Người báo cáo: CN. THÁI QUỐC DÂN – PHÓ CHI CỤC TRƯỞNG
CHI CỤC PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN TP.HCM
Báo giảng: CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN CẤP XÃ VÀ VAI
TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. SỰ THAM
GIA CỦA NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
(Biên soạn: CN Thái Quốc Dân)
* Các tư liệu trích dẫn, tham khảo:
Các văn bản quy phạm pháp luật của Trung ương và Thành phố liên
quan.
Tập bài giảng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về đào tạo
cán bộ xây dựng nông thôn mới.
Tổng hợp các đề tài, dự án nghiên cứu liên quan của Chi cục Phát triển
nông thôn thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) – Cơ quan Thường trực Tổ
Công tác giúp việc/ Ban Chỉ đạo Chương trình xây dựng nông thôn mới thành
phố.
TS. Nguyễn Hữu Hoài Phú và đồng nghiệp: các bài viết “ Các thời kỳ
phát triển của nông nghiệp thành phố”; Đề án “ Thực hiện Nghị quyết Hội
nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên
địa bàn TP.HCM” (2009).
____________
* Báo cáo gồm 3 phần chính:
Khái niệm về tổ chức kinh tế Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban nhân
dân cấp xã.
1.
Phân tích lợi thế so sánh của nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh và
Vai trò của Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh.
2.
3.
Sự tham gia của nhân dân trong xây dựng nông thôn mới (NTM)
PHẦN I
KHÁI NIỆM VỀ TỔ CHỨC KINH TẾ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP XÃ
1. Khái niệm về Tổ chức kinh tế:
Tổ chức kinh tế bao gồm: doanh nghiệp được thành lập hoạt động theo
Luật Doanh nghiệp (doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty Trách
1
nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh); Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã được
thành lập theo Luật hợp tác xã; các tổ chức kinh tế thành lập theo luật đầu tư.
Chú ý: Hộ gia đình khi hoạt động kinh doanh, đăng ký kinh doanh tại
một địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh thì
chỉ là hộ kinh doanh, không phải là tổ chức kinh tế. Nếu hộ kinh doanh sử
dụng quá 10 lao động thì phải đăng ký thành lập doanh nghiệp theo luật doanh
nghiệp.
2. Nhiệm vụ quyền hạn của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã:
(theo Luật số 11/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003, của Quốc Hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân)
2.1. Trong lĩnh vực kinh tế, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện
những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
2.1.1. Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội hàng năm trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp thông qua để trình Uỷ ban nhân dân huyện phê duyệt;
tổ chức thực hiện kế hoạch đó.
2.1.2. Lập dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán thu, chi
ngân sách địa phương và phương án phân bổ dự toán ngân sách cấp mình; dự
toán điều chỉnh ngân sách địa phương trong trường hợp cần thiết và lập quyết
toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định và
báo cáo Uỷ ban nhân dân, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
2.1.3. Tổ chức thực hiện ngân sách địa phương, phối hợp với các cơ
quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý ngân sách nhà nước trên địa bàn xã,
thị trấn và báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật.
2.1.4. Quản lý và sử dụng hợp lý, có hiệu quả quỹ đất được để lại phục
vụ các nhu cầu công ích ở địa phương; xây dựng và quản lý các công trình
công cộng, đường giao thông, trụ sở, trường học, trạm y tế, công trình điện,
nước theo quy định của pháp luật.
2.1.5. Huy động sự đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng của xã, thị trấn trên nguyên tắc dân chủ,
tự nguyện. Việc quản lý các khoản đóng góp này phải công khai, có kiểm tra,
kiểm soát và bảo đảm sử dụng đúng mục đích, đúng chế độ theo quy định
của pháp luật.
2.2. Trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi và
tiểu thủ công nghiệp, Uỷ ban nhân dân xã, thị trấn thực hiện những
nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
2
2.2.1. Tổ chức và hướng dẫn việc thực hiện các chương trình, kế hoạch,
đề án khuyến khích phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để
phát triển sản xuất và hướng dẫn nông dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây
trồng, vật nuôi trong sản xuất theo quy hoạch, kế hoạch chung và phòng trừ
các bệnh dịch đối với cây trồng và vật nuôi.
2.2.2. Tổ chức việc xây dựng các công trình thuỷ lợi nhỏ; thực hiện việc
tu bổ, bảo vệ đê điều, bảo vệ rừng; phòng, chống và khắc phục hậu quả
thiên tai, bão lụt; ngăn chặn kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ đê điều, bảo vệ rừng tại địa phương.
2.2.3. Quản lý, kiểm tra, bảo vệ việc sử dụng nguồn nước trên địa bàn
theo quy định của pháp luật.
2.2.4. Tổ chức, hướng dẫn việc khai thác và phát triển các ngành, nghề
truyền thống ở địa phương và tổ chức ứng dụng tiến bộ về khoa học, công
nghệ để phát triển các ngành, nghề mới.
PHẦN II
PHÂN TÍCH LỢI THẾ SO SÁNH CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TẠI TP.HỒ CHÍ MINH SO VỚI CÁC TỈNH LÂN CẬN (MIỀN ĐÔNG
VÀ MIỀN TÂY NAM BỘ) VÀ VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP
THÀNH PHỐ
1. ĐIỀU KIỆN TƯ NHIÊN:
1.1 Vị trí địa lý:
TP.HCM nằm trong tọa độ địa lý khoảng 10o 10’ 10o 38’ vĩ độ Bắc và
106o 22’ 106o 54’ kinh độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc
giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp
tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
TP.HCM cách Thủ đô Hà Nội gần 1.730 km đường bộ, nằm ở ngã tư
quốc tế giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây,
là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á. Fir Hồ Chí Minh (Flight Information
Region – Vùng Thông báo bay) bao gồm cả vùng trời miền Nam Việt Nam
và cả vùng trời rộng lớn thuộc biển Đông.
1.2. Diện tích tự nhiên:
1.2.1. Tổng diện tích tự nhiên của Thành phố: 209.555 ha ( 2.095,5 km2);
trong đó diện tích tự nhiên các huyện: 160.808 ha (1.608 km2) chiếm 76,4%
tổng diện tích tự nhiên thành phố. Diện tích đất nông nghiệp năm 2010:
103.938 ha.
3
Trong đó: đất sản xuất nông nghiệp: 56.664 ha, gồm 26.188 ha đất
trồng cây hàng năm và 30.476 ha đất trồng cây lâu năm; đất lâm nghiệp có
rừng: 36.256 ha; đất nuôi trồng thủy sản: 9.361 ha; đất làm muối: 1.000 ha;
đất nông nghiệp khác: 658 ha. Từ quy hoạch phát triển công trình công cộng,
khu công nghiệp và đô thị hoá, bình quân mỗi năm đất sản xuất nông nghiệp
giảm 2.434 ha (so với năm 2001: đất nông nghiệp thành phố giảm 26.782 ha)
1.2.2. Các Quậnhuyện có sản xuất nông nghiệp, 5 Huyện: Cần Giờ,
Nhà Bè, Bình Chánh, Hóc Môn và Củ Chi; các Quận: 2, 9, 12, Thủ Đức và
Bình Tân.
1.2.3. Số xã, phường có sản xuất nông nghiệp:
5 Huyện : 58 xã và 5 Thị trấn.
Các Quận : 47 phường.
1.3. Đặc điểm địa hình, tài nguyên đất tác động đến sản xuất nông
nghiệp:
Thành phố Hồ Chí Minh với địa hình đa dạng, nằm trong vùng chuyển
tiếp giữa miền Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình tổng
quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây và chia thành
3 tiểu vùng với quỹ đất nông nghiệp hạn chế; độ phì nhiêu kém: trong đó có
trên 50% là đất nhiễm phèn, mặn và 20% là đất xám, đồi gò, bạc màu; là đầu
mối giao thông lớn, nối liền với các tỉnh trong vùng Nam Bộ, Nam Trung bộ
và Tây nguyên; là cửa ngõ của cả nước với quốc tế, có bờ biển ở phía Nam
huyện Cần Giờ với hơn 20 km.
Trên cơ sở các yếu tố tự nhiên, thổ nhưỡng, địa hình và chế độ thủy văn,
có thể phân đất đai tại TP.HCM thành 7 vùng sinh thái nông nghiệp cụ
thể (quyết định đến cơ cấu cây trồng – vật nuôi):
+1 Vùng đất xám gò đồi: diện tích khoảng 5.600 ha (chiếm 4,6% diện tích đất
nông nghiệp của TP), phân bố ở Tây Bắc Củ Chi và Bắc Thủ Đức. Đặc điểm
đất vùng này là đất xám gò đồi, hạn chế nguồn nước tưới tự nhiên. Hệ sinh
tháo ở vùng này là ruộng rẫy với hoa màu, đậu đỗ và khoai mì (sắn) một vụ
về mùa mưa, năng suất và hiệu quả kinh tế thấp. Một số khu vực thuộc hệ
sinh thái rừng khoanh nuôi phục hồi và rừng phủ xanh đất trống, chống xói
mòn và cải tạo đất. Phù hợp trồng hoa cây kiểng, rau, chăn nuôi bò sữa, cây
lâu năm, rừng, trồng nấm, kết hợp phát triển các ngành nghề nông thôn, như:
làng nghề bánh tráng, sinh vật cảnh.v.v…
+2 Vùng đất xám vàng đ
ỏ và đất xám bạc màu : diện tích khoảng 18.230 ha
(chiếm 15,0%), phân bố ở Củ Chi, Hóc Môn, Bình Chánh và một phần ở quận
Thủ Đức. Đặc điểm địa hình là dạng lượn sóng đến bằng. Có thể chia 2 tiểu
vùng:
4
Vùng có địa hình cao: khoảng 10m, hệ sinh thái rừng trồng cây
công nghiệp lâu năm (cao su) ở khu vực Đông Bắc Củ Chi và hệ
sinh thái ruộng rẫy cây ngắn ngày;
Vùng thấp: 34m đến 10m, trên cao là hệ sinh thái ruộng màu 2
vụ đậu phộng (lạc), luân canh 1 vụ lúa; dưới thấp là ruộng 2 vụ
lúa, luân canh 1 vụ đậu phộng với năng suất cao và khá ổ định.
+3 Vùng đất phù sa ngọt: diện tích khoảng 10.100 ha (8,3%), phân bổ tập
trung chủ yếu ở vùng giữa của phần phía Nam huyện Bình Chánh. Là vùng
chủ yếu có hệ sinh thái lúa nước 2 vụ năng suất cao, cây lâu năm vườn cây
ăn trái có ưu thế, thủy sản, du lịch sinh thái…
+4 Vùng đất phèn nặng: diện tích khoảng 8.930 ha (7,4%) thuộc khu vực trũng
thấp phía Tây Nam thành phố (Thái Mỹ Củ Chi, qua Nhị XuânHóc Môn,
xuống Tây Nam Bình Chánh). Hệ sinh thái là ruộng nhiễm phèn, trồng lúa 1
vụ, lên líp trồng mía, rừng trồng sản xuất (tràm, keo..), mô hình VAC.
+5 Vùng đất phèn nhẹ (phèn trung bình và phèn ít): diện tích khoảng 17.420 ha
(14,4%) thuộc khu vực thấp trũng có lớp phù sa trên bề mặt; ở rẻo ven sông
Sài Gòn. Hệ sinh thái vườn tập trung xây ăn trái, hoakiểng, nuôi tôm càng
xanh, mô hình VAC kết hợp du lịch sinh thái…
+6 Vùng đất phèn mặn theo mùa 6 – 7 tháng/năm: diện tích khoảng 18.193 ha
(15%) tập trung ở huyện Nhà Bè và khu vực phía Bắc huyện Cần Giờ. Hệ
sinh thái ruộng lúa chịu mặnphèn 1 vụ; cây dừa nước, ao đầm thủy sản mặn
lợ (tôm sú, cua…).
+7 Vùng đất phèn mặn và đất mặn dưới rừng ngập mặn: diện tích khoảng
42.840 ha (35,3% đất NN của TP): tập trung ở huyện Cần Giờ. Hệ sinh thái
rừng ngập mặn chủ yếu (34.000 ha); đất làm muối: 1.000 ha. Khu vực đất
giồng cát ven biển thích hợp trồng các loại cây ăn trái khá nổi tiếng (xoài,
nhãn, ổi…); mặt nước nuôi trồng thủy sản: tôm, cua, cá và nhuyễn thể tại bãi
bồi ven biển.
2. ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI:
2.1. Về dân số:
Dân số TP.HCM (theo Niên giám thống kê 2010 Cục Thống kê
TP.HCM): 7.396.446 người.
Trong đó, dân số 5 huyện ngoại thành là 1.336.244 người (337.798 hộ)
chiếm tỷ lệ 18,07% trên tổng dân số thành phố. Đến tháng 7/2011 – theo kết
quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản (Ban Chỉ đạo Tổng
điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản TP.HCM) tổng nhân khẩu tại 58
xã (381 ấp) thuộc 5 huyện ngoại thành là: 1.204.582 người, với 322.088 hộ
(gồm: 32.161 hộ Nông lâm thủy sản và diêm nghiệp; 133.560 hộ Công
5
nghiệp, xây dựng; 145.191 hộ Thương mại, vận tải, dịch vụ và 11.176 hộ
Nguồn khác).
Mật độ dân số bình quân toàn thành phố là: 3.531 người/km2, nhưng
mật độ dân cư bình quân của 5 huyện ngoại thành ( 835 người km2) ở mức
thấp so với mật độ bình quân và thấp hơn rất nhiều (1 4,6 lần) so với mật độ
bình quân chung của khu vực nội thành (12.267 người/km2).
2.2. Lao động và Việc làm:
Dân số trong độ tuổi lao động của TP.HCM: 4.678.780 người, chiếm
68,7% tổng dân số toàn thành phố, tập trung chủ yếu ở thành thị (chiếm gần
82%). Trong đó, tổng số lao động tại 58 xã thuộc khu vực 5 huyện ngoại
thành là 803.727 lao động – gọi chung là lao động nông thôn (chiếm 17,18%
lao động trên toàn thành phố 4.678.780 lao động).
Theo Niên giám thống kê 2010 Cục Thống kê TP.HCM, tổng số
người trong độ tuổi lao động được giới thiệu, giải quyết việc làm năm 2010
là 291.561 lao động, trong đó số người có việc làm ổn định là 211.961 lao
động; đa số lao động làm việc thuộc khu vực ngoài nhà nước và đầu tư nước
ngoài (175.901 người, tỷ lệ 82,98% trên tổng số người có việc làm ổn định).
Theo nguồn khảo sát của Chi cục Phát triển nông thôn TP, số lao động
thuộc 58 xã tại 5 huyện ngoại thành đã được đào tạo nghề qua các năm là là
490.273 lao động (tỷ lệ # 61% trên tổng số 803.727 lao động). Trong đó, số
lao động trong độ tuổi có việc làm ổn định là 370.156 lao động (tỷ lệ hơn
75%).
Cơ cấu lao động nông thôn ngoại thành có sự chuyển dịch khá nhanh
sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Năm 1998, dân số ở các huyện ngoại
thành sống bằng nghề nông là 480.082 lao động (chiếm tỷ lệ 56,3% dân số
nông thôn); đến năm 2009, dân số ở các huyện ngoại thành sống bằng nghề
nông là 251.454 lao động (Cục Thống kê TP.HCM) và đến năm 2010 là
201.106 lao động (nguồn: Chi cục Phát triển nông thôn) và đến tháng 7/2011
là 93.267 lao động. Như vậy, sau hơn 10 năm đã có 51,11% lao động nông
nghiệp (tương ứng khoảng 279.000 lao động) chuyển đổi nghề nghiệp từ khu
vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp. Lao động nông nghiệp
chuyển dịch sang lao động công nghiệp, làm tăng thu nhập trong hộ nông
nghiệp; một số lao động nông thôn tham gia chương trình xuất khẩu lao động,
góp phần tạo nguồn lực cho phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế xã hội
tại các xã (như tại xã Thái Mỹ huyện Củ Chi, có 1.270 lao động đang lao
động ở nước ngoài, mỗi năm gửi về từ 150 – 200 triệu đồng/lao động/năm).
2.3. Thu nhập và đời sống dân cư:
“Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống nhân dân thành phố ngày
càng được cải thiện. GDP bình quân đầu người của thành phố năm 2006 là
6
1.854 USD; năm 2007 là 2.135 USD (trong đó GDP khu vực nông nghiệp là
914 USD, bằng 40% bình quân chung ), đến năm 2008 là 2.534 USD” (trích
Quyết định số 5930/QĐUBND ngày 28/12/2009 của UBND thành phố). Tốc
độ tăng trưởng kinh tế (GDP) trên địa bàn TP tăng liên tục, bình quân
11%/năm. GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt trên 2.800 USD, gấp 1,68
lần so với năm 2005 1.660 USD (, dự thảo văn kiện
Đại hội Đảng bộ TP.HCM lần thứ IX).
Mức thu nhập bình quân của khu vực ngoại thành thấp hơn khu vực
nội thành, nhưng khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực đã được giảm ngắn
đáng kể. Trong vòng 10 năm trở lại đây, mức thu nhập bình quân nhân
khẩu/tháng của khu vực nông thôn ngoại thành là 549 ngàn đồng/người/tháng
(2002) tăng lên 1.688 ngàn đồng/người/tháng (2010). Mức thu nhập bình quân
nhân khẩu/tháng của khu vực nội thành là 987 ngàn đồng/người/tháng (2000)
tăng lên 2.778 ngàn đồng/người/tháng (2010). Như vậy, khoảng cách phân hoá
thu nhập giữa nội thành và ngoại thành từ 1,79 lần (năm 2002), đến năm 2010
giảm xuống còn 1,64 lần (năm 1995, khoảng cách này là 3,3 lần).
Mức chi tiêu bình quân ở ngoại thành là 332 ngàn đồng/người/tháng
(2002), 1.430 ngàn đồng/người/tháng (2010). Mức chi tiêu bình quân ở nội
thành là 742 ngàn đồng/người/tháng (2002), 2.424 ngàn đồng/người/tháng
(2010). Khoảng cách chênh lệch về chi tiêu giữa nội thành và ngoại thành là
2,23 lần (2002) và 1,69 lần (2010).
Tính chung giai đoạn 2008 – 2012 (5 năm thực hiện Nghị quyết 26 về
nông nghiệp, nông dân, nông thôn):
Thu nhập bình quân/người/tháng theo giá hiện hành của khu vực
nông thôn năm 2012 là 2 triệu 727 ngàn đồng (khoảng hơn 32,7 triệu
đồng/người/năm), tăng 41,2% so với năm 2010 (năm 2010 tăng 47,6% so với
năm 2008), tăng bình quân 20,2% một năm trong thời kỳ 20082012.
Khoảng cách thu nhập giữa thành thị và nông thôn có xu hướng
giảm dần qua các năm. Năm 2008, thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở
thành thị là 2 triệu 359 ngàn đồng, cao gấp 1,8 lần so với nông thôn; đến năm
2010, cao gấp 1,5 lần; đến năm 2012, chỉ còn cao gấp 1,24 lần (theo Cục
Thống kê thành phố). Thu nhập bình quân đầu người khu vực nông thôn năm
2008 chỉ đạt 55,4% so với người dân khu vực thành thị năm đầu tiên thực
hiện Nghị quyết 26; đã tăng lên 66,6% vào năm 2010 và 80,5% vào năm 2012).
Như vậy, mức sống dân cư có sự phân hoá giữa khu vực nội thành và
ngoại thành. Tuy nhiên, mức độ phân hoá trên đã được giảm đáng kể. Nguyên
nhân quan trọng giúp giảm khoảng cách phân hoá là khu vực ngoại thành đã
được đô thị hoá, tỉ lệ hoạt động phi nông nghiệp ngày một tăng lên, tỉ lệ
thuần nông giảm đáng kể. Trong sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp làm tăng giá trị sản xuất nông nghiệp trên một diện tích
7
canh tác giữ vai trò quan trọng: từ 31,4 triệu đồng/ha (2000) lên 63 triệu đồng
(năm 2005) và 138 triệu đồng vào năm 2009 (tăng 2,1 lần so với năm 2005);
đến năm 2010, giá trị sản xuất bình quân 155 triệu đồng/ha/năm (tăng gấp 4,9
lần so với năm 2000 và 2,4 lần so với năm 2005) và năm 2012: đạt 239,1 triệu
đồng/ha/năm (gấp đôi so năm 2008: 117,5 triệu/ha/năm – năm bắt đầu thực
hiện Nghị quyết 26 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn).
Bên cạnh đó, mức chi tiêu giữa nội thành và ngoại thành cũng dần thu
hẹp, thể hiện người dân ngoại thành đã có thêm các cơ hội để hưởng thụ các
dịch vụ như nội thành; điều này có thể thấy rõ qua số lượng các Siêu thị, các
Cửa hàng tiện ích ngày càng được mở nhiều hơn ở khu vực ngoại thành;
ngoài ra, do thành phố đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn, trong đó có giao thông,
cũng giúp việc đi lại thuận tiện hơn so với trước đây.
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
3.1. Thuận lợi:
Nhận định chung: Trải qua hơn 38 năm khôi phục sản xuất nông
nghiệp và phát triển nông thôn, các xã khu vực nông thôn thành phố đã đạt
được tốc độ tăng trưởng ở mức cao; cơ cấu nông nghiệp có bước chuyển
dịch tích cực, đa dạng hoá sản phẩm, chất lượng nhiều loại sản phẩm nông
nghiệp ngày một tăng. Sản phẩm nông nghiệp đã góp phần đáp ứng an ninh
lương thực và nhu cầu của người dân thành phố, một số mặt hàng đã có giá
trị xuất khẩu. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn được tăng cường;
bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi đáng kể. Đây là cơ sở để xác lập các
bước đi vững chắc thực hiện các chỉ tiêu theo Bộ tiêu chí quốc gia về nông
thôn mới trong thời gian tới.
Cụ thể một số chỉ tiêu:
3.1.1. Về tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2009 2013.
GDP: năm 2012, GDP nông lâm ngư nghiệp thành phố tăng 5,1% so
với năm 2011 (cả nước tăng 2,7%); bình quân giai đoạn 2009 2012, GDP
tăng 4,6%/năm (cả nước đạt 2,9%/năm). Ước năm 2013, GDP nông lâm ngư
nghiệp thành phố tăng 6,5% so với năm 2012. Dự kiến giai đoạn 20092013,
GDP tăng bình quân 5%/năm.
Giá trị sản xuất: năm 2012, giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp
thành phố đạt 13.126 tỷ đồng (theo giá thực tế), tăng 6,1% so với năm 2011
(cả nước tăng 3,4%); tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2009 – 2012 đạt
5%/năm (cả nước đạt 4,4%/năm). Dự kiến năm 2013 đạt 15.183 tỷ đồng, bình
quân giai đoạn 20092013 tăng 5,3%/năm.
3.1.2. Về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp:
Trên cơ sở quy hoạch sản xuất nông nghiệp, phát huy lợi thế so sánh,
đã có những chuyển biến rõ rệt trong cơ cấu giá trị sản xuất nông, lâm
8
nghiệp và thủy sản. Năm 2012, trồng trọt chiếm tỉ lệ 23,2% (năm 2008:
24,8%), chăn nuôi: 46,3% (năm 2008: 46,4%), dịch vụ nông nghiệp: 7,1% (năm
2008: 6,1%), thủy sản: 22,5% (năm 2008: 21,7%). Ước năm 2013, cơ cấu các
ngành xấp xỉ năm 2012.
Nhờ cơ cấu lại ngành trên điều kiện thực tiễn, phát huy lợi thế so sánh,
chuyển dịch đúng hướng, phát triển và mở rộng diện tích của những cây
trồng, vật nuôi có hiệu quả cao, nên giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha đất
canh tác được nâng lên đạt 239,1 triệu đồng/ha (2012) gấp đôi so năm 2008
(117,5 triệu/ha/năm)(1).
3.1.3. Kết quả phát triển trồng trọt, hình thành các vùng sản xuất tập
trung
Hoa, cây kiểng (2): đến năm 2012, diện tích canh tác hoa kiểng đạt
1.510 ha, tăng hơn 1,5 lần so năm 2008.
Rau (3): phát triển theo hướng rau an toàn, VietGap. Đến năm 2012,
diện tích canh tác rau đạt 3.024 ha, tăng hơn,1 lần so năm 2008. (4)
3.1.4. Kết quả phát triển chăn nuôi; đảm bảo an toàn dịch bệnh; nâng cao
hiệu quả chăn nuôi, phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi công nghiệp;
hiện đại hóa cơ sở giết mổ, chế biến.
Trong giai đoạn 2009 – 2013, mặc dù chịu những ảnh hưởng bất lợi do
thời tiết, giá nguyên liệu, thức ăn chăn nuôi, dịch bệnh gia súc, gia cầm, chăn
nuôi thành phố vẫn phát triển ổn định.
1()
Theo Quyết định số 124/QĐTTg ngày 02 tháng 02 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ, phê
duyệt quy hoạch tổng thể phát triển sản xuất ngành nông nghiệp đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030: mục
tiêu đến năm 2020, giá trị trên 1 ha đất sản xuất nông nghiệp cả nước đạt 70 triệu đồng/ha/năm.
2
()
Năm 2008, diện tích canh tác hoa kiểng đạt 1.000 ha (chiếm 1,6% tổng diện tích canh tác), giá trị sản
xuất đạt 330 tỉ đồng (chiếm 4,6% tổng giá trị sản xuất). (chiếm 2,8% tổng diện tích canh tác), nhưng giá trị
sản xuất lại đạt 910 tỉ đồng, tăng gấp 2,7 lần so năm 2008 (chiếm 6,9% tổng giá trị sản xuất). Tính chung,
diện tích hoa kiểng tăng 10,9%/năm, giá trị sản xuất tăng 28,9%/năm. Tổng diện tích hoa, cây kiểng 6 tháng
đầu năm 2013 ước đạt 1.314 ha, tăng 4,8% so với cùng kỳ. Trong đó: mai 483 ha, xấp xỉ so cùng kỳ; lan 210
ha, xấp xỉ so cùng kỳ; hoa nền 250 ha, tăng 19% so cùng kỳ; kiểng, bonsai 371 ha, tăng 6% so cùng kỳ.
3
()
4
()
Năm 2008, diện tích canh tác rau đạt 2.600 ha (chiếm 4,2% tổng diện tích canh tác), giá trị sản xuất
đạt 350 tỉ đồng (chiếm 4,9% tổng giá trị sản xuất)., nhưng giá trị sản xuất lại đạt 1.783 tỉ đồng, tăng gấp 5
lần so năm 2008 (chiếm 13,6% tổng giá trị sản xuất). Tính chung,diện tích canh tác rau tăng 10,1%/năm, năng
suất canh tác rau tăng 10,1%/năm, sản lượng rau tăng 14,3%/năm, giá trị sản xuất rau tăng 50,2%/năm. Diện
tích gieo trồng rau 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 8.388 ha, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2012, trong đó rau
an toàn là 8.220 ha; sản lượng ước đạt 168.731 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ.
Nấm: Hiện nay trên địa bàn thành phố có khoảng hơn 100 hộ, cơ sở sản xuất nấm, tập trung chủ
yếu tại các huyện Củ Chi, Bình Chánh, Hóc Môn, Nhà Bè, Cần Giờ. Về chủng loại nấm rất đa dạng, gồm:
Nấm Linh Chi, Nấm Bào ngư, Nấm Rơm, Nấm mèo, Hoàng Kim, Hồng Ngọc, Hầu Thủ,…Quy mô sản xuất
nấm nhỏ lẻ, trung bình 578 m2/cơ sở. Năng suất nấm tùy từng chủng loại: Nấm rơm trồng trên giá thể rạ là
8 tấn/lứa/ha, nấm rơm trồng trên bông phế phẩm 20 tấn/lứa/ha, nấm bào ngư 60 tấn/lứa/ha, nấm linh chi 25
tấn/lứa/ha...
9
Trâu, bò (5): bình quân giai đoạn 20092012 tăng 1,31%/năm. Trong
6 tháng đầu năm 2013, tổng đàn trâu bò đạt 123.027 con, tăng 4,5% so với
cùng kỳ năm 2012. Trong đó Bò sữa: tổng đàn bò sữa năm 2012 đạt 89.800
con, tăng hơn 1,3 lần so với năm 2008, chiếm 53,8% tổng đàn bò sữa cả
nước; trong đó cái vắt sữa la 42.000 con, tăng h
̀
ơn 1,09 lần so với năm 2008
và chiếm 61% sản lượng sữa cả nước.
Heo (6): Tổng đàn heo là 368.262 con (tăng hơn 1,2 lần, so với cùng kỳ
năm 2008). Giai đoạn 20092012: tăng 4,9%/năm. Giống heo (heo con) đến
cuối năm 2012 đạt hơn 950.000 con (tăng 1,28 lần – giá heo con hơn 1,4 triệu
đồng/con).
Cá cảnh(7):Đến năm 2012, sản lượng cá cảnh đạt 70 triệu con, tăng
hơn 1,3 lần so năm 2008.
Cá sấu: tổng đàn cá sấu trên địa bàn thành phố đạt khoảng 187.500
con, tăng 7,1% so với năm 2011; đã gắn trên 12.500 thẻ CITES cho cá sấu
phục vụ xuất khẩu.(8)
Thành phố cũng tăng cường công tác tổ chức nhân thuần, nghiên cứu
các công thức lai, nhằm cải thiện chất lượng con giống trên địa bàn thành
phố. Hình thành hệ thống sản xuất giống heo theo 3 cấp, trong đó doanh
nghiệp nhà nước đóng vai trò giữ và nhân đàn giống gốc. Thường xuyên
khuyến cáo tái cấu trúc, chọn lọc thay đàn, giữ lại những con bò sữa có năng
suất cao. Tổ chức bình tuyển đàn bò sữa và heo đực giống, nhằm thiết lập hệ
thống quản lý giống thống nhất từ nông hộ đến cơ quan quản lý giống.
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân từng bước được nâng
lên, thực hiện có hiệu quả các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết
5
()
Giá trị sản xuất năm 2012 đạt 1.750 tỉ đồng, tăng gấp 2,2 lần so năm 2008 (chiếm 13,3% tổng giá trị
sản xuất). San l
̉ ượng sưa hang hoa
̃ ̀
́ ươc đat h
́ ̣ ơn 231 triệu lít sữa, tăng 5,61% so vơi năm 2011. Năng suât binh
́
́ ̀
quân 5.515 kg/con/năm, tương đương 15,11 kg/con/ngày. Tính chung, tổng đàn cái vắt sữa tăng 2,3%/năm, giá
trị sản xuất tăng 21,6%/năm. Giống bò sữa năm 2008 hơn 17.000 con, (bê giống bò sữa 07 – 08 triệu
đồng/con) đến cuối năm 2012 đạt hơn 22.000 con (tăng gần 1,3 lần – bê giống bò sữa 15 triệu đồng/con).
Trong 6 tháng đầu năm 2013, tổng đàn bò sữa đạt 93.767 con, sản lượng sữa tươi hơn 128 triệu lít, phát
triển 6,4 % so cùng kỳ 2012.
6
()
Đàn heo: đàn nái 47.801 con, đàn thịt 217.684 con, được nuôi tại 9.403 cơ sở chăn nuôi (9.400 hộ dân
và 3 trang trại quốc doanh). Năm 2008: đàn heo hơn 300.000 con; giống heo: hơn 741.000 con (giá heo con
hơn 1 triệu đồng/con),
7
Giá trị sản xuất năm 2012 đạt 400 tỉ đồng, tăng gấp 2 lần so năm 2008 (chiếm 3% tổng giá trị sản xuất).
Tính chung, sản lượng cá cảnh tăng 7,7%/năm, giá trị sản xuất tăng 18,9%/năm (n ăm 2008, sản lượng cá
cảnh đạt 52 triệu con, giá trị sản xuất đạt 200 tỉ đồng chiếm 2,8% tổng giá trị sản xuất.
8()
Các cơ sở chăn nuôi đang giảm dần các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, từng bước hình thành chăn nuôi tập trung,
trang trại theo hướng an toàn sinh học, công nghiệp hóa, hiện đại hóa , đảm bảo môi trường. Đến nay, quy
mô đàn heo nái là 5,73 con/hộ, heo thịt là 28,23 con/hộ. B ình quân chăn nuôi bò sữa là 10,8 con/hộ, tăng gần
1,3 lần so với năm 2008 (năm 2008: 71.857 con/8544 hộ tương đương 8,4 con/hộ; năm 2012: 89.800
con/8.282 hộ tương đương 10,8 con/hộ); trong đó chăn nuôi dưới 10 con/hộ chiếm 59,2%, quy mô từ 10 đến
dưới 50 con/hộ là 39,76% và quy mô trên 50 con/hộ chiếm 1,04%... Bên cạnh đó, các doanh nghiệp thành phố
đã đầu tư chăn nuôi tại các tỉnh, cung cấp nguồn thực phẩm cho người dân thành phố.
10
việc làm, khuyến nông, vay vốn giúp nhau làm kinh tế gia đình.v.v..là cơ sở
để thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế xã hội.
Về cơ cấu lao động, một số lao động nông nghiệp chuyển dịch sang
lao động công nghiệp, làm tăng thu nhập trong hộ nông nghiệp; một số khác
tham gia chương trình xuất khẩu lao động, góp phần tạo nguồn lực cho phát
triển nông nghiệp, phát triển kinh tế xã hội tại các xã.
3.2. Khó khăn:
Tồn tại và hạn chế trong phát triển nông nghiệp đô thị:
+ Đất sản xuất nông nghiệp của thành phố ít, kém màu mỡ so với
Đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam bộ. Phần diện tích thấp trũng
có cao trình dưới 2m và diện tích mặt nước chiếm 61% diện tích tự nhiên của
thành phố; hệ thống thủy lợi và giao thông phục vụ sản xuất chưa hoàn
thiện;
+ Trong thời gian qua, Thành phố rất quan tâm đến việc bảo vệ môi
trường với nhiều chương trình, dự án nghiên cứu, triển khai các giải pháp xử
lý, nhưng kết quả còn hạn chế, ô nhiễm vẫn còn gây tác động đến sản xuất
nông nghiệp, sinh hoạt và đời sống nhân dân.
+ Sản xuất nông nghiệp tuy có tăng trưởng, nhưng thiếu bền vững.
Công nghiệp, dịch vụ phục vụ nông nghiệp – nông thôn chưa đáp ứng được
yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, các hình thức tổ chức sản
xuất chậm đổi mới.
Lao động nông nghiệp có xu thế ngày một già đi do thanh niên nông
thôn chọn ngành nghề phi nông nghiệp tại các khu, cụm công nghiệp; cụ thể
lao động nhóm trẻ giảm theo các mốc điểm từ năm 1999 có tỷ lệ 74,3%, năm
2004 là 72,4% và năm 2006 là 70,7%; trái lại nhóm lao động từ 4060 tuổi
ngày một tăng (tỷ lệ 1999 là 25,7%, năm 2004 là 27,7% và năm 2006 là
28,9%). Đến năm 2011, theo nguồn khảo sát từ Đề án của Chi cục Phát triển
nông thôn TP.HCM, tuổi bình quân của chủ hộ là 48,2 tuổi, tuổi bình quân
chung của lao động nông thôn là 37 tuổi.
Số lao động trẻ có khuynh hướng chuyển sang các ngành nghề phi
nông nghiệp làm cho giá nhân công lao động nông nghiệp trên địa bàn Thành
phố cao hơn các tỉnh khác từ 1,5 đến 2 lần.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển mạnh mẽ của khoa học
công nghệ tuy đem lại nhiều cơ hội để nông nghiệp thành phố tiếp cận với
thị trường, công nghệ tiên tiến, nhưng cũng làm gia tăng áp lực cạnh tranh, tác
động bất lợi của thiên tai, dịch bệnh và các biến động của thị trường.
4. VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ:
4.1: Nhận định chung:
11
Trong nhiều năm qua, quán triệt chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sau khi có
Nghị Quyết Trung ương 7 khoá X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn;
thành phố đã ban hành Quyết định số 10/2009/QĐUBND ngày 22/01/2009 về
ban hành Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của Thành ủy về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn theo Nghị quyết số 26 NQ/TW ngày 05/8/2008
của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong các năm qua nông nghiệp và
nông thôn thành phố đã đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức cao, cơ cấu nông
nghiệp có bước chuyển dịch tích cực, đa dạng hoá sản phẩm, chất lượng
nhiều loại sản phẩm nông nghiệp ngày một tăng. Tựu chung ở 4 nội dung
lớn:
Sản phẩm nông nghiệp đã góp phần giải quyết an ninh lương thực và
nhu cầu của người dân thành phố, một số mặt hàng đã có giá trị xuất khẩu.
Sản xuất nông nghiệp và mãng xanh (khu dự trữ sinh quyển Cần
Giờ…) góp phần quan trọng điều hòa khí hậu tại thành phố.
Góp phần thực hiện Chương trình an toàn vệ sinh thực phẩm của
thành phố; an toàn dịch bệnh.
Quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp giúp kết cấu hạ tầng kinh
tế xã hội nông thôn được tăng cường; bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi
đáng kể.
4.2. Các nội dung cụ thể:
Tăng trưởng GDP thành phố ở mức cao từ 10 – 12%. Đóng góp 1/3 giá
trị xuất khẩu, 1/3 ngân sách quốc gia, 1/5 giá trị GDP cả nước. Thu nhập bình
quân đầu người năm 2010 đạt hơn 2.800 đôla, gấp 2,5 lần mức bình quân của
cả nước. Dù đã giảm, nhưng vẫn đang còn khoảng cách giữa trình độ CNH –
HĐH, giữa thu nhập của nông dân và điều kiện sống của cư dân nông thôn so
với nội thành (GDP trong nông nghiệp tỷ lệ là 1% so với GDP thành phố; bình
quân giá trị sản xuất là 155 triệu/ha; chênh lệch thu nhập nội thành và ngoại
thành còn 1,64 lần ).
Nông thôn thành phố với 5 huyện – 58 xã – hơn 1,2 triệu dân (bằng số
dân 1 tỉnh trung bình của nước ta). Với mục tiêu phấn đấu trở thành Thành
phố văn minh – hiện đại, Nông nghiệp, nông dân và nông thôn là bộ phận
quan trọng, gắn bó khăng khít với sự trưởng thành và phát triển của Thành
phố trong suốt quá trình cách mạng và trong công cuộc đổi mới. Vì vậy, việc
phát triển đô thị và xây dựng nông thôn mới phải song hành và cùng phát triển
theo hướng văn minh và hiện đại, cụ thể với nông nghiệp là nền nông nghiệp
đô thị. Có tài nguyên quý là đất đai, lao động, môi trường sinh thái phong phú
và sự ổn định chính trị. Đây là yếu tố bảo đảm sự phát triển bền vững của
Thành phố.
12
Thuận lợi và thách thức của Nông nghiệp Thành phố:
Thuận lợi:
+ Thành phố có tiềm lực lớn về khoa học công nghệ và tài chính.
+ Là một thị trường lớn có nhu cầu cao về lao động, nông sản có giá
trị và chất lượng, môi trường sinh thái xanh – sạch – đẹp và bền vững.
+ Trong quá trình xây dựng nông thôn mới (bao hàm cả về phát triển
sản xuất), đã trải qua bước Chỉ đạo điểm về “ấp – xã” (Thái Mỹ Tân Thông
Hội), có kinh nghiệm cho bước triển khai.
Thách thức:
+ Nông nghiệp, nông thôn, nông dân thành phố luôn đứng trước áp lực
lớn về sự phát triển nhanh, hiện đại và khoảng cách rộng về đời sống so với
cư dân đô thị.
+ Trong tương lại: Vị thế kinh tế NN – NT ngày càng giảm đi dự kiến
bằng 0,5% GDP, 2% lao động thành phố nhưng NN – NT – ND vẫn có ý nghĩa
lớn về chính trị kinh tế xã hội trong sự phát triển hài hòa của thành phố.
Đặc trưng nông thôn mới của thành phố Hồ Chí Minh: Với đặc điểm
nông nghiệp, nông thôn, nông dân ven đô của một thành phố văn minh, hiện
đại thì nông nghiệp của thành phố sẽ là:
+ Sản xuất phát triển dựa trên công nghệ tiên tiến, sản phẩm hàng hóa
có giá trị và chất lượng cao (bao gồm nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ
môi trường sinh thái) – xây dựng nền nông nghiệp đô thị.
+ Nông dân có thu nhập cao, điều kiện sống được cải thiện (theo cách
sống của người nông dân ven đô văn minh, hiện đại).
+ Có môi trường xanh, sạch, đẹp là vành đai an toàn sinh thái của
Thành phố.
Xét về nông nghiệp Thành phố sẽ có 3 chức năng chính: Nông nghiệp
hiện đại – hiệu quả an toàn;
+ Sản xuất nông nghiệp hiện đại dựa theo yêu cầu của thị trường kết
nối các tổ chức Khoa học – Doanh nghiệp – Thị trường – Thành phố và Khu
vực.
+ Xây dựng các hộ nông dân sản xuất giỏi, các trang trại, các HTX,
các doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao để tổ chức sản xuất, chế biến
các sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản có giá trị và chất lượng cao.
+ Môi trường sinh thái bền vững. Môi trường xanh – sạch – đẹp vừa
đảm bảo là cơ sở để kinh doanh “Kinh tế sinh thái”, “Du lịch sinh thái”, “Nhà
vườn sinh thái”; vừa đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Thành phố.
Cận kề Thành phố hiện đại là những huyện – xã tiêu biểu cho từng
vùng sinh thái: miền Đông Nam bộ là Củ Chi, miền Tây Nam bộ là Bình
13
Chánh, Duyên hải là Cần Giờ”. Phải giữ gìn và phát huy, khai thác lợi thế gắn
với các khu đô thị gần kề để nâng cao giá trị tài nguyên đất đai, môi trường
sinh thái.
5. KHÁI QUÁT ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TP.HCM SO VỚI CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC VÀ MỘT SỐ TỈNH
THÀNH
5.1. Có đủ các vùng sinh thái đặc trưng của miền Đông và miền Tây
Nam bộ:
TP.HCM nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và
đồng bằng sông Cửu Long, địa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc
xuống Nam và từ Đông sang Tây, như: huyện Củ Chi và Hóc Môn – có những
đặc điểm của vùng Đông Nam Bộ; huyện Bình Chánh: có nhiều nét tương
đồng với miền Tây Nam Bộ; huyện Nhà Bè và Cần Giờ: vùng nước lợ nước
mặn. Từ đó có nhiều thuận lợi: có thể nghiên cứu, cung cấp giống và cung
cấp khoa học kỹ thuật liên quan.v.v..cho các vùng.
5.2 Đối với TP.HCM, giá trị sản xuất nông nghiệp so với GDP không
cao, nhưng có 4 thế mạnh (đứng thứ 1) về cây trồng, vật nuôi:
5.2.1 Bò sữa: chiếm >51% lượng bò sữa cả nước (>90.000 con). San̉
lượng sưa hang hoa
̃ ̀
́ ươc đat h
́ ̣ ơn 231 triệu lít sữa (sản lượng sữa tươi chiếm
61% sản lượng sữa cả nước) . Đặc biệt, bò sữa thành phố là giống đạt sản
lượng cao.
5.2.2 Heo: tổng đàn >368.000 con, đứng thứ 1 cả nước về đàn giống và
nái, với đa phần là các giống lai tạo năng suất cao.
2.3 Cá sấu: Tổng đàn cá sấu hiện nay >187.000 con.
2.4 Cá cảnh: sản lượng cá cảnh khoảng > 70 triệu con (dự kiến sẽ tăng
gấp 2 vào giai đoạn 2013 – 2015).
Chưa kể nuôi chim Yến trong nhà, 9 tháng đầu năm 2011 đạt >350 kg
(bình quân 1kg:40 triệu đồng), đã đạt giá trị # 14 tỷ đồng; diện tích sản xuất
muối của thành phố đứng thứ 3 cả nước (năng suất niên vụ 2009/2010 đạt >
100.000 tấn), đặc biệt đang định hướng sản xuất muối theo phương pháp kết
tinh muối trên nền ruộng trãi bạt, vừa đảm bảo tăng độ sạch của muối, vừa
tăng năng suất và giá bán (muối vàng hiện nay, khoảng 750đ/kg, muối bạt
#1.000đ/kg).
Chính vì vậy, phải: phát huy lợi thế; khắc phục tồn tại; những điểm
yếu: không làm (đất đai ít; LĐ giá cao; SX nhỏ lẽ, phân tán; liên kết với
những địa phương không tốt..) – các kết quả cụ thể đã nêu tại phần 2 và 3.
14
GTSX NN (gồm cả lâm nghiệp, thủy sản) TP năm 2011 đạt trên 11.100
tỷ đồng (hơn tổng GTSX của các tỉnh trung bình), tăng 6,2% so với năm trước
(Tốc độ tăng trưởng chung NN cả nước 4%). Trong đó, NN chiếm 79,2%, TS
chiếm 19,7%, lâm nghiệp chiếm 3,6%.
5.3. Kết quả sản xuất nông nghiệp TP.HCM so với các nước trong khu
vực:
5.3.1. Thế mạnh khoa học công nghệ, đặc biệt công nghệ sinh học,
chuyên về giống ngày một phát triển:
5.3.1.1 Phát huy thế mạnh; vừa mở rộng liên kết với khu vực, các
nước có thế mạnh để phát triển nhanh: TD: hiện nay tại thành phố, Bò phải
là bò giống, không phải nuôi lấy sữa, thịt. Tuyên truyền quảng bá về giống.
5.3.1.2 Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, giống: đã phát triển, tính
toán bản quyền.
5.3.1.3 Phát triển những khu NN công nghệ cao: giúp nông dân tiếp
cận công nghệ mới; chuyển giao KHKT; tăng cường vệ sinh, an toàn thực
phẩm; chế biến bảo quản, tiêu thụ sản phẩm: nhằm nâng cao chất lượng sản
phẩm và giá trị gia tăng.
5.3.2. Đã Hình thành bộ máy tổ chức phục vụ phát triển công nghệ
sinh học: đã có Trung tâm Công nghệ sinh học của thành phố, các Trung tâm
nghiên cứu công nghệ sinh học của các Viện trường đóng trên địa bàn thành
phố vừa đào tạo nhân lực hiện có và mạnh dạn thuê chuyên gia giỏi (trong
nước, nước ngoài).
5.3.3. Về cơ chế, quy hoạch: đã quy hoạch các khu vực đất, tính toán
phát triển các trung tâm, khu vực đầu tư sản xuất, lai tạo giống. Tính luôn quy
hoạch các khu vực đất nông nghiệp dự trữ (không cho đô thị hóa). Tăng
cường chất lượng hiệu quả sử dụng đất (cho sản xuất, kho, chế biến đầu
vào và đầu ra). TD: phải tăng cường chế biến cỏ khô nuôi bò giống, không
phát triển các diện tích đồng cỏ (hiệu quả không cao so với SX khác).
5.3.4. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học với các Viện, Trường:
Sở NN: đăng ký, đặt hàng với các vấn đề Nhà nước quan tâm;
Doanh nghiệp: khuyến khích nghiên cứu các vấn đề thực tiễn doanh
nghiệp quan tâm (nhà nước hỗ trợ lãi vay, kích cầu…). Tổng Cty NNSG:
vai trò chủ lực.
5.3.5. Đã có các cơ chế chính sách làm động lực phát triển NN:
15
Cơ chế chính sách hỗ trợ theo từng mục tiêu phát triển cụ thể
(Quyết định 33…);
Cơ chế chính sách hỗ trợ với doanh nghiệp (Quyết định 36..).
5.3.6. Các cơ sở nông nghiệp mạnh của thành phố vươn chân rết, vệ
tinh ra khỏi thành phố và các nước trong khu vực: tạo môi trường phát
triển.
5.3.7. Đã hình thành, phát triển các Trung tâm, cơ sở đầu tư chế
hiến, bảo quản sản phẩm nhằm nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm:
nhằm trở thành đầu mối chế biến, tiêu thụ sản phẩm.
5.3.8. Đối với tổ chức SXKD trong lĩnh vực nông nghiệp, cá nhân
nông dân: bên cạnh có đất, có tiền cần đã phát triển, tiếp thu kỹ thuật; biết
mua bán (yếu tố con người); biết liên kết SX và tiêu thụ dưới sự hỗ trợ, quản
lý của nhà nước.
5.3.9. Phát triển nông nghiệp gắn với du lịch sinh thái.v.v…
PHẦN III
SỰ THAM GIA CỦA NHÂN DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1. Sự cần thiết phải có sự tham gia của người dân
Sự tham gia của người dân đã trở thành phương châm hành động và
là mục tiêu quan trọng nhất trong xây dựng nông thôn mới. Chúng ta
cùng nhau tìm ra câu trả lời cho một số câu hỏi sau:
Câu hỏi
Câu trả lời của
anh/chị
Đề án xây dựng nông thôn
mới ở xã là của ai?
Đề án xây dựng nông thôn
mới ở xã do ai lập nên?
Ai là người hưởng lợi
thực sự từ kết quả triển
khai đề án xây dựng nông
16
Vì sao anh/chị trả
lời như vậy?
thôn mới ở xã?
Nhân dân là người chủ thật sự của đề án xây dựng nông thôn mới nên
họ có quyền và có bổn phận trực tiếp tham gia hoặc cử đại diện cho
mình tham gia vào các hoạt động phát triển của xã.
Vì người dân của xã là người chủ và cũng là người hưởng lợi từ các
dự án thực hiện tại xã. Vì dân là chủ nên mọi quyết định đều phải là
của nhân dân trong xã. Vì thành quả của dự án là của nhân dân trong
xã. Do đó mọi người dân có quyền và trách nhiệm tham gia vào các
cuộc họp, cùng nhau bàn bạc và cùng nhau quyết định, cùng nhau
làm, giám sát, nghiệm thu... các thành quả đó.
Để thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở là: dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra giám sát, dân quản lý và sử dụng thành quả, dân hưởng
lợi ích từ các hoạt động trong đề án.
Để tăng khả năng phù hợp của các hoạt động trong đề án với các
nhu cầu của người dân, với điều kiện hạn chế của từng địa
phương. Không ai hiểu rõ hoàn cảnh, tình hình thực tế và tích luỹ
được nhiều kinh nghiệm quý báu như nhân dân tại xã. Những kiến
thức, kinh nghiệm ấy được sử dụng trong đề án sẽ đem lại rất
nhiều lợi ích.
Sự tham gia của người dân là cách tốt nhất để người dân thật sự
trở thành chủ của đề án xây dựng nông thôn mới tại địa phương
mình. Người dân không còn chỉ là “đối tượng hưởng lợi” của đề án,
mà còn là người chủ thực sự của đề án.
Để tận dụng và khai thác các nguồn lực của địa phương, để đề án
xây dựng nông thôn mới ở xã đạt được kết quả cao nhất, nhân dân
trong xã hưởng lợi được nhiều và lâu dài nhất.
Để tạo cơ hội nâng cao năng lực cho nhân dân. Qua việc tham gia
vào các hoạt động đánh giá nhu cầu và xác định khó khăn, xác định
các hoạt động ưu tiên... người dân sẽ học được các kỹ năng phân
tích. Qua việc tham gia vào lập kế hoạch và qua việc tham gia
vào thực hiện đề án họ sẽ dần dần tự tin và có kỹ năng tổ chức. Tạo
được các kỹ năng về tổ chức và thực hiện các hoạt động của đề án
sẽ đặt được nền móng cho sự thành công của các hoạt động phát
triển hiện tại và tương lai của xã.
2. Các nguyên tắc trong xây dựng nông thôn mới
17
Ba nguyên tắc chính đóng vai trò là kim chỉ nam trong xây dựng
nông thôn mới là:
Xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo phương châm dựa
vào nội lực và cộng đồng địa phương. Nhà nước chỉ hỗ trợ một
phần làm động lực nhằm phát huy sự đóng góp của người dân và
cộng đồng.
Các hoạt động cụ thể do chính người dân tự đề xuất và thiết kế
trên cơ sở bàn bạc dân chủ, công khai và quyết định thông qua
cộng đồng. Chính quyền các cấp chỉ đóng vai trò hướng dẫn kỹ
thuật; tổng hợp các đề xuất, kiến nghị; phê duyệt kế hoạch phát
triển và tạo điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện vai trò
làm chủ thông qua cộng đồng.
Xây dựng nông thôn mới phải đảm bảo phát triển nông thôn bền
vững, hài hòa với môi trường, góp phần bảo tồn giá trị truyền
thống của địa phương.
2.1.
Xây dựng nông thôn mới dựa vào nguồn lực cộng đồng
Cần nhấn mạnh rằng nguồn lực, “đầu vào” của tiến trình phát
triển không chỉ là tiền hoặc các yếu tố vật chất hữu hình như đất
đai, nguyên vật liệu, công lao động. Sự chủ động và tích cực tham
18
gia ý kiến, sự năng động sáng tạo, tinh thần trách nhiệm, tình
tương thân, tương trợ, sự tín nhiệm, tính cộng đồng… là nguồn
lực vô cùng quý báu, nhất là trong bối cảnh đời sống nhân dân còn
nhiều khó khăn và chủ trương “khoan sức dân” như hiện nay. Vậy
nguồn lực là gì? Nguồn lực phục vụ xây dựng nông thôn mới có
thể được xem xét theo 3 loại như sau:
a.
Vốn vật chất, tài chính
Trong quá trình phát triển của bất kỳ cộng đồng nào cũng cần phải
có nguồn lực vật chất. Các yếu tố vật chất hữu hình như đất đai,
nguyên vật liệu, công lao động, tiền của …. là điều kiện không
thể thiếu trong phát triển. Cộng đồng này có vốn vật chất dồi dào
hơn, nhưng cộng đồng khác thì thiếu hụt nguồn lực này. Sự hỗ trợ
tài chính của Nhà nước nhằm gia tăng thêm nguồn lực vật chất cho
cộng đồng. Vậy sự hỗ trợ của Nhà nước không theo cơ chế bình
quân chung cho tất cả cộng đồng. Tùy thuộc vào mức độ thịnh
vượng, điều kiện đất đai, vị trí địa lý, dân số… của cộng đồng mà
sự hỗ trợ của Nhà nước sẽ khác nhau.
b.
Vốn con người
Vốn con người là toàn bộ hiểu biết và nhiệt tâm của con người khi
tiến hành các hoạt động trong cuộc sống nói chung và phát triển
cộng đồng nói riêng. Một trong những yếu tố quyết định sự thành,
bại trong quá trình xây dựng nông thôn mới là phát huy và sử dụng
hiệu quả vốn con người. Mục đích phát triển là vì con người nên
trong quá trình phát triển chúng ta cần chú trọng việc tích lũy và gia
tăng vốn con người thông qua việc cùng quy mô thông tin, đào tạo,
giáo dục, nâng cao nhận thức, tư vấn….
c.
Vốn xã hội
Vốn xã hội là sự tuân thủ phong tục, những quy ước chung (hương
ước) của cộng đồng mà không cần sự cưỡng chế, áp đặt, là sự tín
nhiệm giữa những người trong cộng đồng, là “mạng lưới” xã hội
có ảnh hưởng tốt đối với xã hội. Sự tin cậy chính là cơ sở, đồng
thời là động lực bảo đảm sự phát triển bền vững của vốn xã hội.
Vốn xã hội là sản phẩm của tập thể và lợi ích của nó cũng là của
chung. Vốn xã hội giúp giải quyết những “bài toán tập thể”. Vốn
xã hội sẽ giúp tiết kiệm nguồn lực vật chất trong quá trình phát
triển. Vốn xã hội có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng và tốc
độ tích lũy của những loại vốn khác.
19
Trong quá trình xây dựng nông thôn mới cần chú trọng các biện
pháp kết nối cộng đồng, xây dựng các tổ chức dựa vào cộng đồng,
những hoạt động tập thể, trao đổi thông tin, cổ động sự tham gia
đông đảo nhân dân… để tiến đến sự đồng thuận trong cộng đồng.
2.2.
Xây dựng nông thôn mới do cộng đồng làm chủ
Đây là nguyên lý chủ đạo trong xây dựng nông thôn mới. Thế nào
là cộng đồng làm chủ? Phát huy dân chủ trong nhân dân theo phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Đây là các nấc thang
của sự tham gia.
Xây dựng nông thôn mới dựa vào nguồn lực cộng đồng là phát
hiện và phát huy các nguồn lực, những thế mạnh trong cộng đồng và
chuyển giao quyền tự chủ cho cộng đồng nhằm động viên người dân tạo
ra những thay đổi tích cực và có ý nghĩa cho chính mình. Một trong
những nguyên lý phát triển là phát huy nội lực và nâng cao khả năng tự
quản của cộng đồng. Sự viện trợ của Nhà nước hay các tổ chức khác từ
bên ngoài cộng đồng sẽ không phát huy hiệu quả nếu như người dân
không suy nghĩ và tìm cách tự giúp chính mình.
Không có và không thể có một mô hình “nông thôn mới” hay một
công thức chung bất di, bất dịch áp dụng cho mọi tình huống. Xây dựng
nông thôn mới chỉ có hiệu quả và bền vững khi nó tương thích với đặc
điểm tự nhiên, điều kiện văn hóa, xã hội, phong tục tập quán … của
từng địa phương. Chính sự phong phú và đa đạng này nên để cho nhân
20
dân có quyền chọn
đến và cách thức
đích. Cơ quan tư
đóng vai trò hỗ trợ,
làm giúp, làm thay
đặt.
lựa đích
đạt được
vấn chỉ
khơng nên
hoặc áp
Cộng đồng
cần phải
xây dựng các mục
tiêu để
phấn đấu trong
từng giai
đoạn. Sau đó, mục tiêu cần được cụ thể hóa thành những chỉ tiêu
phấn đấu trong từng giai đoạn.
Tầm nhìn của đa số cộng đồng hạn hẹp, mang tính cục bộ địa
phương và ngắn hạn nên họ rất cần các cơ quan chức năng cung cấp
thơng tin, kiến thức và giúp họ nâng cao kỹ năng tổng hợp, kỹ năng phân
tích, kỹ năng tư duy để họ có thể định hướng tốt, xây dựng mục tiêu phù
hợp với nguồn lực hiện tại và phù hợp với mục tiêu chung của huyện,
của tỉnh và của quốc gia. Nếu cộng đồng khơng đủ sức chọn lựa thì nâng
cao dân trí, năng lực, giúp cho họ tiếp cận các mơ hình khác nhau bằng
cách tổ chức tham quan, đào tạo và cung cấp thơng tin. Khơng dành
quyền chọn lựa thay cho nhân dân.
2.3.
Bảo đảm tính bền vững
Mô hình phát triển bền
trong phát triển
Nền tảng của phát triển là
con người như Đảng ta đã khẳng định
“Dân là gốc”. Phát triển đồng bộ cả 3
khía cạnh: kinh tế, xã hội và mơi trường,
sao cho sự phát triển của lĩnh vực này
khơng làm tổn hại đến sự phát triển của
lĩnh vực khác.
vững
Sự phát triển khơng chỉ dừng
lại ở việc xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn ở cấp độ hộ gia đình hoặc từng cá
nhân đơn lẻ mà hướng đến cuộc sống chung của cả cộng đồng. Sự thịnh
vượng ở đây khơng chỉ bó hẹp ở ý nghĩa vật chất, nó còn bao hàm cả ý nghĩa
tinh thần (tính tồn diện), khơng chỉ cho thế hệ hơm nay mà còn cho cả con
cháu mai sau (tính bền vững). Khuyến khích người dân tự hợp tác và giúp đỡ
nhau là điểm mấu chốt để xây dựng nơng thơn mới. Hợp tác phải dựa trên
mong muốn phát triển chung cả cộng đồng, sự phát triển đó có được là nhờ
nỗ lực của tập thể.
Tinh thần của phong trào xây dựng làng mới tại Hàn Quốc
(Saemaul Undong) là một ví dụ để tham khảo. Tổng thống Hàn Quốc tun
21
bố: “nếu chúng ta phát huy được tinh thần chăm chỉ, tự lực vượt khó, hợp tác
tiềm ẩn tromg mỗi người dân nông thôn, tôi tin rằng tất cả các làng xã sẽ có
cuộc sống thịnh vượng… Mọi người làm việc và hợp tác với nhau xây dựng
làng mình ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Đó là phương hướng hành động
của mô hình làng mới”.
Như vậy, xây dựng nông thôn mới là tiến trình thay đổi có chủ
đích, bằng sức mạnh nội tại và theo chiều hướng tích cực.
Trước hết, xây dựng nông thôn mới là một tiến trình có chủ đích.
Điều này có nghĩa là quá trình phát triển phải xuất phát từ ý nguyện và mong
muốn của toàn bộ nhân dân trong cộng đồng. Những cộng đồng nghèo, thụ
động, ỷ lại rất cần sự tư vấn và hỗ trợ của các ban, ngành chức năng (chính
quyền, đoàn thể) để phá vỡ “sức ỳ” bên trong cộng đồng và khơi dậy ước
muốn và nhu cầu tự phát triển. Hay nói cách khác, tác viên phát triển (trong
trường hợp này là cơ quan tư vấn và các cơ quan chức năng của địa phương)
cần có những động thái giúp cộng đồng hiểu rằng động lực chính để tạo ra
và duy trì quá trình phát triển phải xuất phát từ bên trong cộng đồng, giúp
cộng đồng hiểu rõ hơn về thực trạng hiện tại của họ thông qua các cuộc trao
đổi, thảo luận, khảo sát về tiềm năng và nhu cầu, thuận lợi và khó khăn của
cộng đồng.
Cộng đồng yếu kém (nghèo vật chất lẫn nhận thức) sẽ mãi là
cộng đồng nghèo nếu như họ chờ đợi sự cấp phát từ bên ngoài như là cách
thức giúp họ “đổi đời”. Quá trình phát triển bền vững phụ thuộc vào ý chí,
quyết tâm và nỗ lực của cộng đồng trong việc phát hiện và phát huy tiềm
năng nội tại. Viện trợ từ bên ngoài chỉ là chất xúc tác để tiến trình diễn ra
nhanh hơn và thuận lợi hơn. Cộng đồng nên có những cơ chế để tiếp nhận sự
viện trợ bên ngoài và biến nó thành sức mạnh nội tại để tự phát triển..
Phát triển là tiến trình thay đổi theo chiều hướng tích cực và có
chủ đích. Cộng đồng cần phải xây dựng các mục tiêu để phấn đấu trong từng
giai đoạn. Sau đó, mục tiêu cần được cụ thể hóa thành những chỉ tiêu
phấn đấu trong từng giai đoạn.
Tóm lại, xây dựng nông thôn mới theo hướng bền vững là tiến
trình:
Phát huy nội lực: Biến ngoại lực thành sức mạnh nội tại
Tự quản:
Do cộng đồng làm chủ
Thay đổi toàn diện: Con người, kinh tế, xã hội, môi trường
Bộ mặt, mức sống, lối sống
Hài hoà:
Hài hòa giữa các yếu tố
22
Hài hòa theo mục tiêu chung
Hài hòa với môi trường
Hài hòa giữa giá trị truyền thống và công nghệ
tiên tiến
3.
Nhân dân tham gia vào những giai đoạn nào của đề án xây dựng
nông thôn mới?
Để người dân tham gia vào các các hoạt động trong đề án xây dựng
nông thôn mới củaq xã, trước hết cán bộ phải thay đổi nhận thức và
cần phải có phương pháp, kỹ năng tiếp cận cộng đồng theo phương
pháp có sự tham gia.
Tuy nhiên, sự tham gia là cả một quá trình. Quá trình đó chỉ có thể cải
thiện nhanh khi mà cả cán bộ lẫn nhân dân trong cùng có các nỗ lực
để thực hiện cách tiếp cận này.
Người dân xã sẽ tham gia tất cả các giai đoạn của chu kỳ đề án, đó
là:
1. Xác định khó khăn, nhu cầu và các vấn đề cần giải quyết.
2. Đưa ra giải pháp, lựa chọn hoạt động
3. Lập kế hoạch có sự tham gia.
4. Thẩm định/phê duyệt và lập kế hoạch thực hiện.
23
5. Tổ chức thực hiện, thi công.
6. Kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng và tiến độ thực hiện.
7. Nghiệm thu/bàn giao.
8. Quản lý, duy tu và sử dụng lâu dài các thành quả của đề án.
Cán bộ cần có phương pháp, kỹ năng, biện pháp thích hợp để tạo cơ hội
để người dân tham gia có hiệu quả.
Sự động viên cần thiết để người dân tích cực tham gia.
Sự tham gia của người dân có kết quả/hiệu quả thực sự.
Thiếu một trong ba điều kiện này thì sự tham gia chỉ là hình thức, ít có
hiệu
**************
24