Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất ở xã Trường Sơn – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.34 KB, 86 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay, phát triển và quản lý rừng bền vững là mục tiêu và là ưu tiên
hàng đầu của Chính phủ. Trong Chiến lược phát triển Lâm nghiệp Quốc gia 2006
– 2020, nhiệm vụ của ngành lâm nghiệp cần phải quản lý bền vững 8,4 triệu ha
rừng sản xuất; trong đó có 4,15 triệu ha rừng trồng bao gồm rừng nguyên liệu
công nghiệp tập trung, lâm sản ngoài gỗ,…. Và 3,36 triệu ha rừng sản xuất là
rừng tự nhiên và 0,62 ha rừng tự nhiên phục hồi sản xuất nông lâm kết hợp. Vì
vậy, ngành Lâm nghiệp là một trong những ngành đóng vai trò quan trọng trong
sự phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện môi trường sinh thái, đa dạng sinh học
trong cả nước.
Hiện nay, hợp tác liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ trở nên rất cần
thiết, thông qua các mối hợp tác, liên kết giúp cho người sản xuất có sự ràng
buộc với nhau và với các tác nhân khác trong tất cả các khâu từ việc cung ứng
đầu vào cho sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm đầu ra; hạn chế và khắc phục những
bất lợi của tự nhiên, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, ổn định
sản xuất, tránh tình trạng được mùa mất giá, bị ép giá… Liên kết giữa các hộ
nông dân và các chủ thể kinh tế nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh theo hướng
có lợi nhất.
Nghị quyết Trung ương VII đã nêu rõ: “Tăng cường sự hợp tác liên kết
giữa các doanh nghiệp, đội ngũ trí thức với nông dân trên cơ sở bình đẳng cùng
có lợi, có chính sách khuyến khích mạnh mẽ doanh nghiệp, trí thức về nông
thôn, góp phần tích cực và có hiệu quả cho quá trình phát triển nông nghiệp,
nông dân, nông thôn theo đường lối của Đảng”. Cùng với đó Thủ tướng Chính
phủ cũng đã đã ký Quyết định số 899/QĐ-TTg phê duyệt “Đề án tái cơ cấu
ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững”
vào ngày 10 tháng 6 năm 2013. Trên cơ sở đó, ngày 8 tháng 7 năm 2013 Bộ
1


trưởng Bộ Nông nghiệp & PTNT đã ký quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN phê


duyệt đề án: “Tái cơ cấu ngành Lâm Nghiệp”. Mục tiêu của đề án hướng tới:
“Phát triển lâm nghiệp bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi trường; từng bước
chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng
lực cạnh tranh”.
Phát triển kinh tế hợp tác là một chủ trương xuyên suốt, nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta. Hợp tác kinh tế với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, mà
nòng cốt là hợp tác xã hoạt động trên nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách
nhiệm và cùng có lợi; dựa trên tinh thần hợp tác, chia sẻ, mang lại lợi ích cho các
thành viên và xã hội; không chỉ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế mà còn có
đóng góp quan trọng trong phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở nông thôn. Kinh tế hợp tác là phương thức để hỗ trợ hộ
kinh tế cá thể cạnh tranh được trong kinh tế thị trường. Muốn sản xuất thực sự
gắn với thị trường, muốn hội nhập quốc tế và xuất khẩu phải có hợp tác xã kiểu
mới, nhưng không triệt tiêu sản xuất cá thể của nông hộ.
Trong thực tế sản xuất lâm nghiệp thời gian qua đã xuất hiện các mô hình
hợp tác và liên kết theo chuỗi hiệu quả tại các vùng sản xuất nguyên liệu gắn với
chế biến và tiêu thụ. Ví dụ Tổng công ty Giấy Việt Nam liên kết giữa hộ trồng
rừng, các tổ chức trồng rừng với Nhà máy giấy Bãi Bằng trong sản xuất và tiêu
thụ gỗ nguyên liệu giấy. Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam, liên kết giữa hộ
trồng rừng, các tổ chức trồng rừng với Nhà máy MDF Gia Lai về việc cung cấp
và tiêu thụ gỗ rừng trồng.
Xã Trường Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình là xã có nền kinh tế khá
đa dạng, gồm nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi, trồng cây ăn quả, thủ công
mỹ nghệ, cây cảnh và du lịch. Trường Sơn cũng khá nổi tiếng trong sản xuất
rừng trồng sản xuất với nhiều loại gỗ keo nổi tiếng như keo lai BV10, BV16,
BV32, BV71, BV75, .… cung ứng phần lớn cho người tiêu dùng trong và ngoài
tỉnh, đặc biệt còn phục vụ cho nguồn gốc xuất xứ nhập khẩu gỗ của Công ty cổ
2



phần Sơn Thủy hợp tác với ngước ngoài. Người dân trồng rừng sản xuất ở
Trường Sơn có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất rừng trồng sản xuất gỗ (keo).
Thế nhưng cũng giống với thực trạng của sản xuất lâm sản nói chung, cuộc sống
người dân trồng rừng nơi đây vẫn còn nghèo chưa được cải thiện nhiều từ việc
trồng rừng sản xuất. Việc đánh giá, phân tích mối liên kết của hộ dân trồng rừng
sản xuất trong sản xuất và tiêu thụ gỗ keo ở Trường Sơn nhằm nâng cao hơn nữa
hiệu quả của các mối liên kết, hợp tác kinh tế cải thiện đời sống người dân trồng
rừng sản xuất.
Với những lý do trên tôi lựa chọn nghiên cứu về “Hợp tác kinh tế của các
hộ trồng rừng sản xuất ở xã Trường Sơn – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa
Bình”.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Đề tài đánh giá thực trạng về hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất
tại xã Trường Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; từ đó đề xuất giải pháp
nhằm tăng cường hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất tại địa phương
nghiên cứu.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về hợp tác kinh tế của các hộ
trồng rừng sản xuất.
- Khái quát hóa về đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tại xã
Trường Sơn.
- Đánh giá thực trạng hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất ở xã
Trường Sơn – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình.
- Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng
sản xuất.

3



- Đề xuất ý kiến nhằm tăng cường hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng
sản xuất ở địa bàn nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của nghiên cứu là hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất
bao gồm: các hình thức hợp tác kinh tế, các yếu tố ảnh hưởng đến sự hợp tác
kinh tế, kết quả hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian:
Đề tài nghiên cứu điểm tại xã Trường Sơn – huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa
Bình.
Thời gian:
Đề tài sử dụng số liệu và thông tin thứ cấp từ năm 2016 – 2018.
Sử dụng số liệu và thông tin sơ cấp bằng điều tra khảo sát các hộ trồng
rừng sản xuất vào tháng 3, tháng 4 năm 2019.
4. Nội dung nghiên cứu
- Cơ sở lý luận về hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng.
- Đặc điểm cơ bản của xã Trường Sơn.
- Thực trạng hợp tác, liên kết kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất tại xã
Trường Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản
xuất.
- Một số giải pháp nhằm tăng cường hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng
sản xuất.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập dữ liệu

4



5.1.1. Dữ liệu thứ cấp:
Liên quan đến hoạt động trồng rừng, các hình thức hợp tác kinh tế trong
sản xuất lâm nghiệp được thu thập giai đoạn 2016 – 2018.
Số liệu thứ cấp được tổng hợp, chọn lọc số liệu từ các báo cáo tổng kết
hàng năm của địa phương về tình hình sản xuất lâm nghiệp tại địa bàn nghiên
cứu như: UBND xã Trường Sơn, UBND huyện Lương Sơn, Phòng Nông nghiệp
& Phát triển nông thôn huyện Lương Sơn, Chi cục thống kê huyện Lương Sơn,
Hạt kiểm lâm huyện Lương Sơn, ….; các số liệu trên các website chuyên ngành,
các tạp chí, sách báo, các đề tài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu .... đã được công bố phục vụ mục đích nghiên cứu dựa trên phương pháp kế
thừa có chọn lọc.
5.1.2. Dữ liệu sơ cấp:
- Khảo sát, điều tra các hộ trồng rừng sản xuất tại xã Trường Sơn bằng
phiếu khảo sát hộ gia đình thiết kế sẵn.
- Thiết kế bảng hỏi:
Bảng hỏi được thiết kế nhằm mục đích điều tra sơ bộ xác định các hộ
trồng rừng sản xuất có tham gia và không tham gia hợp tác, liên kết kinh tế hiện
có trong khu vực nghiên cứu; tình hình về diện tích gieo trồng, quản lý, chăm
sóc, khai thác và bảo vệ rừng; các mối hợp tác, liên kết kinh tế giữa các hộ trồng
rừng sản xuất với các chủ thể khác. Trên cơ sở xác định các đối tượng phỏng
vấn, tôi tiến hành phỏng vấn bằng cách sử dụng bảng hỏi với hình thức trao đổi
trực tiếp thông qua các câu hỏi có gợi mở có liên quan đến nội dung nghiên cứu.
- Mẫu khảo sát:
+ Địa điểm:
Xã Trường Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình có 6/6 thôn (xóm) có
rừng nằm trên 3 tiểu khu và 26 khoảnh; cách trung tâm huyện khoảng 12 km về

5



phía Tây Bắc. Tổng hợp số hộ gia đình tại xã Trường Sơn tính đến tháng 01/2019
qua bảng sau:
Bảng 0.1. Tổng hợp số hộ gia đình tại xã Trường Sơn năm 2018
STT
1
2
3
4
5
6

Tên thôn
Số hộ (hộ)
Tỉ lệ (%)
Thôn Đồng Bưởi
74
12,35
Thôn Cột Bài
110
18,36
Tôn Cầu Dâu
79
13,19
Thôn Bằng Gà
101
16,86
Thôn Tháy Mỏ
103
17,20
Thôn Suối Bu

132
22,04
Tổng:
599
100
(Nguồn: Theo Báo cáo sơ bộ của UBND xã Trường Sơn năm 2019)
Căn cứ vào đặc điểm thực tế và mục tiêu nghiên cứu của đề tài, tôi chọn 3

thôn là thôn Cột Bài, thôn Bằng Gà, thôn Suối Bu làm điểm nghiên cứu. Đây là 3
thôn có diện tích đất rừng và số hộ dân tham gia trồng rừng sản xuất nhiều hơn
các thôn khác trong xã và có trữ lượng, tiềm năng lớn, cho hiệu quả phát triển
kinh tế cao về rừng đặc biệt là về rừng trồng sản xuất.
+ Đối tượng khảo sát:
Đối tượng khảo sát là các hộ trồng rừng sản xuất.
+ Phương pháp chọn mẫu:
Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Chia 2 nhóm hộ
hộ điều tra bao gồm các hộ tham gia hợp tác kinh tế và các hộ không tham gia
hợp tác kinh tế trong trồng rừng sản xuất.
+ Dung lượng mẫu
Về mặt lý thuyết tính dung lượng mẫu điều tra khi biết tổng thể. Tuy
nhiên, với điều kiện khóa luận để bảo độ tin cậy, có ý nghĩa thống kê tôi tiến
hành điều tra mẫu với n = 80 > 30 với từng đối tượng khảo sát theo bảng 0.2.
Bảng 0.2. Phân loại đối tượng khảo sát
STT

Tên thôn

Hộ tham gia hợp tác
kinh tế
6


Hộ không tham gia

Tổng


hợp tác kinh tế
1

Thôn Cột Bài

13

14

27

2

Thôn Bằng Gà

19

7

26

3

Thôn Suối Bu


16

11

27

Tổng

48

32

80

Tỷ lệ (%)

60

40

100
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu điều tra năm 2019)
Theo tổng hợp từ số liệu điều tra thực tế tại địa phương năm 2019, tỷ lệ số

hộ tham gia hợp tác kinh tế tại 3 thôn chiếm 60% tổng số 80 hộ gia đình điều tra,
tương đương khoảng 48 hộ tham gia hợp tác kinh tế và 40% hộ không tham gia
hợp tác kinh tế tương đương với 32 hộ dân trồng rừng sản xuất.
+ Phương pháp khảo sát:
Phỏng vấn trực tiếp các hộ trồng rừng bằng phiếu khảo sát đã được thiết

kế sẵn.
Tổng phiếu điều tra là 80 phiếu, cả 80 phiếu đều đạt tiêu chuẩn đưa vào
nghiên cứu, phân tích.
Nội dung điều tra chính gồm: chi tiết thông tin về các hộ gia đình, nhân
khẩu, lao động, đất đai, diện tích đất trồng rừng, nguồn thu nhập chính, tình hình
hợp tác, liên kết kinh tế, động cơ thúc đẩy tham gia hợp tác kinh tế của từng hộ
gia đình tại địa phương.
5.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
5.2.1. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được sau đó xử lý, tính toán qua phần mềm Microsoft
excel.

7


5.2.2. Phương pháp phân tích số liệu:
Phương pháp thống kê mô tả: các số liệu được thu thập sau khi xử lý được
trình bày dưới dạng bảng, biểu để thấy rõ được tình trạng hợp tác liên kết phát
triển và xu hướng liên kết của các hộ trồng rừng sản xuất tại xã Trường Sơn –
huyện Lương Sơn – tỉnh Hòa Bình.
Phương pháp thống kê so sánh: là phương pháp dựa vào số liệu đã có sẵn
để tiến hành so sánh, đối chiếu về số tương đối và số tuyệt đối. Cụ thể là so sánh
tình trạng trồng rừng sản xuất trên địa bàn xã Trường Sơn – huyện Lương Sơn –
tỉnh Hòa Bình để tìm hiểu sự tăng giảm về giá trị sản xuất và sự hợp tác liên kết
kinh tế giữa các hộ trồng rừng sản xuất trong năm 2018 – 2019. Từ đó tìm ra
nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi về hình thức liên kết hợp tác của các hộ trồng
rừng sản xuất trên địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp phân tích hồi quy bằng mô hình Binary logit:
Hình 0.1. Mô tả sơ đồ về quyết định lựa chọn hợp tác hay không hợp tác,
liên kết kinh tế giữa hợp tác xã và doanh nghiệp tư nhân là thích hợp áp dụng

cho mô hình Logit nhị phân đơn giản ( Binary Logit Model) (Ben-Akiva và
Lerman 1985).

Quyết định lựa chọn

Hợp
tácmô
kinh
tế Logit nhị phân đơn giản (Binary
KhôngLogit
hợp tác
kinh tế
Hình 2.1:
Một
hình
Model)

Hình 0.1: Mô hình Logit nhị phân đơn giản (Binary Logit Model)
* Phương trình hồi quy nhị phân
8


Phương trình hồi quy nhị phân Binary Logistic có dạng:

Trong đó:
Pᵢ: xác suất xảy ra hợp tác kinh tế giữa các hộ trồng rừng sản xuất
Bₒ, B₁,.... Bₖ: hệ số hồi quy
Xₒ, X₁,.... Xₖ: biến độc lập
Ứng dụng rất mạnh của hồi quy nhị phân Binary Logistic là khả năng dự
báo. Từ phương trình hồi quy, chúng ta có phương trình mô hình hàm dự báo

như sau:

Trong đó:
Pᵢ = E(Y = 1/X) = P(Y = 1) gọi là xác suất xảy ra hợp tác
kinh tế giữa các hộ trồng rừng sản xuất xảy ra (Y = 1) khi biến độc lập X có giá
trị cụ thể Xᵢ.
Công cụ hỗ trợ phân tích và xử lý số liệu trong nghiên cứu là: Excel,
Word, SPSS 20.
6. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, đề tài gồm 3 chương:
- Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về hợp tác kinh tế trồng rừng sản xuất.
- Chương 2. Đặc điểm cơ bản địa bàn nghiên cứu.
- Chương 3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận.

CHƯƠNG 1

9


CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP TÁC KINH TẾ
TRỒNG RỪNG SẢN XUẤT
1.1. Khái niệm về hợp tác và hợp tác, liên kết kinh tế
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm hợp tác, liên kết kinh tế.
Trong đó Trần Đức Thịnh (1984) cho rằng hợp tác, liên kết kinh tế là sự quan hệ
kinh tế giữa các tổ chức, các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế. Hợp
tác, liên kết kinh tế vừa là hình thức tổ chức sản xuất vừa là cơ chế quản lý.
Vũ Minh Trai (1993) cho rằng hợp tác, liên kết kinh tế là những quan hệ
phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác.
Quyết định số 38/HĐBT ngày 10 tháng 04 năm 1989 về “Hợp tác, liên kết
kinh tế trong sản xuất, lưu thông, dịch vụ” của nhà nước đã nêu hợp tác, liên kết

kinh tế là những hình thức phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện
tiến hành để cùng nhau bàn bạc và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan
đến công việc sản xuất, kinh doanh của mình nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển
theo hướng có lợi nhất.
Hoàng Kim Giao (1989) cho rằng đặc trưng của hợp tác, liên kết kinh tế
cũng là quan hệ kinh tế nhưng không phải là mọi loại quan hệ kinh tế mà chỉ
những quan hệ kinh tế diễn ra trong các hình thức tổ chức sản xuất đặc thù riêng
của liên kết kinh tế như hợp tác, liên doanh, liên hợp trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh.
Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa hợp tác kinh tế là hình thức hợp
tác và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị tự nguyện tiến hành
để cùng đề ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc
sản xuất kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển theo hướng có lợi nhất. Được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình
đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và
trong khuôn khổ Pháp luật của Nhà nước quy định.
10


Từ những phân tích mang tính kế thừa và phát triển ở trên, tác giả nêu lên
khái niệm: “Hợp tác, liên kết kinh tế là một thể chế kinh tế nhằm thực hiện một
kiểu phối hợp hành động giữa các chủ thể kinh tế độc lập tự chủ với nhau, một
cách tự nguyện, thỏa thuận đôi bên cùng có lợi và tin tưởng lẫn nhau, ràng buộc
lẫn nhau theo một kế hoạch hoặc quy chế định trước, dài hạn hoặc thường
xuyên nhằm ổn định và nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.2. Nguyên tắc hợp tác kinh tế của hộ trồng rừng sản xuất
1.2.1. Nguyên tắc tự nguyện và thỏa thuận
Hợp tác, liên kết kinh tế cũng như quan hệ thị trường là kiểu quan hệ kinh
tế giữa các chủ thể kinh tế tự chủ cho nên tự nguyện và thỏa thuận là nguyên tắc
xác lập mối quan hệ này. Nguyên tắc tự nguyện và thỏa thuận là sự đảm bảo cho

liên kết kinh tế hình thành và phát triển trên cơ sở nhu cầu và điều kiện kinh tế
khách quan của mỗi bên và do đó mới có tính khả thi và bền vững.
Nguyên tắc tự nguyện, thỏa thuận không cho phép có sự áp đặt từ bên
ngoài. Nguyên tắc này cũng đặt ra cách thức ứng xử của nhà nước đối với các
bên tham gia liên kết, chỉ có thể hỗ trợ, dẫn dắt, giám sát chứ không thể sử dụng
mệnh lệnh hành chính để hình thành hoặc can thiệp vào quá trình vận hành của
các liên kết. Mọi quyết định, điều khoản liên quan đến liên kết phải được đưa ra
trên cơ sở bàn bạc đi đến thống nhất giữa các bên tham gia liên kết.
1.2.2. Nguyên tắc định trước quá trình phối hợp hành động
Định trước là nguyên tắc không chỉ của thể chế kế hoạch mà còn là
nguyên tắc vận hành và là đặc trưng của liên kết kinh tế. Sự định trước đảm bảo
cho hợp tác, liên kết kinh tế đạt mục tiêu ổn định, hạn chế rủi ro, tiết kiệm chi
phí trong quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong hợp tác kinh tế, sự
định trước thể hiện trong hợp đồng, hiệp định, quy chế, điều lệ, phương án, dự án
phối hợp hành động. Nội dung định trước có thể bao gồm số lượng, chất lượng
đối tượng sản phẩm, dịch vụ trao đổi, mua bán; giá cả thanh toán, phương thức
11


giao nhận, quy tắc tổ chức và phối hợp hành động; trách nhiệm, quyền lợi, quyền
hạn của các bên tham gia liên kết.
1.2.3. Nguyên tắc chia sẻ lợi ích và rủi ro
Đây là một đặc điểm riêng có của hợp tác kinh tế với thể chế thị trường.
Trong mối quan hệ liên kết, tính chất hợp tác lâu dài đi liền với lợi ích lâu dài và
tình cảm bạn hàng là lí do dẫn đến việc tất yếu hai bên phải chia sẻ lợi ích và rủi
ro cho nhau. Ngược lại, chia sẻ lợi ích và rủi ro cho nhau sẽ giúp cho quan hệ
liên kết trở nên bền vững lâu dài.
Chia sẻ lợi ích trong hợp tác kinh tế đòi hỏi xử lý mỗi quan hệ hài hòa mối
quan hệ lợi ích giữa các bên liên kết một cách công bằng tương xứng với chi phí,
công sức, nỗ lực mà mỗi bên bỏ ra trong quá trình phối hợp hoạt động như trên

là một quá trình kinh tế thống nhất hướng đến hiệu quả kinh tế cuối cùng.
1.3. Nội dung hợp tác kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất
1.3.1. Nhu cầu hợp tác
Cần nhận thức sâu sắc và rõ ràng hơn tầm quan trọng của hợp tác liên kết
kinh tế. Việc hợp tác liên kết kinh tế của các hộ trồng rừng sản xuất giúp cho
Nhà nước, doanh nghiệp, các chủ thể liên quan có cơ sở tập trung các nguồn lực
có giới hạn cuar mình để đầu tư đúng đối tượng thì mới có thể đạt hiệu quả cao.
Thực hiện hợp tác liên kết kinh tế là một việc rất khó thực hiện, dễ dẫn đến thất
bại nên đặt ra nhiều yêu cầu cần thiết để giảm thiểu tổn thất không đáng có cho
Nhà nước, doanh nghiệp, các chủ thể liên quan và hộ dân trồng rừng sản xuất.
Hộ dân trồng rừng sản xuất có nhu cầu về thị trường tiêu thụ sản phẩm,
nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào, nguồn vốn sản xuất kinh doanh, hỗ trợ của
các chính sách nhà nước về vay vốn ưu đãi, có nguồn giống cây trồng phù hợp
và đạt hiệu quả sản xuất mang lại thu nhập cao, cần được cung cấp thông tin thị
trường,.... vì vậy để giảm thiểu tối đa hóa những rủi ro mà hộ dân trồng rừng sản
xuất không muốn gặp phải thì việc tham gia hợp tác liên kết kinh tế với các
12


doanh nghiệp và chủ thể liên quan là rất cần thiết và đem lại lợi ích, thu nhập ổn
định cho mỗi hộ dân. Đồng thời các doanh nghiệp, chủ thể liên quan cũng muốn
tham gia hợp tác kinh tế với các hộ dân trồng rừng sản xuất để có thể có nguồn
cung nguyên liệu, sản phẩm đầu vào đầu ra đúng theo yêu cầu của từng doanh
nghiệp và để sản xuất và tiêu thụ, xuất khẩu các mặt hàng có giá trị để tạo sức
cạnh tranh và thu về một khoản lợi nhuận không nhỏ.
Hợp tác kinh tế tạo điều kiện cho cả hai bên cùng phát triển, cùng hỗ trợ
nhau và đạt hiệu quả, lợi nhuận tối ưu cho mỗi bên tham gia hợp tác liên kết. Khi
tham gia liên kết thì hai bên cùng có lợi – đây chính là yêu cầu đặt ra cho nhu
cầu hợp tác giữa các chủ thể liên quan tới hoạt động này.
1.3.2. Mô hình hợp tác

Căn cứ vào quan hệ kinh tế - kỹ thuật thì có các hình thức hợp tác liên kết
sau:
- Hợp tác, liên kết dọc (Vertical integration): là liên kết giữa các doanh
nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh khác ngành nhưng có mối quan hệ kinh tế - kỹ
thuật trong toàn bộ hoặc một phân đoạn của một dây chuyền công nghệ sản xuất
– lưu thông từ nguyên liệu đầu vào đến sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Ví dụ:
quan hệ liên kết giữa hộ dân trồng rừng sản xuất và doanh nghiệp chế biến lâm
sản gỗ là một liên kết dọc.
- Hợp tác, liên kết ngang (Horizontal integration): là liên kết giữa các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh trong cùng một ngành hàng cùng phối
hợp hoạt động cho một lợi ích chung hoặc thực hiện chuyên môn hóa trong
ngành để góp phần tạo ra cùng một loại sản phẩm. Ví dụ: hợp tác xã nông lâm
nghiệp ở nước ta hiện nay được xây dựng trên cơ sở hộ nông nghiệp tự chủ là
một hình thức liên kết ngang.
- Hợp tác, liên kết nghiêng: là liên kết giữa các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất kinh doanh về lĩnh vực chuyên môn, khoa học, công nghệ; không phân biệt
13


cùng ngành hay khác ngành. Ví dụ: Hội bảo vệ thực vật Việt Nam là một hình
thức liên kết nghiêng.
Căn cứ theo cấu trúc thành phần, có các loại hình liên kết sau:
- Hợp tác, liên kết song phương: là liên kết giữa hai chủ thể kinh tế độc
lập. Ví dụ: liên kết kinh tế giữa một doanh nghiệp chế biến lâm sản với một hộ
dân trồng rừng là một liên kết song phương.
- Hợp tác, liên kết đa phương: là liên kết giữa nhiều chủ thể kinh tế độc
lập. Ví dụ: khu vực thương mại tự do ASEAN – AFTA là một tổ chức liên kết
kinh tế đa phương. Liên kết kinh tế đa phương có thể cấu thành các loại hình cụ
thể khác nhau.
1.3.3. Lĩnh vực hợp tác

Trong thực tiễn thực hiện liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến kinh
doanh lân sản với hộ dân trồng rừng trong thời gian qua, xét trên giác độ lĩnh
vực liên kết có 6 loại hình hợp đồng: Hợp đồng sản xuất và mua bán lâm sản;
Hợp đồng sản xuất, đầu tư và mua bán lâm sản; Hợp đồng sản xuất gia công lâm
sản; Hợp đồng hợp tác hay liên doanh sản xuất và phân chia sản phẩm; Hợp
đồng sản xuất lâm sản và hộ dân trồng rừng sản xuất tham gia cổ phần doanh
nghiệp; Hợp đồng ký gửi chốt giá sau.
- Với hợp đồng sản xuất và mua bán lâm sản, còn gọi là hợp đồng bao tiêu
sản phẩm: là loại hợp đồng mà mức độ của chiều sâu liên kết là ít nhất nhưng nó
lại thảo mãn nhu cầu quan trọng nhất và lợi ích lớn nhất của cả hộ trồng rừng sản
xuất và doanh nghiệp là tiêu thụ sản phẩm cho hộ dân và cung ứng nguồn
nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến.
- Với hợp đồng ký gửi chốt giá sau: là loại hợp đồng ký kết sau khi thu
hoạch nhưng lại có tác dụng động viên một nguồn nguyên liệu dồi dào cho
doanh nghiệp do tác dụng giảm thiểu rủi ro về giá, công nợ đầu tư cho hộ dân và
cho cả doanh nghiệp. Thích hợp với doanh nghiệp có tiềm lực tài chính mạnh, có
14


thị trường tiêu thụ ổn định, có khả năng quản lý tài chính tốt. Doanh nghiệp cần
nâng cao khả năng dự báo thị trường trước khi ký kết hợp đồng tiêu thụ sản
phẩm mà thường là xảy ra trước khi hộ dân chốt giá bán, nếu phán đoán sai dễ
xảy ra lỗ vốn, mất khả năng thanh toán cho hộ dân, thường gây tranh chấp về giá
giữa hai bên nên cần có tổ chức trung gian làm công tác giám định giá cho hai
bên đi đến thỏa thuận.
- Với hợp đồng sản xuất, đầu tư và mua bán lâm sản: là loại hợp đồng phổ
biến nhất, thông dụng nhất. Thích hợp với các doanh nghiệp có tiềm năng về vốn
và bộ máy quản lý để có thể cung ứng và quản lý đầu tư cho hộ dân trồng rừng
sản xuất. Đơn giản hóa phương thức kiểm định chất lượng; có điều khoản
thưởng – phạt rõ ràng với hộ dân trồng rừng sản xuất; cải tiến chế độ thanh toán

tạo thuận lợi cho hộ dân; phối hợp tốt với chính quyền địa phương....
- Với hợp đồng sản xuất lâm sarn và hộ dân trồng rừng sản xuất tham gia
cổ phần doanh nghiệp: là loại hình tiên tiến của liên kết trong điều kiện nước ta
hiện nay; nó sẽ tạo cơ sở kinh tế vững chắc cho mối quan hệ liên kết. Nhà nước
nên có chính sách hỗ trợ một phần vốn để khuyến khích nông dân mua cổ phần
dưới dạng cổ phần ưu đãi; Doanh nghiệp phải có giải pháp để tăng dần tỷ lệ tham
gia vốn góp cổ phần của hộ dân trồng rừng sản xuất và phát huy đúng mức
quyền lợi của họ với tư cách là cổ đông của doanh nghiệp;....
- Với hợp đồng hợp tác hoặc liên doanh sản xuất và phân chia sản phẩm:
là loại hợp đồng thường áp dụng trong mô hình hạt nhân trung tâm. Dựa trên cơ
sở quyền sử dụng đất đai và đầu tư vật tư của doanh nghiệp. Việc xây dựng được
một công thức ăn chia sản phẩm hợp lý, có tác dụng khuyến khích được người
lao động; vừa đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp.
- Với hợp đồng sản xuất gia công lâm sản: là loại hợp đồng có chiều sâu
liên kết cao nên khả năng kiểm soát của doanh nghiệp rất cao. Loại hợp đồng
này thích hợp với các doanh nghiệp chế biến có tiềm năng kinh tế mạnh, có khả
năng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cao cho hộ dân trồng rừng sản xuất; sản phẩm
15


đầu ra có ưu thế cạnh tranh trên thị trường; doanh nghiệp có quyền sử dụng đất
hoặc thuê đất của hộ dân trồng rừng sản xuất để sản xuất nguyên liệu cho mình.
1.3.4. Phương thức hợp tác
• Hợp đồng bằng văn bản (Hợp đồng chính thống)
Hợp tác, liên kết kinh tế theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức
được thiết lập giữa các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm.
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hộ dân trồng rừng sản xuất và các cơ sở chế biến
hoặc khai thác, tiêu thụ sản phẩm lâm sản về việc tiêu thụ sản phẩm trong tương
lai và thường với giá đặt trước. Đây là hình thức hợp tác, kinh tế trực tiếp, quan
hệ giữa hai bên nên bị ràng buộc bởi bản hợp đồng dài hạn, do đó nó có tính ổn

định hơn. Quan hệ hợp tác trên cơ sở hợp đồng được thực hiện dưới hình thức:
Hợp tác thông qua tổ hợp tác tự nguyện liên kết kinh tế với công ty cổ phần Sơn
Thủy.
• Hợp đồng miệng
Hợp đồng miệng là các thỏa thuận không được thể hiện bằng văn bản giữa
các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động công việc nào đó.
Hợp đồng miệng cũng được hai bên thống nhất về số lượng, chất lượng, giá cả,
thời hạn và địa điểm giao nhận sản phẩm. Cơ sở của hợp đồng miệng là niềm tin,
độ tín nhiệm, trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các bên tham gia hợp đồng.
Hợp đồng miệng thường được thực hiện giữa các tác nhân có quan hệ thân thiết
như (họ hàng, bạn bè, anh em ruột…) hoặc giữa các tác nhân đã có quá trình hợp
tác, liên kết sản xuất - kinh doanh với nhau mà trong suốt thời gian hợp tác luôn
thể hiện được nguồn lực tài chính, khả năng tổ chức và trách nhiệm giữ chữ tín
với các đối tác. Tuy nhiên hợp đồng miệng chỉ là các thỏa thuận trên nguyên tắc
về số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận sản phẩm.
Việc tăng khả năng tiếp cận các công nghệ kĩ thuật mới giúp hộ dân trồng
rừng sản xuất giải phóng sức lao động, cho phép giảm giá thành và tăng khả
16


năng cạnh tranh của hàng lâm sản. Đây là hướng tích cực và có nhiều triển vọng
cho nhiều hộ dân trồng rừng sản xuất với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún,
chưa có điều kiện để tích lũy đất đai, có điều kiện áp dụng công nghệ mới trong
sản xuất.
1.4. Sự cần thiết hợp tác kinh tế trong sản xuất nông lâm nghiệp
1.4.1. Hợp tác kinh tế giúp các hộ nông dân phát huy được lợi thế kinh tế của
quy mô
Xuất phát từ luận điểm này Michael E. Loevinsohn và cộng sự, 1994 cho
rằng hợp tác trong sản xuất nông nghiệp sẽ giúp các hộ gia đình tăng quy mô
kinh tế để có thể đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất trồng trọt.

Một khía cạnh khác trong phát triển lâm nghiệp ở Úc đó là bảo tồn tài
nguyên thiên nhiên. Theo S.R Harrison và cộng sự năm 1999, xem xét vai trò
của liên doanh giữa Chính phủ và các chủ sở hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên
để phát triển tài nguyên thiên nhiên. Bởi theo nhóm tác giả để phát triển các
nguồn tài nguyên thiên nhiên dựa vào các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn và rủi
ro, có tính chất dài hạn, và các vấn đề về tính bền vững hệ sinh thái cũng như
quản lý môi trường. Một liên doanh nên được đặt ra giữa Chính phủ và tư nhân
trong lâm nghiệp dựa vào các dự án lâm nghiệp. Với cách tiếp cận này khắc phục
được sự khó khăn trong việc tiếp cận đất đai đối với các dịch vụ lâm nghiệp của
Nhà nước. Thu hút được nhiều chủ sở hữu đất tham gia dự án.
Gần đây tại Lithuania một quốc gia nằm ở bở biền Bantich thuộc khối các
nước Liên Xô cũ, hoạt động lâm nghiệp tư nhân cũng khá phát triển và cũng
đang trong tiến trình tái cơ cấu ngành lâm nghiệp sau khi giành được độc lập với
vai trò của tư nhân trong sản xuất lâm nghiệp. Năm 2005, Marius Lazdinis và
cộng sự cũng chỉ ra rằng hợp tác giữa các chủ rừng tư nhân ở Lithuania là cần
thiết. Vì các chủ rừng có diện tích rừng nhỏ, thiếu thông tin về rừng, quản lý
rừng và phải đối mặt với bộ máy chính quyền quan liêu và cần được giúp đỡ. Và
17


tác giả chỉ ra sự hợp tác giữa các chủ rừng nhỏ sẽ thúc đẩy việc củng cố rừng,
cung cấp thông tin, tham gia tích cực vào thị trường gỗ, có thể dẫn đến việc thực
hiện thành công các chính sách khác.
1.4.2. Hợp tác kinh tế giúp các hộ tận dụng được các nguồn lực sản xuất, tạo
điều kiện phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất tăng lợi thế so
sánh
Xuất phát từ lý thuyết về sự phục thuộc vào các nguồn lực (Pfeffer &
Salancik, 1978) cho rằng không có công ty nào có thể tồn tại một mình. Các đơn
vị kinh tế phải thường xuyên tương tác với môi trường xung quanh để huy động
nguồn lực và phân phối các sản phẩm sản xuất ra thị trường. Bằng hợp tác kinh

tế giúp các đơn vị kinh tế kiểm soát được thị trường, bảo vệ từ những rủi ro và
đảm bảo nguồn lực được duy trì ổn định và đúng hạn.
Năm 2007, GF Ortmann và RP King cũng thực hiện một nghiên cứu “Hợp
tác xã có thể tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân quy mô nhỏ ở Nam phi tham
gia vào thị trường đầu vào và sản phẩm” với mục tiêu điều tra xem liệu các hợp
tác xã nông nghiệp có thể tạo điều kiện thuận lợi cho nông hộ nhỏ tiếp cận với
thị trường đầu vào và sản phẩm. Nhóm tác giả điều tra 2 kiểu hợp tác xã bao
gồm HTX kiểu truyền thống và HTX mới, liệu hình thức tổ chức HTX nào thích
hợp đối với các hộ nông dân quy mô nhỏ ở Kwazulu – Natal, Nam Phi để giảm
chi phí giao dịch và tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận thị trường đầu vào và
sản phẩm. Vì theo nhóm tác giả trong nghiên cứu của Lyne, 1996 và Matungul et
al, 2001 cho rằng những người nông dân quy mô nhỏ ở Nam Phi và các nước
đang phát triển khác bị hạn chế trong việc tiếp cận các yếu tố sản xuất, tín dụng,
và thông tin, thị trường bị hạn chế bởi quyền sở hữu không đầy đủ và chi phí
giao dịch cao. Theo Williamson, 1985 chi phí giao dịch bao gồm chi phí thông
tin và chi phí liên quan đến tìm kiếm đối tác thương mại, khoảng cách tới thị

18


trường và thực thi hợp đồng – gây phương hại đến hoạt động hiệu quả và thị
trường đầu vào và sản phẩm.
1.4.3. Hợp tác kinh tế giúp các hộ nông dân tối đa hóa nguồn lực sản xuất, và
giảm thiểu chi phí giao dịch.
Đứng trước đặc điểm sản phất lâm nghiệp quy mô nhỏ ở Úc năm 2004,
Brian W.Sharp và cộng sự cũng chỉ ra sự cần thiết phải có một chiến lược hợp
tác trong các tổ chức kinh tế lâm nghiệp quy mô nhỏ. Bởi theo nhóm tác giả các
mô hình tổ chức kinh tế lâm nghiệp truyền thống ở Úc không phù hợp với quy
mô sản xuất lâm nghiệp nhỏ ở Bắc Queensland. Với đặc điểm sản xuất lâm
nghiệp nhỏ ở Bắc Queensland là trồng gỗ nguyên liệu giấy, thời gian khai thác

ngắn. Trong khi đó Chính phủ đang có nhiều nỗ lực cho phát triển rừng trồng gỗ
lớn có giá trị cao và thời gian khai thác dài 30 năm (Harrison và cộng sự, 1999
và Herbohn và cộng sự, 1999). Hợp tác tạo cơ hội tiết kiệm chi phí giao dịch và
tăng luồng thông tin thông qua quá trình hội nhập trong liên minh đối với hoạt
động sản xuất lâm nghiệp nhỏ ở Bắc Queensland.
Tóm lại, hợp tác là tất yếu trong nền kinh tế liên minh toàn cầu hiện nay.
Đặc biệt nó đóng vai trò rất quan trọng trong lĩnh vực sản xuất nông lâm nghiệp.
Với đặc điểm là nhóm ngành phân tán, rải rác, không tập trung, quy mô nhỏ, chu
kỳ kinh doanh dài, rủi ro, và trình độ người lao động thấp, khả năng tiếp cận thị
trường kém... và một trong những ngành đóng góp quan trọng trong chiến lược
phát triển và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường toàn cầu.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi hợp tác, liên kết kinh tế của cá hộ
trồng rừng sản xuất
1.5.1. Các nhân tố bên ngoài
Trình độ phát triển, nhu cầu và sự biến động của thị trường.
Trình độ phát triển của thị trường nông thôn biểu hiện trên cả hai phương
diện bề rộng và chiều sâu. Bề rộng của sự phát triển thị trường nông thôn hạn
19


chế khi thị trường vật tư, bảo hiểm, tín dụng kém phát triển thì nông dân sẽ tha
thiết với phương thức hợp đồng và doanh nghiệp cũng tìm được lợi ích thông
qua việc cung cấp các nguồn lực đầu vào chho các hộ trồng rừng sản xuất.
Chiều sâu của sự phát triển thị trường nông thôn hạn chế không đủ khả
năng để đáp ứng đủ về chủng loại, số lượng, chất lượng của hàng hóa, dịch vụ
một cách kịp thời, thuận tiện với mức giá cả hợp lý đối với các nhu cầu sản xuất
và đời sống của cư dân nông thôn. Thị trường không đảm bảo tiêu thụ hết sản
lượng hàng hóa do nông dân sản xuất ra một cách nhanh chóng, kịp thời với mức
giá thỏa đáng sẽ thúc đẩy nông dân tham gia liên kết với doanh nghiệp.
Sự biến động của thị trường biểu hiện thành sự biến động trong quan hệ

cung cầu hàng hóa và sự biến động về giá cả. Nhìn chung khi cung lớn hơn cầu
thì nông dân cần đến liên kết nhưng doanh nghiệp lại không mặn mà với liên kết;
tuy nhiên khi cung nhỏ hơn cầu thì sự biểu hiện sẽ theo chiều ngược lại.
Khi giá của thị trường biến động lớn, rủi ro cho giá cả doanh nghiệp lẫn
nông dân càng lớn và khi đó liên kết kinh tế với nhau nhằm ổn định một mức giá
hợp lí là giải pháp có thể làm giảm rủi ro cho cả hai bên và theo đó nhu cầu liên
kết tăng. Khi giá cả tăng thì nông dân bỏ hợp đồng hoặc không tuân thủ đầy đủ
hợp đồng. Ngược lại khi giá giảm, doanh nghiệp lại chính là phía vi phạm hợp
đồng bằng nhiều cách khác nhau như ép cấp, ép giá, gây nhũng nhiễu phiền hà
cho nông dân, thậm chí bỏ cả hợp đồng. Chỉ khi nào giá cả bình ổn thì khả năng
thực thi hợp đồng mới có khả thi.
Sự quản lý của các Chính sách Nhà nước.
Trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm lâm nghiệp, sự quản lý của
Nhà nước dưới tác động vào mối quan hệ liên kết giữa hộ dân trồng rừng sản
xuất với doanh nghiệp là rất quan trọng. Nhà nước phải xây dựng quy hoạch các
diện tích trồng rừng sản xuất, cũng như xử lý nghiêm minh những vi phạm hợp
đồng của các bên đối tác theo Pháp luật. Đồng thời, các nhà quản lý phải hoạch
định được chính sách thích hợp nhằm thúc đẩy quá trình liên kết chặt chẽ giữa
20


các nhà hợp tác liên kết với hộ dân trồng rừng sản xuất, tạo sự gắn bó vì lợi ích
chung của cả cộng đồng.
Ngoài hệ thống pháp lý và luật tục (thực thi luật), nhiều chính sách của
Chính phủ cùng với các yếu tố ảnh hưởng khác đã định hình vấn đề quản trị rừng
Việt Nam. Đó là những chính sách kinh tế vĩ mô, các chính sách ngành, các
chương trình của nhà tài trợ.....
- Chính sách kinh tế vĩ mô: một số chính sách vĩ mô của Chính phủ đã ảnh
hưởng đến quản trị rừng như cả cách hành chính, cải cách các doanh nghiệp nhà
nước, chương trình giao đất nông nghiệp và các cam kết của Việt Nam khi trở

thành thành viên của WTO.
- Hỗ trợ của các nhà tài trợ: hỗ trợ về tài chính và kĩ thuật từ cộng đồng
quốc tế đã đóng góp tích cực cho việc phát triển ngành Lâm nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên các nguồn tài trợ như vậy không thể tiếp tục lâu dài. Khi các nguồn tài
trợ giảm dần, Việt Nam sẽ phải tìm kiếm các nguồn đầu tư khác và phải trả tiền
cho tư vấn kỹ thuật từ bên ngoài.
- Mối quan hệ quyền lực và tham nhũng: các mối quan hệ quyền lực bất
bình đẳng tạo ra tác động tiêu cực về cơ chế khuyến khích người dân tham gia
quản lý rừng bền vững. Hơn nữa, tình trạng tham nhũng trong ngành Lâm nghiệp
càng làm tình hình trở nên xấu hơn.
- Các chương trình xóa đói giảm nghèo: nhờ có sự nổ lực của Chính phủ,
tỷ lệ người nghèo ở Việt Nam đã giảm đáng kể. Tuy nhiên các khó khăn vẫn còn
ở phía truớc, đặc biệt đối với ngành Lâm nghiệp vì sự đóng góp của ngành Lâm
Nghiệp cho việc xóa đói giảm nghèo vẫn chưa đạt mức tiềm năng.
Các Chủ trương chính sách Nhà nước đóng vai trò định hướng cho phát
triển kinh tế nói chung, sự phát triển của nền nông – lâm nghiệp và mối liên kết
giữa các chủ thể nói riêng. Yếu tố này càng được quan tâm đúng đắn, kịp thời thì
hiệu quả liên kết càng cao. Chính sách giá cả hỗ trợ sản xuất lâm nghiệp: khi cần
Nhà nước có những chính sách tác động đến giá cả, đảm bảo quyền lợi của các
21


chủ thể và hỗ trợ cho các chủ thể một phần khi gặp khó khăn trong quá trình
trồng rừng sản xuất. Chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng hóa lâm sản thông
qua hợp đồng và các chính sách hỗ trợ kèm theo. Chính sách này trực tiếp tác
động vào mối liên quan ba nhà và tạo điều kiện cho ba chủ thể tham gia vào liên
kết có hiệu quả.
Vai trò của các tổ chức xã hội.
Trong việc thực hiện liên kết kinh tế với các hộ dân trồng rừng sản xuất có
nhiều khó khăn đến từ nông dân là: quy mô nhỏ phân tán, ý thức pháp luật kém,

khả năng thương lượng thấp,..... Những hạn chế đó có thể được khắc phục thông
qua các quan hệ xã hội và các tổ chức kinh tế - xã hội của nông dân bao gồm:
quan hệ cộng đồng, làng xóm, hội nông dân và quan trọng nhất là các Hợp tác xã
nông lâm nghiệp kết hợp và các hình thức kinh tế hợp tác khác. Tuy nhiên khả
năng thương lượng tương đối của các doanh nghiệp sẽ mạnh hơn khi họ độc
quyền mua trong thị trường chế biến, khi có rất nhiều người sản xuất vô tổ chức.
Vì vậy sức nặng của hành động tập thể về phía những nông dân có thể tạo ra khả
năng doanh nghiệp không thực hiện hợp đồng với các hộ trồng rừng sản xuất để
chuyển sang tìm nguồn cung cấp thay thế.
Xu thế ngày càng phát triển và hội nhập
Ngày nay mỗi quốc gia, mỗi vùng miền, mỗi người dân đều muốn nâng cao
trình độ, nâng cao kiến thức, nâng cao chất lượng sản phaarrm để có thể theo kịp
trình độ cạnh tranh, trình độ phát triển so với các nước trong khu vực, các nước
trên thế giới. Vì thế nhu cầu phát triển và hội nhập ngày càng được quan tâm và
đặt ra nhiều vấn đề cấp thiết. Rừng là tài nguyên, và môi trường xanh, là nguồn
thu nhập cho kinh tế cao ở mỗi vùng miền riêng của đất nước. Trước tình trạng
ngày càng ô nhiễm, mất cân đối hệ sinh thái, ngày càng thoái hóa và chất lượng
rừng ngày càng cạn kiệt, suy thoái, trong tình trạng báo động thì mỗi người
chúng ta đều phải chung tay vì một môi trường xanh – sạch – đẹp, cần phủ xanh
đồi trống đất trọc đồng thời gây trồng và phát triển rừng sản xuất.
22


Xu thế quản lý bền vững rừng trồng sản xuất trong giai đoạn từ năm 2007 –
2017, sản lượng khai thác gỗ trong nước tăng trưởng ổn định, bình quân hơn
10%/năm. Cả nước hiện có 3 triệu ha rừng trồng sản xuất nhưng mới có hơn 230
nghìn ha có chứng chỉ quản lý rừng bền vững. Phấn đấu đến năm 2020 cả nước
có khoảng 300 nghìn ha và đến năm 2025 có 1 triệu ha rừng trồng sản xuất tập
trung được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững theo tiêu chuẩn và quy định
quốc tế đang là bài toán đặt ra không chỉ riêng cho ngoài lâm nghiệp mà cả đối

với các địa phương và doanh nghiệp chế biến, sản xuất lâm sản phục vụ tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu.
Theo Thứ trưởng Hà Công Tuấn, Luật Lâm nghiệp mới nới rộng phạm vi
điều chỉnh, theo hướng liên kết chuỗi, tạo ra rừng sản xuất và cung cấp lâm sản
đáp ứng cho nền kinh tế và xã hội. Trước đây các luật chỉ chú trọng quản lý và
bảo vệ, phát triển rừng nhưng lần này là mở rộng đến liên kết thương mại. Đặc
biệt là việc thể chế hóa xây dựng chiến lược phát triển rừng trong bối cảnh hội
nhập sâu sắc hơn.
Việc sản xuất rừng với quy mô lớn được tính đến với nhiều cách thức: đảm
bảo để người dân được giao rừng, việc giao rừng cho người dân và doanh nghiệp
cũng phải trên tinh thần tạo liên kết giữa người chế biến và người cung ứng, tiêu
thụ, tạo phương thức quản trị có hiệu quả. Bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà
nước với lợi ích của chủ rừng, tổ chức, cá nhân hoạt động lâm nghiệp. Bảo đảm
tổ chức liên kết theo chuỗi từ bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng, chế biến và
thương mại lâm sản để nâng cao chất lượng rừng. Đảm bảo công khai, minh
bạch sự tham gia của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đòng dân cư liên
quan trong hoạt động lâm nghiệp....
Đáng chú ý ở Luật Lâm nghiệp lần này là UBND cấp tỉnh được quyền cho
doanh nghiệp nước ngoài thuê đất trồng rừng: UBND cấp tỉnh được quyền giao
rừng, cho thuê rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng sang mục đích khác, thu hồi
rừng đối với tổ chức; cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
23


thuê đất để trồng rừng sản xuất. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định rõ các hành vi
bị nghiêm cấm như: chặt, phá, khai thác, lấn chiếm rừng trái quy định của pháp
luật; tàng trữ, mua bán, vận chuyển, chế biến, quảng cáo, trưng bày, nhập khẩu,
xuất khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập, quá cảnh lâm sản trái quy định
của Pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là thành viên. (Luật Lâm nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày

01/01/2019).
1.5.2. Các nhân tố bên trong
Các hộ dân trồng rừng sản xuất có trình độ văn hóa thấp, thiếu kinh nghiệm
sản xuất, nông dân có độ tuổi lớn hoặc đã có nguồn gốc nghề nghiệp phi nông
nghiệp, khả năng tiếp cận thị trường khó khăn, thiếu vốn, .... nên có động lực
mạnh hơn để kí kết hợp đồng với doanh nghiệp để có thể giúp đỡ họ khắc phục
được phần nào yếu điểm đó.
Các địa phương, đơn vị cũng đã đẩy mạnh chuyển hóa rừng trồng cây mọc
nhanh cung cấp nguyên liệu gỗ nhỏ ssang kinh doanh gỗ lớn; áp dụng các biện
pháp kỹ thuật thâm canh để nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng. Đặc biệt,
việc cải tạo rừng tự nhiên là rừng sản xuất nghèo kiệt để trồng rừng theo hướng
thâm canh được chú trọng nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất và giá trị sản
xuất lâm nghiệp, nâng cao thu nhập và đời sống của người dân. Trồng rừng gỗ
lớn theo tiêu chí của Hội đồng quản trị rừng Thế giới (Chứng chỉ FSC) không chỉ
hiệu quả kinh tế cao mà còn mang lại những lợi ích về môi trường....
Các địa phương cần triển khai tốt các Chính sách của Nhà nước trong lĩnh
vực Lâm nghiệp như: hỗ trợ đầu tư và tín dụng để khuyến khích các thành phần
kinh tế đẩy mạnh phát triển trồng rừng gỗ lớn; đầu tư các cơ sở chế biến gỗ; hỗ
trợ cấp chứng chỉ rừng bền vững với rừng gỗ lớn,.... Đồng thời cần tranh thủ về
hỗ trợ tài chính, kĩ thuật của các dự án lâm nghiệp để xây dựng thí điểm các mô
hình quản lý rừng trồng bền vững đối với các tổ chức, nhóm hộ gia đình, cá
nhân,...
24


Đặc biệt để khắc phục tình trạng manh mún, tỉnh cần có chính sách hỗ trợ
các địa phương thành lập các Hợp tác xã Lâm nghiệp, các hình thức hợp tác liên
kết kinh tế nói chung và trồng rừng gỗ lớn nói riêng. Tỉnh và các cơ quan chức
năng cần xem xét tạo điều kiện hỗ trợ thêm kinh phí, chia sẻ kinh nghiệm cũng
như có kế hoạch đào tạo, nâng cao trình độ nghiệp vụ, quản lý cho cán bộ và hộ

dân trồng rừng sản xuất.
Đặc điểm của hộ dân trồng rừng sản xuất.
Trình độ sản xuất của các hộ dân còn thấp, tình trạng các hộ dân thiếu thông
tin dẫn đến không có định hướng sản xuất; đòi hỏi các hội đoàn, cán bộ địa
phương phải cung cấp nhiều thông tin hơn về tiếp cận thị trường, về tiêu chuẩn
sản phẩm xuất khẩu,.... Hình thức sản xuất của các hộ dân còn riêng lẻ, tập quán
canh tác khác nhau, mạnh ai nấy bán, nhận thức của mỗi người còn bị hạn chế,
làm theo bản năng của bản thân chứ chưa qua tập huấn hay chưa đào tạo về mặt
chuyên môn, kỹ thuật sản xuất.... Sự khác biệt về khả năng nguồn lực của các hộ,
mức độ áp dụng khoa hộc kỹ thuật, công nghệ sinh học, giống cây mới ưu
Việt, .... cũng tạo ra sự khác biệt cho hộ dân trồng rừng sản xuất. Bên cạnh còn
do các hình thức liên kết hợp tác kinh tế của các hộ dân trồn rừng sản xuất hiện
nay chỉ mang tính hình thức, vai trò của nhà nước còn hạn chế trong việc điều
phối và khuyến khích các chủ thể tham gia; quy mô sản xuất nhỏ, phân tán, thiếu
cơ chế phân chia lợi ích. Đồng thời nguồn vốn hạn hẹp, các hộ dân phải vay vốn
ngân hàng hay tổ chức tín dụng khác để đầu tư sản xuất; khả năng tiếp cận nguồn
vốn vay khó do quy mô khoản vay nhỏ, thời hạn vay ngắn, không có tài sản thế
chấp, lãi suất cao, thủ tục rườm rà, ....
Trình độ nhận thức, năng lực, tư duy của các chủ thể tham gia liên kết:
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của liên kết trong sản xuất lâm
nghiệp. Người dân không có kiến thức, tư duy về liên kết sẽ không hiểu về liên
kết, sẽ dẫn đến khó thực hiện tốt vai trò của mình trong liên kết. Các nhà khoa
học không hiểu biết về các chủ trương, chính sách liên kết, không có năng lực
25


×