Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo luật hình sự việt nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố hải phòng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 93 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI MNH CNG

TộI VI PHạM CáC QUY ĐịNH Về Sử DụNG ĐấT ĐAI
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2019


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

BI MNH CNG

TộI VI PHạM CáC QUY ĐịNH Về Sử DụNG ĐấT ĐAI
THEO LUậT HìNH Sự VIệT NAM
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 8380101.03

LUN VN THC S LUT HC

Ngi hng dn khoa hc: GS.TS NGC QUANG

H NI - 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Mạnh Cường


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM...... 7
1.1.

Một số khái niệm có liên quan .......................................................... 7


1.1.1. Khái niệm đất đai và sử dụng đất đai ................................................... 7
1.1.2. Khái niệm Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai................... 11
1.2.

Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về sử dụng đất đai......... 16

1.2.1. Nội dung các văn bản luật quy định về sử dụng đất đai .................... 16
1.2.2. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật xử lý đối với những
hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai .................................... 18
1.3.

Khái quát lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam quy định về
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai ................................ 20

1.3.1. Giai đoạn từ 1945 đến trước năm 1985.............................................. 20
1.3.2. Giai đoạn từ 1985 đến 2015 ............................................................... 23
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI
PHÒNG TỪ NĂM 2013 ĐẾN NĂM 2017 ...................................... 29
2.1.

Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về Tội
vi phạm các quy định về sử dụng đất đai ....................................... 29

2.1.1. Dấu hiệu pháp lý của Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai ....... 30


2.1.2. Hình phạt đối với tội phạm ................................................................ 43
2.2.


Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ
2013 đến 2017 .................................................................................... 44

2.2.1. Đặc điểm tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm về sử dụng
đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng .......................................... 44
2.2.2. Kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế xử lý đối với tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng ....... 51
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế xử lý đối với Tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng........................ 61
2.2.4. Những nguyên của các hạn chế, tồn tại.............................................. 64
Chương 3: NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM CÁC QUY
ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI ...................................................... 67
3.1.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật ................................................ 67

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự.............................................................. 67
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật đất đai............................................................... 73
3.2.

Các giải pháp khác về tổ chức và thực hiện................................... 75

3.2.1. Nâng cao năng lực trình độ của những người có thẩm quyền tố
tụng trong các cơ quan điều tra, kiểm sát, xét xử .............................. 75
3.2.2. Tăng cường phổ biến và tuyên truyền pháp luật về đất đai ............... 77
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 81



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

HĐND:

Hội đồng nhân dân

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG


Số hiệu

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1 Thống kê số vụ án và số bị can/bị cáo bị xử lý về tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai

52

Bảng 2.2 Kết quả xử phạt đối với bị cáo trong xét xử tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố
Hải Phòng

56


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặt ra những yêu cầu
to lớn đối với công tác quản lý nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã
hội, trong đó, quản lý về đất đai là một nội dung quan trọng liên quan tới các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sử dụng đất của các tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân. Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến
vấn đề đất đai; ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
mối quan hệ liên quan đến đất đai cho phù hợp với tình hình đổi mới của đất
nước. Sự ra đời của Luật đất đai năm 2013 và các văn bản có liên quan góp
phần không nhỏ trong việc quản lý "lĩnh vực nóng" và được coi là nhạy cảm
này. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta cần thẳng thắn nhìn

nhận vẫn còn không ít tồn tại, hạn chế nhất định trong công tác quản lý nhà
nước về đất đai, như: công tác quản lý đất đai ở nhiều địa phương còn bị
buông lỏng; ý thức và hiểu biết pháp luật đất đai của nhiều tổ chức, cá nhân
còn hạn chế; tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, người có thẩm quyền
trong các cơ quan nhà nước vì động cơ tư lợi cá nhân đã có hành vi làm trái,
lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn… dẫn đến gây ra nhiều hậu quả xấu
về kinh tế - xã hội. Khi "tấc đất" ngày càng khẳng định giá trị là "tấc vàng",
những sai phạm về đất đai cũng ngày càng nhiều hơn. Liên tục xảy ra những
vụ án liên quan đến sai phạm trong quản lý và sử dụng đất đai thời gian qua,
cho thấy loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Sự
phức tạp không chỉ thể hiện ở số người vi phạm, mức độ thiệt hại mà còn là
sự cấu kết của một số cán bộ có chức, có quyền, với những thủ đoạn hết sức
tinh vi, xảo quyệt. Nhiều vụ việc gây bức xúc trong dư luận cả nước, đủ yếu
tố cấu thành tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đòi hỏi cần có sự vào

1


cuộc sát sao, mạnh mẽ của các cấp, các ngành, trong đó, không thể không kể
đến vai trò của các cơ quan bảo vệ pháp luật cần phải nghiêm khắc xử lý.
Bộ luật hình sự năm 2015, tiếp nối những thành tựu lập pháp của Bộ
luật hình sự năm 1985 và năm 1999 đã quy định cụ thể, chi tiết hơn về Tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất tại Điều 296. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự cho thấy trong phạm vi cả nước số vụ
án được xét xử đối với các tội danh này rất ít, có nhiều khó khăn, vướng mắc
trong quá trình xét xử đối với loại tội này. Việc áp dụng pháp luật về tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai còn nhiều hạn chế, tồn tại do những
nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau. Do đó, đề hoàn thiện chính
sách hình sự đối với các tội phạm về đất đai, nhằm cụ thể đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đất đai thì cần thiết phải

nghiên cứu về lý luận và thực tiễn đối với tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai, đặc biệt là cần có những kiến nghị, đề xuất cụ thể để hoàn thiện
pháp luật về tội danh này. Vì những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài: Tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai theo Luật hình sự Việt Nam (Trên cơ
sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng) làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội phạm xâm phạm trật tự nói chung, tội phạm vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai nói riêng luôn mang tính thời sự, cấp thiết xuất phát từ
hoạt động quản lý đất đai của các cơ quan nhà nước. Vì vậy, những công
trình nghiên cứu về chính sách hình sự, về tội phạm xâm phạm trật tự nhiều,
có thể ở góc độ luật hình sự hoặc góc độ tội phạm học. Cụ thể, các công
trình nghiên cứu dưới dạng tài liệu chuyên khảo, tham khảo, giáo trình, bình
luận khoa học. Đây là những tài liệu mang tính chất phổ biến cung cấp

2


những tri thức lý luận cơ bản nhất liên quan đến đề tài tác giả nghiên cứu.
Có thể kể đến: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của
TSKH.PGS. Lê Văn Cảm chủ biên (2007); Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần các tội phạm) của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên (2000);
Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam của PGS.TS. Kiều Đình Thụ (1998); Bình
luận Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự năm 1999 của
Nguyễn Ngọc Anh, Đỗ Khắc Hưởng (2010); Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự (Phần các tội phạm) của ThS. Đinh Văn Quế (2006); Pháp luật hình
sự về các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế của Nguyễn Mai Bộ (2004) và
nhiều công trình nghiên cứu khoa học khác...
Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
các tội phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Trong công cuộc xây dựng nhà

nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhất là khi thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị, vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về từng lĩnh vực
cần được làm sáng tỏ cả về mặt lý luận và thực tiễn là cơ sở cho việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung, các tội phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai nói riêng, góp phần nâng
cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật.
Nhìn chung, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều quốc gia trên thế giới đều
dựa trên các điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội cụ thể để đưa ra
những thiết chế pháp luật riêng cho mình nhằm đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai. Chọn đề tài này tác giả mong muốn góp
tiếng nói nhất định trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung, đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng ngừa loại tội phạm này nói
riêng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai, nêu được thực trạng tình hình vi phạm
cũng như công tác đấu tranh xử lý tội phạm này. Qua đó, chỉ ra được những
vấn đề đang tồn tại, bất cập trong xử lý tội phạm; đề xuất những giải pháp
mang tính đồng bộ, có hệ thống về công tác phòng, chống tội phạm trong lĩnh
vực quản lý và sử dụng đất đai trên phạm vi cả nước nói chung và thành phố
Hải Phòng nói riêng cho phù hợp với sự phát triển của thành phố trong giai
đoạn hiện nay, góp phần nâng cao tính khả thi trong quá trình áp dụng pháp
luật trên thực tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có các nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai theo luật hình sự Việt Nam như khái niệm, các dấu hiệu pháp lý,
hình phạt đối với tội danh này…
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng tội danh này trong quá trình đấu tranh
phòng chống tội phạm trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong những năm
vừa qua để qua đó đánh giá được những ưu điểm và hạn chế, tồn tại trong quá
trình giải quyết vấn đề này.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và nâng cao
hiệu quả áp dụng tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn
thành phố Hải Phòng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về Tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất trong
luật hình sự Việt Nam mà cụ thể là Bộ luật hình sự năm 2015.
Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng Tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng từ năm 2013 đến 2017.
5. Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; các quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam về tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

5.2. Cơ sở thực tiễn
Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai; các báo cáo tổng kết, số liệu
thống kê của các cơ quan có liên quan đến Tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp luận biện chứng lịch
sử, kết hợp một số phương pháp khác như: phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp nghiên cứu và xử lý thông tin,
phương pháp thống kê, phương pháp logic, phương pháp khảo sát thực tế,
phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp phân tích - dẫn giải các quy
định của pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm trong sử dụng đất đai.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp
độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về
thực trạng đấu tranh phòng, chống tội phạm vi phạm quy định về sử dụng đất

5


đai (trên cơ sở nghiên cứu thực trạng đấu tranh xử lý trên địa bàn thành phố
Hải Phòng). Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về
khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về Tội vi phạm các quy định
về sử dụng đất đai;
- Đánh giá đúng thực trạng tình hình tội phạm trong lĩnh vực sử dụng
đất đai cả nước nói chung, trên địa bàn thành phố Hải Phòng nói riêng.
Phân tích, làm rõ những tồn tại và hạn chế trong xét xử Tội vi phạm các
quy định về sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố Hải Phòng và những
nguyên nhân của nó;

- Xác định sự cần thiết hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về
tội phạm trong lĩnh vực sử dụng đất đai và nâng cao hiệu quả áp dụng. Đồng
thời đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật hình sự cũng như nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chống, phòng ngừa
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai nói chung, trên địa bàn Hải
Phòng nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương
Chương 1. Một số vấn đề chung về Tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2. Quy định về Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo
Bộ luật hình sự 2015 và thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hải Phòng.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả áp dụng Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH
VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm đất đai và sử dụng đất đai
Đất đai là một trong những bộ phận cấu thành lãnh thổ của mỗi quốc
gia. Nói đến chủ quyền quốc gia, không thể không nhắc đến lãnh thổ, mà nền
tảng pháp lý của nó chính là đất đai.
Ở nước ta, việc quản lý đất đai đã được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan
tâm ngay từ những ngày đầu giành độc lập, thống nhất đất nước. Tại phần mở
đầu của Luật Đất đai năm 1993 đã ghi: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng
quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của

môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh
tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta
đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như
ngày nay [39].
Trong đời sống xã hội, đất đai được nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Tùy
theo từng lĩnh vực mà có các khái niệm khác nhau về "Đất đai” như sau: Đối
với nhà địa lý nó là cảnh quan, một sản phẩm của quá trình địa chất địa mạo;
Đối với nhà kinh tế nó là nguồn tài nguyên cần được khai thác hoặc cần được
bảo vệ để đạt được những phát triển kinh tế tối ưu; Đối với những luật gia đất
đai là một khoảng không gian trải dài vô tận từ trung tâm trái đất tới vô cực
trên trời và liên quan đến nó là một loạt các quyền lợi khác nhau quyết định
những gì có thể thực hiện được với đất; Đối với hầu hết mọi người hiểu theo
một cách đơn giản nó là khoảng không gian cho các hoạt động con người
được thể hiện ở nhiều dạng sử dụng đất khác nhau.

7


Ngày nay đất đai bao gồm các vật thể được gắn liền trực tiếp với bề
mặt đất, kể cả những vùng bị nước bao phủ. Nó bao gồm vô số các tính chất
tự nhiên trừu tượng, từ các quyền lợi đối với sự phát triển hay xây dựng trên
đất, đối với nước ngầm và khoáng sản và các quyền lợi liên quan đến việc sử
dụng và khai thác chúng.
Ngoài ra ta có thể hiểu khái niệm đất đai theo các nghĩa: đất đai là tài
nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá và có rất nhiều khái niệm về đất: là tư
liệu sản xuất chính không thể thay thế được của một số ngành sản xuất như
nông nghiệp, lâm nghiệp, là một bộ phận khổng thể tách rời lãnh thổ quốc gia,
gắn liền với chủ quyền quốc gia, là nơi trên đó con người xây dựng nhà cửa,
các công trình kiến trúc, là nơi diễn ra các hoạt động văn hoá, là nơi phân bổ
các vùng kinh tế, các khu dân cư, là thành quả cách mạng của cả dân tộc, là

cơ sở để phát triển hệ sinh thái, tạo nên môi trường duy trì sự sống của con
người và sinh vật.
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động và cùng với quá
trình lịch sử phát triển kinh tế-xã hội, đất đai là điều kiện lao động. Đất đai
đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Nếu
không có đất đai thì rõ ràng không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, cũng
như không thể có sự tồn tại của loài người.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là đối tượng của các mối quan hệ
sản xuất trong các lĩnh vực sử dụng đất đai. Nó giữ vai trò rất quan trọng
trong phát triển kinh tế xã hội, nó gắn chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế
xã hội. Đất đai là địa điểm, là nền tảng, là cơ sở cho mọi hoạt động phát triển
kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất đai sẽ là một hiện
tượng kinh tế xã hội thể hiện đồng thời ở tính chất: kinh tế (bằng hiệu quả sử
dụng đất), kỹ thuật (các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật: điều tra, khảo sát,
xây dụng bản đồ, khoan định, sử liệu số liệu...) và pháp chế (xác nhận tính

8


pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý
đất đai theo pháp luật). Đất đai tham gia vào tất cả các hoạt động của đời sống
kinh tế, xã hội. Đất đai là địa điểm, là cơ sở của các thành phố, làng mạc các
công trình công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi vá các công trình khác. Đất đai
cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp, xây dựng như gạch ngói, xi,
măng, gốm sứ... . Đất đai là nguồn của cải, là một tài sản cố định hoặc đầu tư
cố định, là thước đo sự giàu có của một quốc gia. Đất đai còn là sự bảo hiểm
cho cuộc sống, bảo hiểm về tài chính, như là sự chuyển nhượng của cải qua
các thế hệ và như là một nguồn lực cho các mục đích tiêu dùng.
Theo luật Đất đai 2013 của Việt Nam quy định: “Đất đai là tài nguyên
quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan

trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội an ninh và quốc gia” [48]. Từ khi
chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng XHCH thì nhu cầu sử dụng đất (nhất là đất đô thị) của
người dân, các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội nhằm phục vụ cho việc phát
triển đất nước là rất lớn. Cho nên, có nhiều vấn đề đã nảy sinh trong quá trình
sử dụng đất đai, như việc sử dụng đất không theo quy hoạch, kế hoạch đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; sử dụng lãng phí, sử dụng
không đúng mục đích hoặc vi phạm các quy định về giao đất, thu hồi, cho thuê,
chuyển quyền, chuyển mục đích sử dụng, lấn chiếm đất… đang diễn ra hết sức
phức tạp. Có nơi, có lúc còn để xảy ra tình trạng buông lỏng quản lý dẫn đến
hàng loạt các vi phạm nghiêm trọng trong việc sử dụng đất. Thực trạng này đặt
ra cho Nhà nước phải quan tâm hơn trong công tác quản lý việc sử dụng đất
đai, tăng cường việc phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, cố tình
vi phạm và lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm.

9


Theo Luật đất đai 2013 định nghĩa thì đất đai thuộc quyền sở hữu của
toàn dân và do Nhà nước làm chủ sở hữu. Nhà nước theo đó trao quyền sử
dụng đất cho người dân thông qua hình thức giao đất, cho thuê đất. Luật cũng
công nhận quyền sử dụng đất đối với những người sử dụng đất ổn định và quy
định về quyền cũng như nghĩa vụ chung của người sử dụng đất.
Song song đó, luật cũng đưa ra khái niệm về giá quyền sử dụng đất là
số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc hình
thành trong giao dịch về quyền sử dụng đất. Còn giá trị quyền sử dụng đất là
giá trị tính bằng tiền của quyền sử dụng đất trên một đơn vị diện tích xác định
trong một thời gian sử dụng nhất định.

Người sử dụng đất được sở hữu phần giá trị quyền sử dụng đất, được
phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với các phần diện tích được giao
tương ứng với nghĩa vụ thực hiện với Nhà nước.
Quyền sử dụng đất căn cứ theo chủ thể (là tổ chức, hộ gia đình hay
cá nhân): Quyền sử dụng đất lúc này được căn cứ theo ý muốn chủ quan
của chủ thể và việc sử dụng đất vào mục đích nào là tùy theo chủ thể quyết
định. Những quyết định này cần phải nằm trong giới hạn được cấp có thẩm
quyền cho phép.
Quyền sử dụng đất căn cứ vào khách thể (là đất nông nghiệp, đất phi
nông nghiệp hay chưa sử dụng): Nghĩa là loại đất này được quy định sử dụng
vào mục đích nào thì người sử dụng đất phải làm đúng theo mục đích đó. Nếu
có sự thay đổi về mục đích sử dụng thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền
và phải được cho phép thì mới thực hiện.
Quyền sử dụng đất căn cứ vào thời gian:Thời gian sử dụng đất có thể là
tạm thời hoặc lâu dài, tùy theo quyết định của cấp có thẩm quyền. Từ đó
quyền sử dụng đất của chủ thể cũng được quyết định là tạm thời hay lâu dài.
Quyền sử dụng đất căn cứ theo pháp lý: Có nghĩa là cần căn cứ theo

10


quyết định của cấp có thẩm quyền khi giao đất, cho thuê mà xác định mục
đích sử dụng và để biết là quyền sử dụng ban đầu của tổ chức, cá nhân, hộ gia
đình trực tiếp trong quyết định hay quyền sử dụng đất thứ hai của người được
cho thuê lại, thừa kế.
1.1.2. Khái niệm Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, hiện tượng này
mang thuộc tính xã hội - pháp lý, tính lịch sử - xã hội. Tội phạm luôn chứa
đựng trong nó đặc tính chống đối lại Nhà nước, chống đối lại xã hội, đi ngược
lại lợi ích chung của cộng đồng, trật tự xã hội, xâm phạm đến quyền và các

lợi ích hợp pháp khác của con người... Khái niệm tội phạm được định nghĩa
rất rõ ràng tại Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự 2015: Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng
lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm
quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự [50].
Theo quan điểm của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí, cho rằng: "Tội vi
phạm các quy định về sử dụng đất đai là việc người có hành vi lấn chiếm hoặc
chuyển quyền sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lý và sử
dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng" [8, tr.379]. Định nghĩa này có ưu
điểm là đã chỉ rõ được khách thể trực tiếp mà tội phạm xâm phạm đến, nhưng
điểm hạn chế là mới chỉ mô tả được một số hành vi thuộc mặt khách quan của
tội phạm và chưa nêu được các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm này. Vì vậy,
theo chúng tôi, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội phạm này

11


cần hiểu là hành vi lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất
trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, do người có
năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS cố ý thực hiện, gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Trong việc nghiên cứu khái niệm về Tội vi phạm các quy định về sử
dụng đất đai theo luật hình sự, trước hết chúng ta cần phải nghiên cứu về khái
niệm chung các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế. Bởi lẽ, tội vi phạm các

quy định về sử dụng đất đai được cơ cấu trong Chương Các tội phạm xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế.
Trật tự quản lý kinh tế là các quan hệ xã hội đảm bảo cho sự ổn định và
phát triển của nền kinh tế quốc dân, nói cách khác, là sự quản lý của Nhà
nước đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân bằng quyền lực của Nhà nước,
thông qua pháp luật, chính sách, công cụ, môi trường, lực lượng vật chất và
tài chính trên tất cả các lĩnh vực bao gồm tất cả các thành phần kinh tế. Nền
kinh tế đó phải là "nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế" được Nhà nước thực hiện bằng "chính sách
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa".
Việc xác định một cách đầy đủ và chính xác nội hàm khái niệm "trật tự
quản lý kinh tế" có ý nghĩa quan trọng trong việc quy định giới hạn các hành
vi xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các
biện pháp bảo vệ trật tự quản lý kinh tế và đấu tranh phòng, chống các tội
phạm trong lĩnh vực đó.
Trên cơ sở khái niệm "trật tự quản lý kinh tế", chúng ta có thể đưa ra
cách hiểu về "trật tự quản lý đất đai", đó là sự quản lý của Nhà nước về mọi
mặt đối với đất đai bằng quyền lực của Nhà nước, thông qua pháp luật, chính
sách, môi trường, lực lượng vật chất và tài chính, nhằm xác lập một trật tự

12


kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, bền vững, có tổ chức, đảm bảo cho việc
quản lý, sử dụng, phát triển quỹ đất, khai thác các lợi ích từ đất, giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm trong quản lý, sử dụng đất
đai, hướng tới bảo vệ chế độ "đất đai… thuộc sở hữu toàn dân", do Nhà nước
đại diện làm chủ sở hữu và “thống nhất quản lý".
Là quan hệ xã hội cụ thể nằm trong nhóm quan hệ về "trật tự quản lý
kinh tế" được điều chỉnh và bảo vệ bởi những quy phạm pháp luật nhất định

của Nhà nước, "trật tự quản lý đất đai" được coi là điều kiện, cơ sở để Nhà
nước quản lý vững chắc, an toàn, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên vô
cùng quý giá. Đây là một chủ trương lớn, có tầm chiến lược quan trọng của
mỗi quốc gia, bởi nó đóng vai trò làm tiền đề để hình thành một nền kinh tế
quan trọng - nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, tạo việc làm, tạo môi trường sống cho dân cư, đồng thời còn đảm
bảo cho việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất đô thị và nông thôn
theo đúng quy hoạch và pháp luật. Cho nên, bằng cách này hay cách khác,
dưới bất kỳ hình thức nào, việc đảm bảo sự ổn định, kỷ cương, tăng cường
pháp chế trong quản lý và sử dụng đất đai không những là một trong những
nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đến
lượt mình, Nhà nước đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức, công dân phải tuân
thủ nghiêm chỉnh pháp luật và các quy tắc XHCN. Cho nên, dưới góc độ pháp
luật, tất cả các hành vi xâm phạm "trật tự quản lý đất đai" đều gây nên những
thiệt hại nhất định cho Nhà nước, tổ chức, công dân và gây mất ổn định trật tự
xã hội, do đó cần thiết phải bị xử lý. Tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm
của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau, từ kỷ luật, xử
phạt hành chính đến xử lý hình sự.
Có thể nói, ngay từ khi giành được chính quyền, bên cạnh việc bảo vệ

13


thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc xây dựng
và bảo vệ nền kinh tế của đất nước nói chung, các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực quản lý đất đai nói riêng không chỉ trên phương diện ban hành
hàng loạt các văn bản có liên quan, mà còn có những biện pháp thiết thực để
cụ thể hóa và đưa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống. Từ Hiến pháp năm
1959 quy định: "đất hoang… là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu của toàn

dân", Hiến pháp 1980: "Đất đai… là của Nhà nước - đều thuộc sở hữu toàn
dân" và "Nhà nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch chung, nhằm
bảo đảm đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm"; đến Hiến pháp 2013 thì
Nhà nước ta khẳng định nhất quán quan điểm: "đất đai… là của Nhà nước,
đều thuộc sở hữu toàn dân", "Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai
theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu
quả… Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử
dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo
quy định của pháp luật”.
Để bảo vệ "trật tự quản lý đất đai" với tư cách là khách thể quan trọng
của Luật hình sự, ngay từ lần pháp điển hóa BLHS đầu tiên của nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam năm 1985, đã được quy định tại Điều 180 (thuộc
Chương XIII- Các tội phạm về kinh tế). Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp
luật và nhận thức dưới góc độ khoa học pháp lý cho thấy: việc xây dựng tên
gọi của điều luật (Tội vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai) và
mô tả các khách thể được ghi trong điều luật còn chung chung, chưa cụ thể,
dẫn đến việc áp dụng pháp luật gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, chính sách
hình sự và đường lối xử lý đối với người phạm tội tương đối nhẹ, không có sự
phân biệt tội phạm và hậu quả pháp lý giữa chủ thể đặc biệt (người có chức
vụ, quyền hạn) với chủ thể thường, do đó không đủ sức răn đe, phòng ngừa
chung, thậm chí còn tạo kẽ hở cho một số cán bộ tha hóa, biến chất về đạo

14


đức nghề nghiệp trong các cơ quan tố tụng hình sự lợi dụng để bao che, làm
trái. Nhằm khắc phục những bất cập đó, trong lần pháp điển hóa BLHS năm
1999 và năm 2015, nhà làm luật đã sửa lại tên, tách phạm vi điều chỉnh các
quan hệ xã hội tại Điều 180 BLHS 1985 thành hai nhóm được quy định tại hai
điều luật riêng biệt với tên gọi khác nhau: tội Vi phạm các quy định về quản

lý đất đai (Điều 174 của BLHS năm 1999 và nay là Điều 228 BLHS năm
2015) và tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai (Điều 173 BLHS năm
1999 và nay là Điều 228 BLHS năm 2015).
Từ các khái niệm nêu trên, có thể chỉ ra những đặc điểm cơ bản của tội
phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai và tội phạm vi phạm các quy
định về sử dụng đất đai như sau:
Một là, cả hai tội cùng nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý
kinh tế được quy định tại Chương XVIII - BLHS, do đó đều xâm phạm đến
trật tự quản lý nhà nước về kinh tế nói chung, quản lý về đất đai nói riêng.
Hai là, Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là hành vi lấn
chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định
của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, "gây hậu quả nghiêm trọng"
hoặc "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm".
Ba là, Tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai thì được
thực hiện bởi chủ thể thường. Song, có một điểm chung ở cả hai tội này là
đều được thực hiện với hình thức lỗi cố ý; người phạm tội biết được hành vi
vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý đất đai là nguy hiểm cho xã
hội, nhận thức được hậu quả có thể xảy ra hoặc chắc chắn sẽ xảy ra nhưng
vẫn thực hiện.
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai quy định tại Điều 228 Bộ
luật hình sự 2015 được xây dựng và kế thừa trên cơ sở Điều 172 của Bộ luật

15


hình sự 1999. Từ khái niệm tội phạm nói chung được quy định tại Điều 8 Bộ
luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 thì khái niệm "Tội vi phạm
các quy định về sử dụng đất đai" có thể được hiểu là: hành vi nguy hiểm cho
xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách

nhiệm hình sự thực hiện việc lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất,
sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất
đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
1.2. Hệ thống pháp luật Việt Nam quy định về sử dụng đất đai
1.2.1. Nội dung các văn bản luật quy định về sử dụng đất đai
Đất đai có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống, xã hội. Vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề đất đai, tăng cường quản
lý nhà nước về đất đai. Chánh cương vắn tắt của Đảng năm 1930 đã chỉ rõ: “
Thâu tóm hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm công chia cho dân cày”.
Ngay sau cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, Nhà nước ta đã ban
hành nhiều sắc lệnh, đạo luật để quản lý đất đai. Khi cuộc kháng chiến chống
thực dân pháp chưa hoàn thành, ngày 4/12/1953 Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã ban hành luật cải cách ruộng đất nhằm xoá bỏ sự bóc lột của đế
quốc phong kiến do chiếm hữu đất đai mang lại. Cũng từ đó, Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn quan tâm ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định, các chủ
trương, đường lối, chính sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp
với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Một trong các biện pháp hữu hiện được Nhà nước chú trọng để nâng
cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai đó là hệ thống pháp luật
quy định về sử dụng đất đai đó là:
Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
luật đất đai (Có hiệu lực từ 01/07/2014).

16


Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất (Có hiệu lực từ 01/07/2014).
Nghị định 45/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền sử dụng đất (Có hiệu
lực từ 01/07/2014).

Nghị định 46/2014/NĐ-CP quy định về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước
(Có hiệu lực từ 01/07/2014).
Sau đó, các cơ quan cấp bộ có liên quan như Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Bộ Tài Chính, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp... phải căn cứ vào chức năng,
nhiệm vụ của mình ban hành các văn bản cụ thể hoá các quy định trong Luật
Đất đai 2013, trong các Nghị định hướng dẫn Luật Đất đai 2013 để hướng dẫn
các địa phương, các ngành khác thực hiện bằng các thông tư, thông tư liên
tịch, bao gồm:
- Thông tư 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 Quy định về GCNQSDĐ,
QSHNƠ, và tài sản khác gắn liền với đất
- Thông tư 24/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 Quy định về Hồ sơ
địa chính
- Thông tư 25/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 Quy định về Bản đồ
địa chính
- Thông tư 28/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 Quy định về Thống
kê, kiểm kê đất đai, xây dựng bản đồ hiện trạng sử dụng đất
Như vậy, theo tinh thần của Luật Đất đai 2013, nội dung "Ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ chức thực hiện
các văn bản đó" đã được xác định là cơ sở để thực hiện các nội dung khác và
được xếp lên vị trí thứ nhất trong 13 nội dung quản lý nhà nước về đất đai.
Hơn bao giờ hết, người làm công tác quản lý nhà nước về đất đai phải ý thức
rõ được tầm quan trọng của nó. Để làm tốt nội dung này đòi hỏi người cán bộ
làm công tác quản lý nhà nước về đất đai ngoài việc theo chức năng, thẩm
quyền của mình ban hành các văn bản để cụ thể hoá và hướng dẫn thực hiện

17


văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất của các cấp trên còn
phải chú trọng đến công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đất đai đến

người dân. Chỉ khi nào người dân - người chủ sử dụng đất nắm chắc được
pháp luật đất đai, tức là khi sử dụng đất họ biết được họ có những quyền gì và
họ phải thực hiện những nghĩa vụ gì? Theo quy định của pháp luật đất đai họ
được làm gì và họ không được làm gì? Khi đó, mới có thể tránh được các vi
phạm pháp luật về đất đai do người sử dụng đất không hiểu luật mắc phải.
1.2.2. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật xử lý đối với những
hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai
Luật Đất đai năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp
thứ 6 ngày 29/11/2013 thay thế cho Luật Đất đai năm 2003. Luật Đất đai năm
2013 có những đổi mới căn bản so với Luật Đất đai năm 2003, với 9 nội dung
đổi mới chủ yếu là: Quy định cụ thể hơn quyền, trách nhiệm của Nhà nước;
quy định cụ thể hơn quyền của người sử dụng đất; hoàn thiện hơn chính sách
đất đai với khu vực nông nghiệp; bảo vệ ruộng đất, đổi mới mạnh mẽ công tác
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; phát huy vai trò của quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất là công cụ quan trọng để quản lý đất đai; Tăng cường vận hành các
quan hệ đất đai theo cơ chế thị trường, tiến tới xóa bỏ hoàn toàn cơ chế bao
cấp trong quản lý, sử dụng đất đai; hoàn thiện cơ chế, phát huy nguồn lực đất
đai thông qua việc chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất; Tăng
cường tính công khai, minh bạch trong quản lý, sử dụng đất đai thông qua
việc xây dựng và vận hành hệ thống theo dõi và đánh giá việc quản lý và sử
dụng đất đai; thiết lập cơ chế bình đẳng trong tiếp cận đất đai, trong thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, nhất là sự bình đẳng giữa nhà đầu tư
trong nước và nhà đầu tư nước ngoài về quyền của người sử dụng đất; đảm
bảo quyền của nhóm người “yếu thế” trong xã hội như phụ nữ, người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số.

18



×