Ban chấp hành

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

BTV

Ban thường vụ

BCĐ

Ban chỉ đạo


MTTQ

Mặt trận tổ quốc

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Uỷ ban nhân dân

NXB

Nhà xuất bản

CBQL

Cán bộ quản lý

TDTT

Thể dục thể thao

THCN

Trung học chuyên nghiệp

THPT


Trung học phổ thông

THCS

Trung học cơ sở

PTCS

Phổ thông cơ sở

TH

Tiểu học

GD-ĐT

Giáo dục-Đào tạo.

XHHSNG

Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục

D
CHỮ VIẾT TẮT TRONG BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TT
TNTH
GD
SL
PC
TB

HS
ĐT
K0
DTNT

Trung tâm
Tốt nghiệp tiểu học
Giáo dục
Số lượng
Phổ cập
Trung bình
Học sinh
Đối tượng
Không
Dân tộc nội trú

TL%

Tỷ lệ %


HĐGD
NSNN

Hội đồng giáo dục
Ngân sách nhà nước

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đất nƣớc ta đang trong giai đoạn những năm đầu của thế kỷ XXI, thế
kỷ của nền văn minh trí tuệ, xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức, thế kỷ
của hội nhập khu vực và quốc tế. Đảng và Nhà nƣớc ta đã xác định Giáo dục
và Đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu. Chủ trƣơng
coi Giáo dục và Đào tạo là quốc sách hàng đầu đƣợc xuyên suốt trong các
nghị quyết của Đảng, từ Nghị quyết TW 4 (Khoá VII), đến Nghị quyết TW 2
(khoá VIII), văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đảng ta khẳng định, phát triển Giáo dục và
Đào tạo là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con ngƣời -

yếu tố cơ bản để

phát triển xã hội, tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững. Từ quan điểm
đúng đắn đó, Đảng và Nhà Nƣớc ta đã xác định cần phải đầu tƣ cho giáo dục,
chăm lo xây dựng và phát triển sự nghiệp giáo dục, làm cho Giáo dục và Đào
tạo thực sự trở thành quốc sách hàng đầu.
Hội nghị lần thứ Tƣ, Ban chấp hành TW Đảng (khoá VII) đã chỉ rõ:
"Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục, nhưng vấn đề là phải quán
triệt rất sâu sắc và tiến hành tốt việc xã hội hoá các nguồn đầu tư, mở rộng
phong trào xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự
nghiệp của toàn xã hội"; " huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các
tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý
của nhà nuớc".
Hội nghị lần thứ Hai, Ban chấp hành TW Đảng (khoá VIII ) tiếp tục
khẳng định : "Phát triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước
và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và mỗi công dân; kết hợp tốt giáo dục
học đường với giáo dục gia đình, giáo dục xã hội , xây dựng môi trường giáo

dục lành mạnh …"; " Giáo dục - Đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của

1


nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên và học suốt
đời". Nhiệm vụ của Giáo dục và Đào tạo là "Nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực và bồi dưỡng nhân tài".
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định phƣơng
hƣớng phát triển Giáo dục và Đào tạo là "Nâng cao chất lượng toàn diện, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống
quản lý giáo dục, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hóa và xã hội hoá … Thực
hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập".
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định: "Giáo dục và
Đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng
và động lực thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước"; "Phấn đấu
xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì dân, bảo đảm công
bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và
học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Để mở rộng và phát triển giáo dục theo mục tiêu và chủ trƣơng đƣờng
lối của Đảng, ngoài việc tăng cƣờng đầu tƣ ngân sách nhà nƣớc, cần phải đẩy
mạnh xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục, đƣợc
Đảng ta coi là một tƣ tƣởng, định hƣớng mang tính chiến lƣợc.
Trên thực tế, sự nghiệp giáo dục của huyên Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang đã và đang đƣợc các cấp uỷ Đảng và chính quyền quan tâm chăm lo và
phát triển. Quy mô ngày càng đƣợc mở rộng, chất lƣợng từng bƣớc đƣợc nâng
lên, cơ sở hạ tầng đƣợc quan tâm xây dựng. Đứng trƣớc yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc và phát triển kinh
tế - xã hội trên địa bàn huyện Lục Nam, đòi hỏi giáo dục phải đƣợc đổi mới
và phát triển mạnh mẽ. Trong khi đó nguồn lực đầu tƣ cho xây dựng và phát

triển sự nghiệp giáo dục trên địa bàn ở mức rất thấp; Nguồn lực đầu tƣ của
nhà nƣớc, của tỉnh rất khó khăn; chất lƣợng và hiệu quả giáo dục còn có
những hạn chế, bất cập; Bởi vậy, cần có những giải pháp đồng bộ, toàn diện

2


và hiệu quả tăng cƣờng XHHSNGD trên địa bàn, góp phần thực hiện phát
triển sự nghiệp giáo dục đáp ứng mục tiêu và yêu cầu đặt ra.
Chủ trƣơng XHHSNGD ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đã đƣợc
triển khai ở hầu hết các địa phƣơng trên toàn huyện và đã bƣớc đầu thu đuợc
những kết quả khá . Tuy nhiên, đứng trƣớc yêu cầu đặt ra cho phát triển sự
nghiệp giáo dục còn bộc lộ nhiều bất cập.
Về mặt khoa học, XHHSNGD là một đề tài không hoàn toàn mới và
đã đƣợc một số tác giả nghiên cứu, tổng kết thực tiễn. Song, đối với địa bàn
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang còn là một vấn đề mới; XHHSNGD trên địa
bàn chƣa phải đã đƣợc tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội nhận thức
đầy đủ, chỉ đạo và tham gia đạt hiệu quả cao; Các gia đình, từng cá nhân
trong cộng đồng chƣa phải đã hiểu rõ và tích cực hƣởng ứng. Huyện Lục
Nam, tỉnh Bắc Giang là một huyện miền núi có những nét đặc thù riêng về địa
lý, về phong tục tập quán, về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ... Chính vì
vậy, việc nghiên cứu, kiểm chứng những giải pháp đã đƣợc tổng kết và bổ
sung một số giải pháp tăng cƣờng XHHSNGD phù hợp với thực tiễn địa bàn
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp Giáo
dục là một yêu cầu có tính cấp thiết.
2 . Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác
XHHSNGD trên cơ sở đề xuất một số giải pháp tăng cƣờng XHHSNGD đặc
biệt là các giải pháp quản lý nhằm đạt mục tiêu phát triển giáo dục ở huyện
Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.

3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .
3.1 Khách thể nghiên cứu.
Vấn đề XHHSNGD ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang
3.2 Đối tƣợng nghiên cứu.
Các giải pháp lãnh đạo, quản lý, tổ chức nhằm tăng cƣờng XHHSNGD
ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
3


4.Giả thuyết khoa học .
Để nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giáo dục, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phƣơng, cần phải lựa chọn và áp dụng đồng bộ các giải
pháp tăng cƣờng XHHSNGD phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của địa
phƣơng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .
- Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn, giải pháp quản lý công tác
XHHSNGD.
- Nghiên cứu, thu nhập, phân tích và xử lý thông tin để đánh giá thực
trạng công tác XHHSNGD huỵện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang; xem xét nguyên
nhân và các yếu tố tác động đến thực trạng đó.
- Tìm hiểu xu hƣớng biến đổi của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục ở
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang và đề xuất giải pháp tăng cƣờng xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục trên địa bàn .
6. Giới hạn đề tài .
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề giải pháp tăng cƣờng xã hội hoá
sự nghiệp giáo dục ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang trong thời gian từ năm
2001 đến đầu năm 2007, chủ yếu đối với ngành học Mầm non, cấp Tiểu học và
bậc THCS.
7. Phương pháp nghiên cứu .
Quá trình thực hiện đề tài kết hợp các nhóm phƣơng pháp nghiên cứu:

- Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu lý luận: Dựa trên cơ sở lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh; các văn kiện của Đảng, nhà nƣớc;
luật giáo dục; văn bản của Bộ giáo dục và đào tạo; các chỉ thị, nghị quyết
của tỉnh uỷ, UBND tỉnh và huyện Lục Nam; nghiên cứu sách, tài liệu và báo
cáo khoa học liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Nhóm phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn: Phƣơng pháp điều tra xã
hội học, lấy ý kiến; trao đổi kinh nghiệm, phỏng vấn; thống kê, phân tích
tổng hợp, đánh giá, tổng kết kinh nghiệm; lấy ý kiến chuyên gia ….
4


Trong quá trình nghiên cứu đã tiến hành thăm dò: Tổng số phiếu phát
ra thăm dò: 1120 phiếu, số phiếu thu về 1097 phiếu đạt tỷ lệ 97,9%. Trong đó:
Nam 522, Nữ 575. Đối tƣợng điều tra đƣợc chia làm các nhóm đối tƣợng:
1- Lãnh đạo Đảng, chính quyền xã, thị trấn: 36 ngƣời;
2- Trƣởng, phó, cán bộ các ban ngành, đoàn thể xã, thị trấn: 189 ngƣời;
3- Nhân dân của các xã, thị trấn trong huyện: 360 ngƣời;
4- Cán bộ quản lý trƣờng học: 96 ngƣời;
5- Giáo viên, nhân viên các trƣờng học: 239 ngƣời;
6- Phụ huynh học sinh: 177 ngƣời;
8. Kế hoạch và tiến độ nghiên cứu .
Đề tài bắt đầu nghiên cứu trong từ tháng 11 năm 2004.
- Từ tháng 11 năm 2004 đến tháng 6 năm 2005, tiến hành thực hiện
nghiên cứu các vấn đề cơ sở lý luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu; tìm
hiểu thực trạng.
- Từ tháng 6 năm 2005 đến tháng 6 năm 2006, nghiên cứu thực trạng
tổng kết thực tiễn, đề xuất các giải pháp.
- Từ tháng 6 năm 2006 đến tháng 01 năm 2007, tiếp tục nghiên cứu
thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm, nghiệm thu đề tài.
9. Cấu trúc nội dung luận văn .

Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, mục lục và tài liệu tham
khảo nội dung luận văn đƣợc cấu trúc trong 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về xã hội hoá sự nghiệp giáo dục và quản lý công
tác XHH SNGD.
Chƣơng 2. Thực trạng công tác XHHSNGD ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang
Chƣơng 3. Xu hƣớng và giải pháp tăng cƣờng XHHSNGD ở huyện Lục Nam,
tỉnh Bắc Giang.

5


Chương 1. CƠ SƠ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC XÃ HỘI HOÁ SỰ NGHIỆP GIÁO DỤC
1.1. Một số quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và của Đảng về XHHSNGD .
1.1.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
giáo dục.
Chủ nghĩa Mác -Lê Nin khẳng định Giáo dục có vai trò quan trọng
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Khi đề cập đến vấn đề tổng quát của lịch
sử phát triển loài ngƣời Mác chỉ rõ ở mỗi giai đoạn phát triển đều đòi hỏi một
sức lao động xã hội nhất định. Sức lao động đó là :"Toàn bộ các sức mạnh
thể chất và sức mạnh tinh thần ở trong cơ thể con người, ở trong nhân cách
sinh động của con người, những sức mạnh thể chất và tinh thần mà con người
phải cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích" [2, tr 23].
Mác là Ngƣời có những kiến giải sâu sắc về Giáo dục - Đào tạo. Giáo
dục - Đào tạo phải kết hợp với lao động sản xuất, chế độ Giáo dục - Đào tạo
phải tƣơng hợp với chế độ chính trị, kinh tế - xã hội.
Mác viết "Chỉ cần xem những sách của Robert Owen cũng đủ thấy rằng
chế độ công xưởng là nơi đầu tiên làm nảy nở mầm mống của nền giáo dục

tương lai, nền giáo dục sẽ kết hợp lao động sản xuất với trí dục và thể dục, đối
với hết thảy các trẻ em trên một lứa tuổi nhất định nào đó và làm như vậy
không những chỉ là phương pháp tăng thêm sản xuất xã hội mà còn là phương
pháp độc nhất và duy nhất để đào tạo ra những con người toàn diện" [31,
Tr229].
Trên nền tảng tƣ tƣởng giáo dục của Mác, Lê nin đã phát triển hoàn
chỉnh lý luận về bản chất kinh tế của giáo dục. Theo Lê Nin, giáo dục xã hội
6


chủ nghĩa vừa là mục đích kinh tế, vừa là sức mạnh của kinh tế. Giáo dục
trong các nƣớc xã hội chủ nghĩa biểu hiện cả hai mặt của quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa xã hội. Một mặt giáo dục là mục đích mà nền kinh tế
hƣớng tới nhằm thoả mãn đời sống tinh thần; mặt khác giáo dục tái sản xuất
sức lao động cho các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Ngay sau khi cách mạng Tháng Mƣời thành công, Lê Nin đã chỉ ra:
"Muốn thoát khỏi cảnh thiếu thốn, cảnh cùng khổ đen tối nhất thì phải có suy
nghĩ, phải có văn hoá, phải giỏi". Ngƣời coi: "Điều kiện để nâng cao năng
xuất lao động trước hết chính là trình độ tiến bộ của nền giáo dục và văn
hoá của đông đảo quần chúng nhân dân". [2, tr25].
Dƣới góc độ kinh tế đảm bảo cho giáo dục điều kiện vật chất để thực
hiện có kết quả quá trình đào tạo, giáo dục phát triển mạnh mẽ, vững chắc
phục vụ tốt cho các nhiệm vụ kinh tế - xã hội khi nền kinh tế bảo đảm cho
giáo dục mọi điều kiện vật chất cần thiết để tổ chức các quá trình sƣ phạm có
kết quả. Giáo dục XHCN là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội phải chăm lo
sự phát triển của giáo dục và của ngành giáo dục, ngoài kinh phí cấp phát của
nhà nƣớc, còn phải biết khai thác lực lƣợng vật chất của xã hội phục vụ cho
công tác đào tạo. Trong "Dự án cương lĩnh của Đảng cộng sản Nga", tháng 2
năm 1919, Lê nin đã nêu:"Làm cho nhân dân lao động tích cực tham gia vào
sự nghiệp giáo dục quốc dân, phát triển những hội đồng giáo dục quốc dân,

động viên những người có văn hoá... tham gia vào quá trình giáo dục" [2,
tr28].
Lý luận Mác - Lê Nin đã đƣợc Hồ Chủ Tịch thể hiện sinh động và phát
triển sáng tạo trong tiến trình cách mạng ở nƣớc ta. Tháng 9 năm 1945 Hồ
Chủ Tịch đã nêu ra mục tiêu của chế độ mới là làm cho mọi ngƣời "ai cũng
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành". Để đạt đƣợc mục tiêu này,
Ngƣời cho rằng:"Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong
lúc này là nâng cao dân trí" [2, tr 61].

7


Tháng 3 năm 1956, Hồ Chủ Tịch vạch ra mối liên hệ biện chứng giữa
phát triển giáo dục và phát triển kinh tế. "Giáo dục phải cung cấp cán bộ cho
kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ được. Nếu kinh tế không
phát triển thì giáo dục không phát triển được. Giáo dục không phát triển thì
không đủ cán bộ giúp cho kinh tế phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết
với nhau" [2, tr62]. Hồ Chủ Tịch rất coi trọng vận dụng mối liên hệ này theo
mục tiêu thiết thực đáp ứng các vấn đề trƣớc mắt của đời sống kinh tế và bao
quát những nhiệm vụ của Cách mạng trong thế phát triển lâu dài. Ngƣời nhắc
nhở toàn Đảng, toàn dân:"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích
trăm năm thì phải trồng người". Ngƣời yêu cầu toàn xã hội "phải chăm sóc
nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục lên những bước phát triển
mới" [2, tr62]. Ngƣời còn dạy "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần
phải phát huy đầy đủ dân chủ XHCN, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật
chặt chẽ giữa Thầy và Thầy, giữa Thầy và Trò, giữa học trò với nhau, giữa
cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm
vụ đó".[23, tr258]; "Trường học phải liên hệ chặt chẽ với gia đình, với xã hội,
các đoàn thể thanh niên, phụ nữ. Các cơ quan Chính quyền và các cấp uỷ
Đảng phải thực sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em

mình hơn nữa". [22, tr 228].
Ngƣời chỉ thị cho ngành Giáo dục:"Dù khó khăn đến đâu cũng phải
tiếp tục thi đua dạy tốt, học tốt" để "thời gian không xa đạt những đỉnh cao
của khoa học, kỹ thuật". [2, tr 63].
Xuất phát từ vai trò quần chúng trong lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói "Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục
ngoài xã hội và trong gia đình. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy
nhưng thiếu sự giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không hoàn toàn". [20, tr25].
1.1.2. Quan điểm của Đảng , Nhà nước về giáo dục và xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục.
8


Đảng và Nhà nƣớc ta xác định giáo dục có vai trò hết sức quan trọng
trong quá tình phát triển đất nƣớc. Đảng xác định, muốn tiến hành công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển Giáo dục - Đào tạo, phát
huy nguồn lực con ngƣời - yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta đã có nhiều chủ trƣơng, chính
sách để phát triển Giáo dục - Đào tạo. Đại hội VII của Đảng đã khẳng định
phát triển giáo dục và khoa học, công nghệ là Quốc sách hàng đầu. Hội nghị
lần thứ Tƣ BCH TW khoá VII đã có Nghị quyết về tiếp tục đổi mới sự
nghiệp Giáo dục - Đào tạo với quan điểm :"Cùng với khoa học và công nghệ,
Giáo dục và Đào tạo đã được Đại hội VII xem là quốc sách hàng đầu. Đó là
một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm việc thực hiện
những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nước... Huy động
toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân dân góp sức xây dựng
nền giáo dục quốc dân dưới sự quản lý của nhà nước." [10, tr 61]; "Mặt trận
tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mọi gia đình và mọi
người cùng với ngành Giáo dục - Đào tạo chăm lo xây dựng sự nghiệp giáo

dục theo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", "xây dựng môi
trường giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội" [10, tr 65].
Về định hƣớng chiến lƣợc phát triển Giáo dục - Đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nghị quyết hội nghị lần thứ Hai, Ban chấp
hành Trung ƣơng Đảng khoá VIII chỉ rõ :"Giáo dục - Đào tạo là sự nghiệp
của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân. Mọi người đi học, học thường
xuyên, học suốt đời"; "Mọi người chăm lo giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức
Đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế và xã
hội, các gia đình và các cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát
triển sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực
cho Giáo dục - Đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội, tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng
đồng, từng tập thể" [12, tr 30].
9


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định
cùng với khoa học và công nghệ, phát triển Giáo dục - Đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX đã xác định phát
triển giáo dục & đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con ngƣời - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trƣởng kinh tế nhanh và
bền vững... thực hiện "chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá". Phát huy tinh
thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên, đề cao năng lực tự
học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy mạnh phong trào học tập trong
nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính quy và không chính quy, thực
hiện "giáo dục cho mọi người ", "cả nước trở thành một xã hội học tập";
Thực hiện phương châm "Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động

sản xuất, nhà trường gắn với xã hội" [13, tr 109].
Đại hội IX của Đảng còn nhấn mạnh "Thực hiện chủ trương xã hội hoá
giáo dục, phát triển đa dạng các hình thức đào tạo, đẩy mạnh việc xây dựng các
quỹ khuyến khích tài năng, các tổ chức khuyến học, bảo trợ giáo dục" [13, tr
111].
Chủ trƣơng phát triển Giáo dục - Đào tạo đến năm 2010, tại Hội nghị
lần thứ Sáu, BCH TW Đảng khoá IX chỉ rõ:"Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục,
coi Giáo dục - Đào tạo là sự nghiệp của toàn dân là một giải pháp quan
trọng để tiếp tục phát triển giáo dục. Nhà nước khuyến khích mọi đóng góp,
mọi sáng kiến của xã hội cho giáo dục" [14, tr 135].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng tiếp tục khẳng định vai
trò và nhiệm vụ của Giáo dục - Đào tạo trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hoá hoá và phát triển kinh tế tri thức . Đại hội đánh giá "... Việc xã hội hoá
giáo dục được thực hiện chậm, thiếu đồng bộ. Công tác Giáo dục và Đào tạo
ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, chất lượng thấp" [15, tr 171]; Đồng
10


thời chỉ rõ "phấn đấu xây dựng nền giáo dục hiện đại, của dân, do dân và vì
dân, bảo đảm công bằng về cơ hội học tập cho mọi người, tạo điều kiện để
toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước", "Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục" [15, tr 208].
Chủ trƣơng xã hội hoá sự nghiệp giáo dục còn đƣợc thể hiện tại điều
12, Luật giáo dục "Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp
của Nhà nước và của toàn dân. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát
triển sự nghiệp giáo dục; Thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các
hình thức giáo dục, khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá
nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và công
dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn" [

5,tr 12 ].
Từ tháng 8 năm 1997 Chính phủ đã có Nghị quyết số 90/NQ-CP về
phƣơng hƣớng và chủ trƣơng xã hội hoá các hoạt động giáo dục. Nghị quyết
đã đề cập những nội dung rất cơ bản về XHHSNGD:
XHHSNGD là cuộc vận động lớn, hình thành các tổ chức nhân dân của
toàn xã hội tham gia, đóng góp, thúc đẩy phát triển sự nghiệp giáo dục.
XHHSNGD là việc tạo ra môi trƣờng rộng khắp, lành mạnh cho giáo
dục mà trách nhiệm thuộc về cộng đồng xã hội từ cấp uỷ Đảng, Chính quyền,
đoàn thể quần chúng, tổ chức kinh tế, doanh nghiệp chăm lo, hỗ trợ cho phát
triển sự nghiệp giáo dục.
XHHSNGD còn là sự tìm tòi khai thác các tiềm ẩn nguồn lực và vật
lực trong xã hội cho giáo dục, đây là chủ trƣơng lâu dài, một phƣơng châm
trong việc thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nƣớc. Xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục còn là vấn đề sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí mà
giáo dục huy động đƣợc.
Tháng 12 năm 2001, Thủ tƣớng Chính phủ đã có quyết định phê duyệt
"Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010". Trong chiến lƣợc phát triển
11


Giáo dục - Đào tạo 2001-2010 cũng đã đề cập: "Khuyến khích, huy động và
tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục. Tạo cơ hội cho mọi
người, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ được học thường xuyên, học suốt đời, tiến
tới một xã hội học tập" [30, tr42].
Một trong bẩy nhóm giải pháp lớn phát triển giáo dục trong chiến
lƣợc phát triển giáo dục 2001-2010 là đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục bao gồm
các nội dung chủ yếu sau:
Một là, hoàn thiện cơ sở lý luận, thực tiễn, cơ chế chính sách và các
giải pháp xã hội hoá giáo dục, nhằm tạo sự nhất trí cao trong xã hội về nhận
thức và tổ chức thực hiện; bổ sung và hoàn thiện những văn bản quy phạm

pháp luật, các chính sách vĩ mô khuyến khích mạnh mẽ các tổ chức kinh tế xã hội,
các cá nhân đầu tƣ cho phát triển giáo dục...
Hai là, phát triển các trƣờng ngoài công lập; củng cố nâng cao chất
lƣợng giáo dục của các trƣờng ngoài công lập; hoàn thiện và ban hành các cơ
chế chính sách hỗ trợ các trƣờng ngoài công lập...
Ba là, mở rộng các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục, khuyến
khích cá nhân và tập thể đầu tƣ phát triển giáo dục...
Bốn là, mở rộng và tăng cƣờng các mối quan hệ của nhà trƣờng với các
ngành, địa phƣơng, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội...
tạo điều kiện để xã hội có thể đóng góp xây dựng cơ sở vật chất, góp ý kiến cho
quy hoạch phát triển nhà trƣờng, điều chỉnh cơ cấu ngành nghề, cơ cấu trình độ
đào tạo, hỗ trợ kinh phí cho ngƣời học và tiếp nhận ngƣời tốt nghiệp, giám sát
các hoạt động giáo dục và tạo lập môi trƣờng giáo dục lành mạnh...
Năm là, xây dựng nhà trƣờng thực sự trở thành trung tâm văn hoá, môi
trƣờng giáo dục lành mạnh…
Sáu là, Nâng cao nhận thức, tăng cƣờng lãnh đạo của các cấp uỷ
Đảng, sự giám sát của hội đồng nhân dân, sự quản lý của UBND các cấp;
phát huy vai trò của các tổ chức Công đoàn, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,
12


Đội thiếu niên tiền phong, Hội học sinh - sinh viên, Hội cha mẹ học sinh, Hội
khuyến học và các đoàn thể, tổ chức xã hội khác trong việc huy động nguồn
lực xã hội tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục.
Xuất phát từ quan điểm, đƣờng lối của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo, tháng 10 năm 1990, Bộ Giáo dục & Đào tạo - Công đoàn giáo dục
Việt Nam đã có Thông tƣ liên tịch số 35/TT-LT về chỉ đạo và vận động toàn
ngành tham mƣu với cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phƣơng mở Đại hội
giáo dục cấp cơ sở nhằm thể chế hoá thực hiện chủ trƣơng xã hội hoá sự
nghiệp giáo dục. Từ đó, danh từ xã hội hoá giáo dục đƣợc nêu trong ngành
giáo dục. Việc mở Đại hội giáo dục các cấp, thực hiện xã hội hoá sự nghiệp

giáo dục đƣợc Ban khoa giáo trung ƣơng phối hợp chỉ đạo và đã triển khai
sâu rộng trên phạm vi toàn quốc.
Các tỉnh, thành phố, quận (huyện), xã (phƣờng) có Nghị quyết, chỉ thị
về XHHSNGD; đồng thời tổ chức đại hội giáo dục cấp cơ sở, quận (huyện) và
tỉnh (thành phố).
Chủ trƣơng xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đã đƣợc Bộ Giáo dục &
Đào tạo cụ thể hoá trong điều lệ trƣờng học năm 2000. Điều lệ trƣờng học đã
xác định rất rõ vai trò, vị trí, nhiệm vụ của nhà trƣờng trong mối quan hệ cộng
đồng địa phƣơng. Trƣờng học có nhiệm vụ góp phần xây dựng môi trƣờng
giáo dục thống nhất giữa nhà trƣờng, gia đình và xã hội; khai thác mọi tiềm
năng của cộng đồng tham gia giáo dục học sinh, phát huy tác dụng của một
cơ sở giáo dục đối với cộng đồng.
Tại Điều 49 điều lệ trƣờng Tiểu học có ghi :"Nhà trường phải chủ
động phối hợp với Hội đồng giáo dục cấp xã, ban đại diện cha mẹ học sinh
trường, các tổ chức chính trị - xã hội và cá nhân có tâm huyết với sự nghiệp
giáo dục trẻ em trong cộng đồng nhằm: Thống nhất quan điểm, nội dung,
phương pháp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội; huy động mọi lực
lượng của cộng đồng chăm lo sự nghiệp giáo dục, xây dựng phong trào học

13


tập và môi trường giáo dục lành mạnh, góp phần xây dựng cơ sở vật chất,
thiết bị giáo dục của nhà trường" [28, tr20].
1.1.3. Quan điểm lịch sử phát triển giáo dục.
Lịch sử phát triển của loài ngƣời gắn liền với giáo dục. Giáo dục là một
nhu cầu không thể thiếu đƣợc của xã hội loài ngƣời. Xét về nguồn gốc, giáo
dục xuất hiện trong cuộc sống nhằm mục đích truyền thụ kinh nghiệm sống,
lao động... và nó là chất kết dính biến cộng đồng thành một cấu trúc. Nhƣ
vậy, chức năng đầu tiên, chức năng nguyên thuỷ của giáo dục là xã hội hoá.

Có thể coi từ khi có xã hội loài ngƣời đến nay đã trải qua bốn nền "văn
minh": " văn minh hái lượm", " văn minh nông nghiệp", " văn minh công
nghiệp", " văn minh trí tuệ" [ 20, tr3]. Trong nền " văn minh hái lượm" con
ngƣời tồn tại theo bầy đoàn và sau đó là bộ lạc; phƣơng tiện sản xuất thô sơ
và cuộc sống tồn tại nhờ săn bắn và hái lƣợm. Tƣơng ứng với giai đoạn phát
triển này của xã hội loài ngƣời, giáo dục xuất hiện dƣới dạng tự phát. ở đây
có thể coi giáo dục là sự truyền thụ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm hái lƣợm,
săn bắn để tồn tại.
Sau hàng vạn năm tồn tại cùng với sự xuất hiện các hình thái xã hội,
loài ngƣời đã chuyển dần sang nền " văn minh nông nghiệp" với sức sản xuất
và quan hệ sản xuất lấy tài nguyên, đất đai làm điểm tựa. Tƣơng ứng với giai
đoạn này, bên cạnh giáo dục ở gia đình, giáo dục nhà trƣờng đã phát triển
mạnh biến giáo dục thành một quá trình tự giác, có tổ chức, nội dung có chọn
lọc và tính mục đích rõ ràng, cụ thể. Tuy nhiên, nội dung giáo dục về cơ bản
là giáo điều, phƣơng pháp giáo dục nặng về áp đặt.
Xã hội tiếp tục phát triển và rồi loài ngƣời dần dần chuyển sang một
nền văn minh khác với tên "nền văn minh công nghiệp". Lúc này, nền giáo
dục cổ truyền của "nền văn minh nông nghiệp" không còn đáp ứng đƣợc đòi
hỏi mới của nền kinh tế - xã hội và một nền giáo dục mới đã ra đời với tên
gọi nền giáo dục hiện đại. Để đáp ứng đƣợc những yêu cầu mới của xã hội
cũng nhƣ tận dụng đƣợc những điều kiện mới mà xã hội mới mang đến. Nội
14


dung giáo dục đa dạng hơn, phong phú hơn, mang tính hƣớng nghiệp hơn;
phƣơng pháp giáo dục mềm dẻo, đa dạng, gắn với lao động sản xuất.
Trong thế kỷ XXI, loài ngƣời sẽ chuyển dần sang nền kinh tế tri thức
và một nền văn minh mới của xã hội loài ngƣời sẽ hình thành đó là "nền văn
minh trí tuệ". Tƣơng ứng với nền văn minh này của xã hội loài ngƣời, nền
giáo dục cũ cần phải có sự canh tân để thích ứng với "đơn đặt hàng" mới của

xã hội và phải tận dụng nhiều hơn những thành tựu của công nghệ thông tin
và thông lƣu để đổi mới phƣơng thức Giáo dục và Đào tạo của mình và
ngƣời ta gọi nền giáo dục đó là nền giáo dục tƣơng lai. Ở đây, nhà trƣờng
truyền thống sẽ có những thay đổi lớn về cách thức chuyển tải nội dung và
phƣơng thức giáo dục cũng rất đa dạng. Nhà trƣờng trở thành "siêu thị kiến
thức" !

[ 20, tr4] Chỉ có nhƣ vậy, giáo dục mới đáp ứng đƣợc những đặc

điểm mới của kinh tế - xã hội.
Từ những kiến giải trên, chúng ta thấy rõ mối quan hệ giữa Giáo dục
và Đào tạo với xã hội xét trong suốt tiến trình phát triển của chúng đã tạo nên
một hình xoắn ốc, ứng với mỗi giai đoạn phát triển, mối quan hệ hai chiều
giáo dục - xã hội thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sự cân bằng động đó tồn tại
vì con ngƣời, do con ngƣời hay nói một cách khác lấy con ngƣời làm điểm
tựa. Ở đây, giáo dục phải là công cụ, phƣơng tiện để cải biến xã hội vì nhờ có
giáo dục làm động lực xã hội không ngừng phát triển. Khi xã hội phát triển
lên một mức nào đó, xã hội sẽ "đặt hàng mới" cho giáo dục và cũng tạo điều
kiện mới cho giáo dục, buộc giáo dục phải tự nâng mình lên để đáp ứng bối
cảnh mới. Mối quan hệ cân bằng động này tồn tại cùng với lịch sử phát triển
của xã hội loài ngƣời.
Giáo dục là một bộ phận của xã hội và nó phục vụ cho sự phát triển của
xã hội. Vì vậy, xã hội vừa là cái nôi của giáo dục, vừa là môi trƣờng cho sự phát
triển giáo dục; giáo dục tách khỏi xã hội thì giáo dục không có lý do để tồn tại.
Xuất phát từ vai trò của xã hội đối với giáo dục và quản lý giáo dục
trong mối quan hệ với xã hội, ngƣời cán bộ quản lý giáo dục cần nhận thức
15


tính khách quan và hiểu bản chất của các mối quan hệ giáo dục với các yếu tố

khác của hệ thống xã hội; có ý thức đầy đủ về vai trò, tác dụng của "cân bằng
động" giữa giáo dục với môi trƣờng kinh tế - xã hội. Giáo dục muốn phát
triển cần duy trì sự "cân bằng động". Xã hội hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà
trƣờng là phƣơng thức phát triển giáo dục, một biện pháp tăng cƣờng tính xã
hội của giáo dục.
1.1.4. Quan điểm tiếp cận hệ thống trong khoa học quản lý giáo dục.
Dƣới góc nhìn của tiếp cận hệ thống, hệ thống giáo dục là một hệ
con của hệ thống xã hội. Giáo dục chi phối nhiều yếu tố của hệ thống xã hội
nhƣ: Giáo dục phụ thuộc vào Nhà nƣớc và chính trị, phụ thuộc vào truyền
thống văn hoá giáo dục của quốc gia, phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế xã hội, phụ thuộc vào trình độ của khoa học, công nghệ...
Mối quan hệ giáo dục - Nhà nƣớc đƣợc xác lập trên cơ sở Nhà nƣớc là
tổ chức công quyền lớn nhất quản lý giáo dục; giáo dục là công cụ của Nhà
nƣớc, giáo dục phục vụ chính trị. Bất cứ Nhà nƣớc nào cũng phải tổ chức
giáo dục cho công dân của mình.
Mối quan hệ Giáo dục - Kinh tế đƣợc xác lập trên quan điểm giáo dục
là nền tảng để phát triển kinh tế - xã hội, đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho
phát triển và ứng với mỗi nền kinh tế có một nền giáo dục tƣơng ứng.
Mối quan hệ Giáo dục - Khoa học và công nghệ; ứng với một trình độ
phát triển khoa học và công nghệ, nội dung và phƣơng pháp giáo dục cũng
bị chi phối. Mối quan hệ giáo dục - khoa học và công nghệ là mối quan hệ hai
chiều, bởi vì giáo dục góp phần sáng tạo ra khoa học và công nghệ và khoa
học công nghệ thúc đẩy giáo dục phát triển.
Mối quan hệ Giáo dục - Môi trƣờng xã hội. Giáo dục cũng nhƣ các lĩnh
vực hoạt động khác của xã hội, luôn bị chi phối bởi bối cảnh và môi trƣờng
diễn ra các hoạt động đó. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, giáo dục sẽ
bị tác động và ảnh hƣởng nhất định.

16



Khi đề cập bản chất của mối quan hệ giữa giáo dục nói chung, nhà
trƣờng nói riêng đối với cộng đồng xã hội ngƣời ta thƣờng nhấn mạnh các
vấn đề sau: [ 20 ].
Thứ nhất, giáo dục xuất hiện cùng với đời sống xã hội của loài ngƣời.
Sự tồn tại và phát triển của giáo dục luôn chịu sự chi phối của trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và ngƣợc lại với chức năng của mình, giáo dục lại có vai
trò to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Ta có thể xem đó là bản chất
tính xã hội của giáo dục.
Thứ hai, xã hội loài ngƣời coi giáo dục là công cụ, phƣơng tiện để
cải biến xã hội.Giáo dục đƣợc coi vừa là động lực, vừa là mục tiêu cho sự
phát triển tiếp theo của xã hội. Khi xã hội phát triển lên một mức mới, chính
xã hội lại tạo điều kiện mới cho giáo dục và đặt hàng mới cho giáo dục nói
chung, nhà trƣờng nói riêng và buộc giáo dục phải tự nâng mình lên để một
mặt đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng mới của xã hội; mặt khác, giáo dục tận
dụng tốt những điều kiện mà xã hội mới tạo cho. Cứ nhƣ thế, tính chất vòng
tròn của mối quan hệ giữa giáo dục và cộng đồng xã hội thƣờng xuyên đƣợc
diễn ra trong sự cân bằng động và phát triển đi lên theo đƣờng xoắn ốc cùng
với quá trình phát triển của xã hội loài ngƣời. Ta có thể coi đó là bản chất
mối quan hệ giữa giáo dục nói chung, nhà trƣờng nói riêng với kinh tế - xã
hội mà ngƣời ta thƣờng đặt tên cho nó là mối quan hệ cân bằng động.
Thứ ba, để tăng cƣờng mối quan hệ giữa giáo dục, nhà trƣờng và cộng
đồng xã hội, chúng ta cần đi sâu vào đặc điểm của các mối quan hệ cụ thể
nghiên cứu kỹ đặc điểm của từng ngành học, bậc học, hoàn cảnh của từng
cộng đồng, từng vùng, từng địa phƣơng để có biện pháp triển khai mối quan
hệ giữa giáo dục đối với cộng đồng xã hội cho phù hợp và có hiệu quả.
1.2. Một số khái niệm cơ bản về quản lý, tổ chức, chỉ đạo, xã hội hoá,
XHHSNGD.
1.2.1. Khái niệm xã hội hoá.

17



Trong xã hội học, xã hội hoá đƣợc sử dụng với nghĩa là quá trình con
ngƣời tiếp thu nền văn minh văn hoá của xã hội trong đó con ngƣời đƣợc
sinh ra, quá trình nhờ nó con ngƣời đạt đƣợc những đặc trƣng xã hội của bản
thân, học đƣợc cách suy nghĩ, ứng xử đƣợc coi là thích hợp trong xã hội hay
là quá trình chuyển biến cá nhân còn mang tính sinh vật sang cá nhân có tính
cách xã hội. Đây chính là quá trình xã hội hoá cá nhân, quá trình hình thành
và phát triển nhân cách.
"Xã hội hoá trước hết là quá trình tương tác giữa con người với con
người, giữa con người với xã hội, qua đó con người với tư cách là cá thể học
hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận quy tắc văn hoá của xã hội như khuôn mẫu hành vi, giá
trị chuẩn mực văn hoá xã hội, kiến thức, kỹ năng, phương pháp để đóng được
những vai trò phù hợp với vị thế xã hội của mình. Trên cơ sở đó, cá thể biến
thành cá nhân, hình thành nhân cách và con người hội nhập vào xã hội" [29,
tr68].
Khái niệm xã hội hoá trong luận văn này thuộc phạm trù cách làm. Xã
hội hoá là một khái niệm chỉ quá trình làm cho một cái gì đó mang tính xã hội
hay trở thành cái chung của xã hội, mà trƣớc đây chỉ có một bộ phận của xã
hội có trách nhiệm quan tâm. Đó là quá trình xã hội hoá các vấn đề, hoạt động
xã hội. Chẳng hạn xã hội hoá hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao... Hiện có nhiều cách diễn đạt khác nhau nhƣng nhìn chung đều thống
nhất rằng: Bản chất của xã hội hoá là cách làm, cách thực hiện chủ trƣơng,
đƣờng lối của Đảng bằng con đƣờng giác ngộ, huy động và tổ chức sự tham
gia của mọi ngƣời dân, mọi lực lƣợng xã hội, tạo ra sự phối hợp một cách
có kế hoạch dƣới sự chỉ đạo, quản lý thống nhất của Nhà nƣớc, làm cho việc
giải quyết các vấn đề xã hội thực sự của dân, do dân và vì dân.
1.2.2 . Khái niệm XHHSNGD.
Rất nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục phát biểu khái niệm
XHHSNGD. XHHSNGD có thể hiểu một cách đơn giản đó là quá trình tạo ra

một xã hội học tập và khi mọi ngƣời đƣợc hƣởng thụ giáo dục thì mọi ngƣời,
18


mọi gia đình, toàn xã hội phải có trách nhiệm về tinh thần và vật chất đối với
giáo dục.
XHHSNGD đƣợc thể chế hoá thành điều 12, Luật Giáo dục năm 2005.
"Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập là sự nghiệp của Nhà nước và
của toàn dân.Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo
dục; thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục;
khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát
triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm
chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo
dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và an toàn". [5, tr12].
XHHSNGD thuộc phạm trù cách làm giáo dục. Giáo dục về bản chất
mang tính xã hội. Giáo dục và xã hội luôn gắn bó, hoà quyện với nhau, hỗ trợ
thúc đẩy nhau cùng phát triển. Xã hội muốn tồn tại và phát triển thì phải làm
giáo dục. Ngƣợc lại, giáo dục muốn phát triển thì không thể tách ra khỏi đời
sống xã hội, không thể không dựa vào cộng đồng. Vì vậy, XHHSNGD là tìm
cách hoàn nguyên bản chất xã hội của giáo dục và gắn giáo dục với xã hội,
với cộng đồng.
Xã hội hoá sự nghiệp giáo dục đƣợc hiểu với nghĩa phổ biến nhất là
làm cho mọi ngƣời và toàn xã hội làm giáo dục, tất cả cho giáo dục và giáo
dục cho mọi ngƣời. Vì vậy, XHHSNGD bao hàm cả xã hội hoá về trách
nhiệm, nghĩa vụ của mọi ngƣời đối với giáo dục và cả xã hội hoá quyền lợi
của mọi ngƣời về giáo dục. Trong đó, xã hội hoá về quyền lợi giáo dục là
mục tiêu chủ yếu, cốt lõi của xã hội hoá sự nghiệp giáo dục. "Mọi người cho
giáo dục " và " Giáo dục cho mọi người" là hai vấn đề có liên quan chặt chẽ
và tác động qua lại lẫn nhau, là hai đặc trƣng của "Xã hội học tập". Muốn
giáo dục đến đƣợc với mọi ngƣời thì mọi ngƣời phải tham gia làm giáo dục;

muốn mọi ngƣời có trách nhiệm đối với giáo dục thì giáo dục phải phục vụ
cho tất cả mọi ngƣời.

19


×