Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

ÔN tập ĐẢNG LÃNH đạo hệ THỐNG CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.45 KB, 27 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP
MÔN ĐẢNG LÃNH ĐẠO HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
------------------------STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

CÂU HỎI
Phân tích đặc điểm của Hệ thống chính trị ở Việt Nam
Phân tích mối quan hệ giữa các tổ chức thành viên trong Hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay
Phân tích nội dung Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị đối với Hệ thống chính
trị nước ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn địa phương
Phân tích nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Hệ thống chính trị hiện nay.
Liên hệ thực tiễn địa phương
Phân tích một số phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng đối với Hệ thống
chính trị hiện nay. Liên hệ thực tiễn cơ sở
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội hiện
nay. Liên hệ thực tiễn.
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ hiện
nay. Liên hệ thực tiễn.
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQVN hiện
nay. Liên hệ thực tiễn.
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn thể


chính trị - xã hội hiện nay. Liên hệ thực tiễn.
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Hệ thống chính
trị cấp cơ sở hiện nay. Liên hệ thực tiễn địa phương.
---------------------------

1


Câu 1
Phân tích đặc điểm của Hệ thống chính trị ở Việt Nam
-----------------------------Hệ thống chính trị Việt Nam lần đầu tiên được Đảng ta sử dụng trong
Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI (3-1989)
thay cho khái niệm chuyên chính vô sản
Hệ thống chính trị Việt Nam được ra đời ngày 2 tháng 9 năm 1945 (khi
Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân) thay thế cho hệ thống chính trị thực dân
nửa phong kiến do thực dân pháp áp đặt.
Hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể bao gồm: Đảng Cộng sản
Việt Nam, Nhà nước CHXHCNVN, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân (Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cực
chiến Binh Việt Nam). Mỗi tổ chức đều có vị trí, vai trò, phương thức hoạt động
khác nhau với những chức năng nhiệm vụ khác nhau dưới sự lãnh đạo củamột
Đảng duy nhất cầm quyền, sự quản lý của nhà nước nhằm thực hiện quyền lực
chính trị của nhân dân vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”.
* Đặc điểm của Hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay
Hệ thống chính trị ở Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam có một chính đảng duy nhất
lãnh đạo và cầm quyền đó là Đảng cộng sản Việt Nam
Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm

quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam, còn có Đảng Dân chủ và Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ
chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên chính trị,
không tồn tại các đảng chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều
do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng lập vừa đóng vai trò là hình thức tổ chức
quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị – xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự lãnh
đạo chính trị đối với xã hội.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận,
thể chế hoá cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch,
chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước

2


và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị
quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội
ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác
định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu
chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và
các tổ chức chính trị – xã hội.
Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu
gương, làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân

chủ…
Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam có tính thống nhất cao
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí,
vai trò, chức năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo
thành một thể thống nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú
về tổ chức, phương thức hoạt động trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để
phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ
thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các
yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
+ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
+ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập
trung dân chủ.
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa
phương, với các bộ phận hợp thành.
Thứ ba, hệ thống chính trị Việt Nam mang bản chất dân chủ nhân
dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Đây là đặc điểm có tính nguyên tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam.
Đặc điểm này khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam không chỉ gắn với chính
trị,quyền lực chính trị, mà còn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tồ
chức chính trị (như Đảng, Nhà nước), các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có
tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội khác). Do
vậy, hệ thống chính trị không đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội (như những lực
lượng chính trị áp bức xã hội trong các xã hội có bóc lột), mà là một bộ phận của
xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị với xã hội
chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị – xã hội.

Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện
trên các yếu tố:

3


+ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động
của Đảng cầm quyền.
+ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp,
tổ chức của chính các tầng lớp nhân dân.
+ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức
trong hệ thống chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ tư, hệ thống chính trị Việt Nam có sự kết hợp giữa tính giai cấp
và tính dân tộc
+ Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính
trị đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân
dân được đại diện bởi các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa
nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước
ta mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc.
+ Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp
gắn liền và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Các giai cấp, dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân
tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư
cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu tố quan trọng tăng
cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
+ Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong
bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, tạo nên
sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và
giai cấp mang tính tương đối và không có ranh giới rõ ràng.
Thứ năm, hệ thống chính trị Việt Nam có tổ chức và hoạt động được
đảm bảo bằng nguồn ngân sách Nhà nước
Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức và hoạt động từ nguồn ngân
sách nhà nước nhằm thực hiện các hoạt động phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, xây dựng cơ sở hạ tầng, chi trả lương cho cán bộ, công chức.
Những đặc điểm trên khẳng định ưu thế của Hệ thống chính trị Việt Nam
như đảm bảo quyền lực thống nhất, dễ đạt sự đồng thuận xã hội trong quá trình
ban hành và thực thi quyết sách. Tuy nhiên, do hệ thống chính trị có mặt ở tất cả
các cấp quản lý hành chính với cơ cấu tổ chức cồng kềnh, đội ngũ cán bộ công
chức lớn nên tạo ra áp lực lớn lên ngân sách nhà nước, bộ máy làm việc nhiều
khi kém hiệu quả.

--------------------------4


Câu 2
Phân tích mối quan hệ giữa các tổ chức thành viên trong
Hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay
------------------------------Hệ thống chính trị Việt Nam được cấu thành bởi ba bộ phận: Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đặc biệt
là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 đoàn thể chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao
động Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành với lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng đóng vai trò
lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, có nhiệm vụ để ra cương lĩnh, đường lối,

chiến lược, quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước lại là tổ
chức công quyền thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt
nhân dân chịu trách nhiệm trước nhân dân, quản lý toàn bộ hoạt động của đời
sống xã hội. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội lại có nhiệm vụ
giáo dục tư tưởng, động viên và phát triển tích cực xã hội của các tầng lớp nhân
dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị, chăm lo bảo vệ lợi ích chính đảng
và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Ba bộ phận hợp thành tạo thành một chỉnh thể quan hệ biện chứng tác
động qua lại với nhau vì một mục đích chung nhất là thực hiện quyền lực của
nhân dân. Mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị Việt Nam
được thể hiện qua mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; Đảng và Mặt trận tổ
quốc; Mối quan hệ giữa Nhà nước và Mặt trận tổ quốc. Mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước là quan hệ mục đích nắm quyền và hoạt động quản lý xã hội. Đảng
lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đường
lối chủ trương của Đảng được nhà nước tiếp nhận và thể hiện hóa cụ thể bằng
pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể.
Mỗi tổ chức thành viên thực hiện quyền lực nhân dân bằng chức năng,
cách thức riêng của mình. Trong Hệ thống chính trị thì Nhà nước giữ vai trò
trung tâm (nòng cốt). Các đảng chính trị đặc biệt là đảng cầm quyền giữ vai trò
ảnh hưởng chi phối đến hoạt động của nhà nước. Các tổ chức chính trị - xã hội
có tác động gây áp lực lên nhà nước và Đảng cầm quyền. Mặt trận tổ quốc tham
gia xây dựng, giám sát và bảo vệ Nhà nước, vận động các tầng lớp nhân dân
thực hiện quyền bầu cử, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, tham gia xây
dượng pháp luật…Nhà nước lại dựa vào Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể để
phát huy quyền làm chủ và sức mạnh có tổ chức của nhân dân, tôn trọng và tạo
mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua đoàn thể của mình tham gia
xây dựng, quản lý và bảo vệ Nhà nước.
Đảng tham gia ủy ban Mặt trận với trách nhiệm thực hiện chương trình
của Mặt trận tổ quốc và tích cực tham gia công tác Mặt trận. Đảng lãnh đạo Mặt
5



trận thông qua đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng yêu cầu
nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Đảng tiến hành
công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục, tổ chức kiểm tra.
Ba bộ phận này vừa đấu tranh vừa thống nhất với nhau và trở thành trụ
cột để duy trì, vận động và phát triển chế độ chính trị và đời sống xã hội của
quốc gia.

---------------------------

6


Câu 3
Phân tích nội dung Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị đối với Hệ thống
chính trị nước ta hiện nay. Liên hệ thực tiễn địa phương
---------------------Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là các vấn đề của
đất nước, trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội ở
các cấp, các ngành; trong các mối quan hệ với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội ở từng giai đoạn cách mạng. Sự lãnh đạo
của Đảng biểu hiện tập trung nhất là lãnh đạo về chính trị và tư tưởng và tổ
chức, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trtaanj
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ,
thẩm quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo
điều lệ, mục đích, tôn chỉ của mối tổ chức.
Nội dung lãnh đạo của Đảng được thể hiện trong nội dung của cương
lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, đảm bảo tính định
hướng chính trị cho sự phát triern của đất nước, tạo cơ sở cho tổ chức và hoạt
động của toàn bộ hệ thống chính trị và toàn bộ xã hội hướng tới mục tiêu: dân

giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nội dung lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị là toàn diện và
trực tiếp. Có thuể khái quát thành hai nội dung cơ bản, trong yếu sau:
Thứ nhất, Đảng lãnh đạo chính trị đối với việc xác định chức năng và
nhiệm vụ của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị, lãnh đạo các tổ
chức thành viên thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo việc xây dựng, củng cố tổ chức bộ máy của các
thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ
và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị,
Nội dung lãnh đạo của Đảng không thể tách rời phương thức lãnh đạo
của Đảng. Nội dung lãnh đạo phải qua những phương thức lãnh đạo thích hợp
mới trở thành hiện thực.
Vị trí cầm quyền của Đảng thể hiện quyền hạn trách nhiệm chung của
Đảng và trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc quyết định các vấn đề của
đất nước, các vấn đề trong từng lĩnh vực cụ thể, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa,
xã hội ở các cấp, các ngành, trong các mối quan hệ với Nhà nước. Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn thể xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng biểu hiện tập trung nhất lãnh đạo về chính trị và tư
tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một khuôn khổ chính trị để Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện đúng nhiệm vụ, thẩm
quyền, chức năng và vai trò của mình theo quy định của pháp luật, theo điều lệ,
mục đích, tôn chỉ của mỗi tổ chức.

7


* Liên hệ thực tiễn địa phương
Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị cơ sở, các đảng
bộ, chi bộ ở xã, phường, thị trấn đã nhận thức và xác định rõ vai trò, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị; đồng thời đảm bảo vai

trò lãnh đạo toàn diện trên mọi lĩnh vực ở cơ sở. Nhiều cấp ủy đã thực sự đổi
mới nội dung, quy trình và xác định được những vấn đề trọng tâm, trọng điểm
trong việc ban hành các nghị quyết. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư
tưởng có đổi mới. Coi trọng hơn nhiệm vụ xây dựng đạo đức trong cán bộ, đảng
viên và nhân dân. Các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản được quan tâm
lãnh đạo, chỉ đạo; chú trọng ngăn ngừa, khắc phục những lệch lạc, nhất là biểu
hiện xa rời tôn chỉ, mục đích. Công tác thông tin đối ngoại được đẩy mạnh. Đa
số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào
công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn
là xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thời gian qua trong hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém. Chức năng, nhiệm vụ của
các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm
không rõ ràng; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới và chưa đồng
bộ, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Một số nơi sự
phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị chưa chặt chẽ, hiệu quả hoạt
động chưa cao. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở
đảng còn yếu, nhất là năng lực vận dụng các chủ trương, nghị quyết của Đảng và
chính sách của Nhà nước vào tình hình cụ thể của địa phương. Hiệu quả hoạt
động của bộ máy chính quyền một số nơi chưa cao; trình độ, năng lực của một
bộ phận cán bộ, công chức cấp xã, nhất là các xã vùng cao, vùng đồng bào dân
tộc chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cơ sở một số địa phương chưa thực sự được quan tâm; nội dung, chương
trình đào tạo chưa phù hợp với công việc ở cơ sở, còn chạy theo bằng cấp. Hoạt
động của các đoàn thể chính trị ở một số nơi còn mang tính hình thức, chưa thiết
thực; còn biểu hiện hành chính hóa trong hoạt động. Công tác kiểm tra nắm tình
hình cơ sở ở một số địa bàn chưa thường xuyên, sâu sát, dẫn đến việc phát hiện
và xử lý các vấn đề nảy sinh ở cơ sở còn bị động. Công tác phát triển đảng viên
ở cơ sở chưa được quan tâm đúng mức; một số vùng sâu, vùng xa, vùng đồng
bào dân tộc chi bộ ghép ở các thôn, bản còn nhiều. Nội dung và hình thức sinh

hoạt chi bộ còn đơn điệu, việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng
viên hàng năm chưa phản ánh đúng thực chất. Một bộ phận cán bộ, đảng viên ở
cơ sở suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, nói không đi đôi với làm.
Chế độ, chính sách đối với cán bộ cơ sở còn bất cập; cơ sở hạ tầng và điều kiện
làm việc nhiều nơi còn khó khăn, nhất là các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc…
--------------------------

8


Câu 4
Phân tích nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với Hệ thống chính trị
hiện nay. Liên hệ thực tiễn địa phương
---------------------Nguyên tắc lãnh đạo của Đảng được hiểu là những yêu cầu bắt buộc phải
tuân thủ khi chủ thể là cá nhân hoặc tổ chức có thẩm quyền phải tuân thủ trong
lãnh đạo hệ thống chính trị
1. Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị trên cơ sở tuân thủ pháp luật
Mọi quyết định lãnh đạo không được trái với pháp luật. Đảng vừa là bộ
phận của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống ấy, hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của
Đảng đã xác định rõ bản chất của Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Về vị trí, vai trò của Đảng trong hệ
thống chính trị, Cương lĩnh năm 1991 xác định rõ: “Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phân của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với
nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật” . Điều đó là cơ sở của sự gắn bó giữa xây dựng Đảng và xây dựng
hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính

trị.
2. Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị phải tuân thủ nguyên tắc tập
trung, dân chủ
Mọi quyết định lãnh đạo phải được xây dựng trên cơ sở dân chủ thảo
luận, theo số đông. Không trái với điều lệ và các quy định của Đảng. Không trái
với Nghị quyết của Đảng cấp trên.
Tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản của các tổ chức
cộng sản và là một trong những đặc trưng cốt lõi để phân biệt chính đảng của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các đảng phái chính trị khác. Từ khi ra
đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đều xác định Tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản, bao trùm, xuyên suốt trong mọi tổ chức và hoạt động của
Đảng. Vấn đề căn cốt này đã trang bị cho học viên tham gia lớp bồi dưỡng kiến
thức về Đảng và chuẩn bị đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Đối với tổ chức đảng các cấp, việc tuân thủ, thực hiện Tập trung dân chủ
không chỉ là nguyên tắc lãnh đạo, hoạt động và sinh hoạt Đảng, mà còn là điều
kiện bảo đảm để phát huy trí tuệ tập thể, mở rộng dân chủ, tăng cường đoàn kết,
thống nhất ý chí và hành động trong Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc T Tập trung dân chủ
thì bắt buộc mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải chấp hành, thực hiện đến nơi
đến chốn. Nguyên tắc này được ví như “la bàn” có vai trò định hướng cho đội
ngũ đảng viên khép mình vào khuôn khổ tổ chức, tự giác chấp hành Cương lĩnh,
9


Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị và quy định của Đảng. Nếu xem nhẹ, xa rời hoặc
nhận thức không đúng, thực hiện không thấu đáo, hành xử thiếu nhất quán
nguyên tắc này sẽ khiến cán bộ, đảng viên “đi chệch” quỹ đạo, từ đó có thể dẫn
đến nhiều khuyết điểm, vi phạm trong công tác và trong sinh hoạt Đảng.
3. Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị trên cơ sở tôn trọng tính độc lập
và phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của các thành viên Hệ thống chính

trị
Phải thực hiện nguyên tắc này vì mỗi tổ chức thành viên Hệ thống chính
trị là một pháp nhân có chức năng nhiệm vụ riêng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trò quan trọng trong việc tập hợp, vận
động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng…Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã
hội.Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Công
đoàn… duy trì dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và
các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính
trị; thực hiện “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” và dân thụ hưởng những thành
quả của sự nghiệp đổi mới.Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các tổ chức chính trị - xã hội, khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước
hóa, phô trương, hình thức để nâng cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác
dân vận theo phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Thực hiện nguyên tắc này các cấp ủy và các tổ chức Đảng cần tránh hai
xu hướng: Bao biện làm thay, buông lỏng sự lãnh đạo.
* Liên hệ thực tiễn địa phương

-----------------------

10


Câu 5
Phân tích một số phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng đối với Hệ thống
chính trị hiện nay. Liên hệ thực tiễn cơ sở
----------------------------Phương thức Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị (HTCT) là phương pháp

tác động và hình thức thể hiện mà Đảng sử dụng để lãnh đạo đối với hoạt động
của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Hiện nay Đảng sử dụng 6 phương thức để lãnh đạo Hệ thống chính trị.
Cơ sở lý luận trực tiếp để nghiên cứu phương thức Đảng lãnh đạo Hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay là chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng thể
hiện trong Nghị quyết TW 5 Khoá X.
Trên cơ sở lý luận đó, các phương thức Đảng lãnh đạo Hệ thống chính trị
gồm:
Thứ nhất: Đảng lãnh đạo HTCT bằng định hướng chính trị
Đảng lãnh đạo HTCT bằng định hướng chính trị là việc Đảng đề ra chủ
trương, đường lối trên các lĩnh vực của đời sống xã hội để Nhà nước thể chế
hóa thành chính sách, pháp luật, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cụ
thể hóa trong điều lệ và những nội dung hoạt động của mình.
Định hướng chính trị là phương thức lãnh đạo quan trọng nhất và chủ
yếu nhất của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Định hướng chính trị của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đàn thể chính
trị - xã hội chủ yếu bằng nghị quyết. Thông qua nghị quyết mà ý chí, chí tuệ tập
thể của cơ quan lãnh đạo Đảng được thể hiện một cách tập trung, cô đọng, sáng
suốt và có giá trị hiệu lực cao, làm phương tiện truyền tải định hướng chính trị
của Đảng, cụ thể như sau:
- Trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng HCM; tình
hình quốc tế và cơ sở kinh tế - xã hội nước ta trong từng thời kỳ mà Trung ương
Đảng đề ra định hướng chính trị cho cả nước. Còn ở các địa phương, căn cứ vào
nghị quyết của các cấp lãnh đạo Đảng cấp trên, kết hợp với cơ sở kinh tế - xã hội
của địa phương mà đề ra định hướng chính trị cho địa phương mình.
- Đảng căn cứ vào chính tổ chức, hoạt động của chính Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội; căn cứ vào việc đáp ứng yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội để đề ra
định hướng chính trị cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội.

- Đảng định hướng chính trị trên các lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh
tế; chính trị; văn hóa - xã hội; an ninh, quốc phòng cho tổ chức, hoạt động của
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thứ hai: Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tư tưởng
Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tư tưởng là việc Đảng tuyên truyền,
giáo dục nhằm xây dựng hệ tư tưởng mác - xít và chống lại tư tưởng phi mác –
xít đối với đảng viên, quần chúng; đặc biệt là công chức, viên chức của Nhà
11


nước và cán bộ, hội viên của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nhằm
tạo ra sự đồng thuận về tư tưởng và hành động trong hệ thống chính trị khi thực
hiện các nhiệm vụ cách mạng.
- Đảng thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị
tư tưởng đối với đảng viên, quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ công chức,
viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng tổ chức và động viên quần chúng nhân dân; đặc biệt là đội ngũ
công chức, viên chức của Nhà nước và cán bộ, hội viên của các Nhà nước, Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong việc thực hiện định hướng chính trị
của Đảng…
Trong giai đoạn vừa qua Đảng đã sử dụng tốt phương thức giáo dục
chính trị tư tưởng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã
hội. Điều đó đã nâng cao trình độ lý luận chính trị cho hầu hết công chức, viên
chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo nên sự đồng
thuận về tư tưởng và hành động giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Việc xác lập và củng cố hệ tư tưởng mác – xít trong xã hội
nước ta của Đảng là một biểu hiện rõ nét về vai trò của một đảng cầm quyền.
Điều này không những là phương thức để Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội mà còn góp phần củng cố và tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội ở
nước ta hiện nay.
Thứ ba: Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tổ chức, cán bộ
Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác tổ chức, cán bộ là việc Đảng đưa
đảng viên, tổ chức của Đảng vào trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội để biến quá trình thực hiện nghĩa vụ của công chức,
viên chức Nhà nước và biến quá trình thực hiện kỷ luật của cán bộ, hội viên Mặt
trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cũng là thực hiện nhiệm vụ của Đảng.
Đảng lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội qua
công tác tổ chức - cán bộ là thông qua những người của Đảng, tổ chức của Đảng
nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội mà
Đảng thực hiện được sự lãnh đạo đối 2 đối tượng này. Đây là một phương thức
lãnh đạo quan trọng của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội. Vì phương thức này mang tính chất trực tiếp. Đối với lực lượng vũ
trang thì sự lãnh đạo của Đảng là: Trực tiếp, toàn diện và tuyệt đối.
Đảng đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình trở thành
những nhà chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, hoạt động
đoàn thể rồi đưa họ ra ứng cử làm đại biểu và các cương vị lãnh đạo của cơ quan
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội được tổ chức theo chế độ
bầu. Đó là việc đưa cán bộ, đảng viên của mình tranh cử đại biểu và các cương
vị lãnh đạo của QH, HĐND các cấp; Chính phủ, UBND các cấp.

12


Đảng giới thiệu những cán bộ, đảng viên ưu tú để cơ quan Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tuyển dụng, bổ nhiệm trở thành công
chức, viên chức của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội hoặc
người giữ chức vụ quản lý, lãnh đạo trong bộ máy Nhà nước (đối với những cơ
quan Nhà nước được tổ chức theo chế độ bổ nhiệm) và các Nhà nước, Mặt trận

và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đồng thời, Đảng giác ngộ, bồi dưỡng, kết nạp vào đội ngũ của Đảng
những nhà chuyên môn giỏi trong các cơ quan Nhà nước, Nhà nước, Mặt trận và
các đoàn thể chính trị - xã hội; cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động
phong trào của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đảng xây dựng, củng cố tổ chức các cấp của Đảng. Đặc biệt là xây dựng
và củng cố các tổ chức Đảng trong cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội, nhằm lãnh đạo đảng viên là công chức, viên chức, lãnh đạo cơ
quan Nhà nước và cán bộ hội viên của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
Thứ tư: Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác kiểm tra, giám sát
Đảng lãnh đạo HTCT bằng công tác kiểm tra là từ việc kiểm tra của
Đảng, phát hiện và giải quyết những ưu điểm và hạn chế của Đảng nhằm nâng
cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng; từ đó củng cố, tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thông qua hoạt động kiểm tra Đảng đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức
Đảng nói chung; đối với cán bộ, đảng viên và tổ chức Đảng ở trong cơ quan Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nói riêng mà Đảng đã phát hiện
và xử lý kịp thời những sai phạm; đồng thời phát hiện và phát huy những ưu
điểm trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Qua đó, nâng cao năng lực và sức
chiến đấu của Đảng, góp phần to lớn vào công cuộc củng cố và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Đánh giá về vai trò, ý nghĩa của công tác kiểm tra trong sự lãnh đạo của đảng
mác – xít đối với nhà nước và xã hội, Lênin đã từng khái quát: Lãnh đạo mà
không kiểm tra thì coi như không lãnh đạo. Do vậy, công tác kiểm tra là một
phương thức chủ đạo mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Nhà nước (nhất là đối với
cơ quan Nhà nước hoạt động theo chế độ thủ trưởng), Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội.
Từ việc kiểm tra của Đảng, đặc biệt là kiểm tra đối với cán bộ, đảng viên
và tổ chức Đảng nằm trong các cơ quan Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể

chính trị - xã hội, phát hiện những cán bộ, đảng viên, tổ chức Đảng có sai phạm
kịp thời sửa sai hơn nữa nhằm phát hiện đảng viên và tổ chức Đảng có những
sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình để tổng kết nhân rộng, từ đó
làm cho Đảng nắm được, lãnh đạo được Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Đồng thời, làm cho Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh,
đáp ứng vai trò lãnh đạo đối với HTCT nói riêng và đối với xã hội nói chung.
Qua công tác kiểm tra, giám sát sẽ nâng cao uy tín, năng lực và sức chiến đấu
13


của Đảng; đúc rút được những bài học kinh nghiệm quý báu về sự lãnh đạo đối
với hoạt động của công chức, viên chức và các cơ quan của Nhà nước, Mặt trận
và các đoàn thể chính trị - xã hội. Từ đó, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thứ năm: Đảng lãnh đạo HTCT bằng quy chế phối hợp công tác
Đảng lãnh đạo HTCT bằng quy chế phối hợp công tác là việc cơ quan
lãnh đạo của Đảng, cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước và Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội ở những cấp tương đương thống nhất, quy định bằng
văn bản về chế độ làm việc giữa các bên, để Nhà nước, Mặt trận và các đoàn
thể chính trị - xã hội thực hiện tốt đường lối của cơ quan lãnh đạo Đảng cấp
trên và của cấp tương đương.
- Cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước,
cơ quan lãnh đạo của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội cùng cấp họp và
thống nhất về chế độ phối hợp công tác giữa hai bên trong việc thực hiện nhiệm
vụ chính trị; trong việc kiểm tra việc thực hiện đường lối của Đảng, trong vấn đề
báo cáo việc thực hiện đường lối của Đảng.
- Cơ sở lý luận của phương thức này là NQTƯ 3 Khóa 7. ‘‘Cần có quy
chế về phương thức lãnh đạo, quan hệ công tác giữa Đảng và các cơ quan Nhà
nước’’. Ở đây chúng ta suy rộng ra Đảng có quy chế phối hợp công tác không
những đối với Nhà nước mà còn cần có quy chế phối hợp công tác đối với Mặt

trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
Thứ sáu: Đảng lãnh đạo HTCT bằng phát huy dân chủ
Đảng lãnh đạo HTCT bằng phát huy dân chủ là việc Đảng quán triệt,
mở rộng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình thực hiện sự lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đồng
thời vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ trong việc tham gia hoạt động
của các Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Trong hoạt động nội bộ của Đảng, khi thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì nguyên
tắc tập trung dân chủ được quán triệt và thực hiện một cách đầy đủ, nghiêm túc
và triệt để. Tức là khi đứng trước một vấn đề thể hiện sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội thì Đảng họp bàn một
cách dân chủ, sau khi tập thể bàn bạc, thảo luận thống nhất và biểu quyết (vấn
đề đã được quyết định theo đa số) thì quyết nghị đó có giá trị bắt buộc thi hành
trong công tác lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
chính trị - xã hội. Điều này thể hiện sự phát huy dân chủ trong Đảng đối với việc
lãnh đạo HTCT.
- Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận và các
đoàn thể chính trị - xã hội có sự tác động biện chứng:
- Đảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân:
Có thể nói phương thức phát huy dân chủ là một phương thức cực kỳ
tiến bộ trong việc Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể
14


chính trị - xã hội, thể hiện một cách độc đáo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Qua
phương thức này đã làm cho hiệu quả hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng lên rất nhiều. Vì nó là sự
tác động biện chứng giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, để phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của

Đảng đối với HTCT, cần kết hợp một cách nhuần nhuyễn và sáng tạo 6
phương thức trên. Đồng thời, không ngừng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn nhằm hoàn thiện và sáng tạo các phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với HTCT.
* Liên hệ thực tiễn cơ sở
Phương thức lãnh đạo của cấp ủy đã khắc phục một bước tình trạng bao
biện làm thay công việc của chính quyền, hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo.
Nhiều tỉnh ủy, thành ủy và đảng ủy trực thuộc Trung ương đã tập trung chỉ đạo
có hiệu quả việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; quan tâm
củng cố các tổ chức cơ sở đảng yếu kém; kịp thời biểu dương, khen thưởng
những đơn vị trong sạch, vững mạnh tiêu biểu và đảng viên xuất sắc. Việc đánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hàng năm đã đi vào nền nếp.
Các cấp ủy đảng đã thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp của các đoàn thể và đại
diện nhân dân ở nơi cư trú. Việc thực hiện thí điểm nhất thể hoá chức danh bí
thư cấp ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân ở nhiều địa phương đang phát huy
hiệu quả.
------------------------

15


Câu 6
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
hiện nay. Liên hệ thực tiễn.
------------------------* Nội dung
- Lãnh đạo, định hướng hoạt động lập hiến, lập pháp
Trước hết, cần phải khẳng định rằng, đường lối chính sách của Đảng thể
hiện trong các nghị quyết, quyết định của Đảng là nguồn của pháp luật nước ta.
Do đó, đường lối chính sách của Đảng là định hướng nội dung và là cơ sở chính
trị của pháp luật. Pháp luật là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng

thành các quy tắc có tính bắt buộc chung.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đường lối không thể chế hoá thành
pháp luật thì sự lãnh đạo không trở thành sức mạnh vật chất, sức mạnh có tính
bắt buộc chung đối với xã hội. Như vậy, Đảng không thể lãnh đạo được đối với
Nhà nước và xã hội. Điều đó cho thấy rằng, nếu chủ trương, đường lối của Đảng
càng hoàn thiện, càng cụ thể, minh bạch, phù hợp với thực tiễn khách quan của
đất nước thì việc thể chế hoá thành pháp luật là đúng đắn, càng có khả năng điều
chỉnh các quan hệ xã hội, do vậy, sự lãnh đạo của Đảng càng được tăng cường.
Trên cơ sở các nội dung thể hiện đường lối của Đảng trong từng thời kỳ,
Quốc hội với chức năng lập hiến và lập pháp của mình thể chế hóa thành các
văn bản quy phạm pháp luật tương ứng.
Sự lãnh đạo mang tính định hướng của Đảng đối với hoạt động lập pháp
trước hết là sự chỉ đạo trong việc xây dựng kế hoạch, chương trình lập pháp.
Cùng với điều đó, nghị quyết của Đảng cần định hướng một số nội dung thuộc
về quan điểm như chính sách về đất đai, về kinh tế thị trường nhiều thành phần
định hướng xã hội chủ nghĩa, về cải cách tư pháp xây dựng nhà nước pháp
quyền…
- Lãnh đạo việc xây dựng tổ chức và đội ngũ cán bộ cho công tác lập
pháp
Đây là một nội dung lãnh đạo quan trọng để nâng cao chất lượng của
hoạt động lập pháp. Hoạt động lập pháp do nhiều người, nhiều chủ thể khác
nhau tham gia. Sản phẩm của nó là sự kết tinh trí tuệ của nhiều cơ quan, tổ chức
và cá nhân. Vì thế lãnh đạo công tác tổ chức và nhân sự là một nội dung quan
trọng về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Cần coi trọng nội dung lãnh
đạo này để sớm hình thành tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi
phục vụ hoạt động lập pháp đáp ứng đòi hỏi tăng nhanh về số lượng, cao về chất
lượng các dự án luật và pháp lệnh phục vụ nhiệm vụ phát triển, hội nhập và xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo việc ban hành các đạo luật và pháp lệnh cụ thể
Như phần đầu của mục này đã trình bày, Đảng thông qua các nghị quyết

của mình để lãnh đạo, định hướng hoạt động lập pháp về nội dung và chương
trình kế hoạch. Lãnh đạo bằng cách đó, mang tính chỉ đạo chung. Cùng với điều
16


đó, Đảng còn lãnh đạo một cách cụ thể hơn bằng định hướng nội dung đối với
từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với từng đạo luật, pháp lệnh cụ thể là cần
thiết, tuy nhiên, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng luật và pháp lệnh đồng thời
không sa vào công việc cụ thể của Nhà nước cũng cần phải đổi mới nội dung
lãnh đạo của Đảng theo hướng đề cao trách nhiệm của Đảng đoàn Quốc hội và
Ban cán sự Đảng Chính phủ, của cá nhân và cơ quan có thẩm quyền trong các
giai đoạn của quy trình lập pháp.
- Lãnh đạo Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước
Quốc hội theo Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật Tổ chức Quốc hội
hiện hành có nhiệm vụ và quyền hạn: quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, chính sách tài chính tiền tệ quốc gia, quyết định chính sách dân tộc, tôn
giáo, quyết định tổ chức, nhân sự bộ máy Nhà nước…
Để các quyết định lãnh đạo của mình được thực hiện, phù hợp với ý chí
và nguyện vọng của nhân dân thông qua việc ủy thác cho các Đại biểu Quốc hội
cần tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng sao cho ý Đảng lòng dân
thống nhất là một theo một quy trình dân chủ, cởi mở, minh bạch, không gò bó,
áp đặt, lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau.
- Lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát tối cao toàn bộ
hoạt động của Nhà nước
Nội dung cơ bản của lãnh đạo Quốc hội thực hiện chức năng giám sát đó
là lãnh đạo, chỉ đạo việc khắc phục những thiếu sót của quản lý nhà nước do
giám sát phát hiện ra. Giám sát tối cao của Quốc hội chủ yếu tập trung giám sát
ở tầng cao nhất của bộ máy nhà nước, nhất là giám sát Chính phủ. Vì thế, giám
sát tối cao muốn nâng cao hiệu lực và hiệu quả, thì hậu quả pháp lý của nó phải

là các nghị quyết trong đó xác định trách nhiệm của tổ chức và cá nhân là một
nội dung quan trọng. Những cá nhân thuộc đối tượng giám sát tối cao của Quốc
hội là những người nắm giữ những trọng trách cao nhất trong bộ máy nhà nước.
Vì thế, sự lãnh đạo của Đảng trong việc xác định trách nhiệm cá nhân - hậu quả
pháp lý của giám sát tối cao phải được xem là một nội dung quan trọng trong sự
lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) đã mở rộng
thẩm quyền cho Quốc hội trong việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, thì sự lãnh đạo của Đảng cũng phải được mở rộng
để Quốc hội có điều kiện thực hiện thẩm quyền này.
* Phương thức
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội là cách thức, quy trình,
phương pháp mà Đảng sử dụng để lãnh đạo Quốc hội thực hiện những nội dung
lãnh đạo của mình.
- Đảng lãnh đạo Quốc hội bằng đường lối, quan điểm, các nghị
quyết, các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về các vấn đề hệ trọng của đất
nước.
17


Cần tiếp tục nâng cao chất lượng của các nghị quyết, quyết định, chỉ thị
của Đảng. Các nghị quyết hay quyết định càng đi sâu vào từng lĩnh vực của đời
sống xã hội, càng ổn định lâu dài, càng rõ ràng, minh bạch thì Quốc hội càng
chuyển tải đầy đủ, chính xác trong quá trình thể chế hoá Hiến pháp, luật và pháp
lệnh.
- Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua Đảng đoàn Quốc hội, các Đảng
viên là Uỷ viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Đại biểu Quốc hội.
Trong điều kiện đổi mới hiện nay, để ý Đảng và lòng dân là một, việc
tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng của phương thức lãnh đạo này đòi hỏi
các quyết định lãnh đạo của Đảng phải mềm dẻo, linh hoạt; tránh áp đặt cứng
nhắc. Đặc biệt trong việc lãnh đạo về tổ chức nhân sự, Đảng phải cung cấp đầy

đủ thông tin để Quốc hội quyết định một cách thực chất; tránh cung cấp thông
tin một chiều, mang ý nghĩa chính trị chung chung và xem nhẹ các thông tin về
kinh tế, xã hội. Đồng thời không ấn định một chiều chỉ đơn điệu một phương án,
để từ đó thông qua Đảng đoàn Quốc hội thuyết phục đại biểu thông qua một
phương án đó. Làm như thế sẽ dẫn Quốc hội đến hoạt động hình thức, thụ động,
không thể hiện được đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
- Đảng lãnh đạo Quốc hội bằng phương thức kiểm tra, giám sát các
hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Đây cũng là phương thức lãnh đạo có tính truyền thống nhưng thực ra
hiệu lực và hiệu quả còn hạn chế. Vì thế, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra,
giám sát một cách hữu hiệu. Cơ chế đó về phương diện Nhà nước, chưa có cơ
quan tổ chức nào có thẩm quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc hội và
các cơ quan của Quốc hội. Nên chăng, cần thành lập Toà án Hiến pháp để thông
qua đó Đảng thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội và tăng cường giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc
các cấp.
- Đảng lãnh đạo Quốc hội thông qua cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm đối
với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định mới của
Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội. Đây là phương thức lãnh đạo mới cần
được Trung ương và Bộ Chính trị sử dụng để góp phần nâng cao trách nhiệm và
năng lực của những người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Bằng phương
thức này mà vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng cao, nhân dân ngày
càng tin tưởng vào các cơ quan nhà nước. Không nên quá thận trọng hoặc cường
điệu việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các bộ trưởng. Làm tốt phương thức lãnh
đạo mới này chẳng những phát huy được vai trò của dân chủ đại diện mà còn là
phương thức để Đảng xem xét đánh giá, sử dụng đảng viên của mình.
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về công tác đối với Quốc hội
cần được xem là các định hướng quan trọng nhất để Đảng đoàn Quốc hội chỉ
đạo việc tổ chức thực hiện và tạo điều kiện để Quốc hội chủ động hơn nữa.


18


Sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội chủ yếu thông qua nghị quyết,
quyết định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị bằng các nội dung,
định hướng với các căn cứ khoa học và thực tiễn xác thực, thật sự “tâm phục,
khẩu phục” thì ý Đảng, lòng dân mới là một trong việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
* Liên hệ thực tiễn.
Trong thời gian qua, Quốc hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có
nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ
sung. Hoạt động giám sát đã tập trung vào những vấn đề bức xúc, quan trọng
nhất của đất nước. Việc thảo luận, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, dự toán ngân sách nhà nước, các dự án, công trình trọng điểm quốc gia có
chất lượng và thực chất hơn. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc,
các uỷ ban của Quốc hội có nhiều cải tiến nội dung, phương pháp công tác; đề
cao trách nhiệm của đại biểu Quốc hội.
Bên cạnh đó, tổ chức và hoạt động của Nhà nước…còn một số khâu
chậm đổi mới. Quốc hội còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giám sát.
Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém Tình trạng
nhũng nhiễu cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận công chức, nhất là ở
cơ quan trực tiếp giải quyết công việc của dân và doanh nghiệp chậm được khắc
phục. Mô hình tổ chức chính quyền địa phương, nhất là tổ chức HĐND, còn
những điểm bất hợp lý. Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu…
-------------------------------

19


Câu 7

Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Chính phủ hiện
nay. Liên hệ thực tiễn.
---------------------------* Nội dung:
- Đảng lãnh đạo Chính phủ thi hành Hiếp pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết
định của Chủ tịch nước;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ xây dựng chính sách trình Quốc hội, Ủy ban
thường vụ Quốc hội quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền; trình dự án
luật, dự án ngân sách nhà nước và các dự án khác trước Quốc hội; trình dự án
lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc hội;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ thống nhất quản lý về kinh tế, văn hóa, xã
hội, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối
ngoại, quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; thi hành lệnh động
viên hoặc động viên cục bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp
cần thiết để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của Nhân dân;
- Đảng lãnh đạo Chính phủ trình Quốc hội quyết định thành lập, bãi bỏ
bộ, cơ quan ngang bộ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành
chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính – kinh tế đặc
biệt; trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia,
điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Đảng lãnh đạo Chính phủ thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia;
thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan
nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác
của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ
quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn do luật định.
- Đảng lãnh đạo Chính phủ bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước và xã
hội, quyền con người, quyền công dân; bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.

- Đảng lãnh đạo Chính phủ tổ chức đàm phàn, ký điều ước quốc tế nhân
dan Nhà nước theo ủy quyền của Chủ tịch nước, quyết định việc ký gia nhập,
phê duyệt hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế nhân danh Chính phủ, trừ
điều ước Quốc tế trình Quốc hội phê chuẩn quy định tại khoản 14 Điều 70 của
Hiến pháp 2013; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính dáng của tổ chức và
công dân Việt Nam ở nước ngoài.
- Đảng lãnh đạo Chính phủ Phối hợp với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội trong việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.

20


* Phương thức lãnh đạo
- Đảng lãnh đạo Chính phủ bằng đường lối, quan ddierm, các nghị quyết,
các quyết định, chỉ thị, các nguyên tắc về quản lý, điều hành của Chính phủ.
- Đảng lãnh đạo Chính phủ bằng công tác tổ chức, cán bộ.
- Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban cán sự Đảng của Chính phủ,
các Đảng là thành viên Chính phủ, các tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ
quan của Chính phủ.
- Đảng lãnh đạo bằng phương thức kiểm tra, giám sát các hoạt động của
Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ.
* Liên hệ thực tiễn
Cơ cấu tổ chức, bộ máy của Chính phủ được sắp xếp, điều chỉnh, giảm
đầu mối theo hướng tổ chức các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực . Quản lý, điều
hành của Chính phủ, các bộ năng động, tập trung nhiều hơn vào quản lý vĩ mô
và giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được
chú trọng, đã rà soát, bước đầu tổng hợp thành bộ thủ tục hành chính thống nhất
và công bố công khai. Việc thực hiện thí điểm đổi mới về tổ chức bộ máy chính
quyền địa phương (không tổ chức hội đồng nhân dân quận, huyện, phường)

được tập trung chỉ đạo để rút kinh nghiệm.
Tuy nhiên, năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực
thi pháp luật còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên
chế cán bộ, công chức tăng thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa
đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải cách hành chính
chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và công
dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh
vực yếu; phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã
hội không nghiêm. Cải cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra,
giam giữ, truy tố, xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng,
án bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí
chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm
trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây
bức xúc xã hội.
------------------------------

21


Câu 8
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
MTTQVN hiện nay. Liên hệ thực tiễn.
----------------------------Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Bổ sung,
phát triển năm 2011) được Đại hội XI của Đảng thông qua đã chỉ rõ: “Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội của các cá nhân tiêu biểu
trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định
cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính
trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là

thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận”
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân thực hiện việc
hiệp thương và phối hợp thống nhất hành động giữa các thành viên trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Về chức năng, MTTQVN là tổ chức đại diện cho lợi ích hợp pháp và
chính đáng của các tầng lớp nhân dân; là công cụ tập hợp, xây dựng, củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng; thực hiện chức
năng giám sát và phản biện xã hội đối với chủ trương đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước.
MTTQVN có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân
tộc; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực
hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước; giám sát và phản biện xã hội; tâp hợp, tổng hợp ý kiến, kiến nghị của nhân
dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; Tuyên truyền, vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; thực hiện và mở rộng hoạt động đối ngoại Nhân dân.
Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo bằng cách đề ra đường lối, chủ trương,
chính sách đúng đắn, xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan, đáp
ứng yêu cầu nguyện vọng và lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân.
Đảng lãnh đạo MTTQVN bằng cách:
Thứ nhất; Đảng định hướng nhiệm vụ chính trị cho MTTQVN các cấp.
Nội dung này được thể hiện thông qua việc lãnh đạo MTTQVN các cấp
tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị
và tinh thần trong nhân dân. Tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền
làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi
hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử và cán bộ công chức nhà nước. Tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân
để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. Tham gia xây dựng và củng cố

chính quyền nhân dân. Cùng nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính
22


đáng của Nhân dân. Tham gia phát triển tình hữu nghị hợp tác giữa Nhân dân
Việt Nam và nhân dân các nước. Hướng dẫn và tổ chức tốt các cuộc vận động và
phong trào thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo MTTQVN xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức,
cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Thường xuyên củng cố và kiện toàn
cơ quan chuyên trách công tác Mặt trận các cấp; chăm lo công tác đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác Mặt trận; quan tâm đặc biệt đến đội ngũ cán
bộ Mặt trận cấp cơ sở, đặc biệt là vùng khó khăn.
Về phương thức, Đảng lãnh đạo MTTQVN bằng các chủ trương, quyết
định, định hướng chính trị cho hoạt động của Mặt trận; lãnh đạo bằng công tác
tổ chức, cán bộ Mặt trận; thông qua đảng đoàn, các tổ chức đảng và đảng viên
hoạt động trong Mặt trận; bằng công tác tuyên truyền giáo dục cán bộ, đảng viên
và nhân dân tham gia các hoạt động của Mặt trận; bằng công tác kiểm tra, giám
sát hoạt động của Mặt trận và thông qua việc lãnh đạo Mặt trận xây dựng và
thực hiện Quy chế phối hợp hoạt động với các cơ quan Nhà nước ở các cấp.
Hiện nay, tại (địa phương………), Đảng đã thực hiện đúng và đảm bảo
các nội dung lãnh đạo của mình đối với Mặt trận TQVN địa phương. Áp dụng
các phương thức lãnh đạo linh hoạt, sáng tạo phù hợp với thực tế địa phương.
Cấp ủy Đảng đã thực hiện lãnh đạo toàn diện đối với công tác tổ chức và
cán bộ làm công tác Mặt trận ở địa phương, lựa chọn những người có năng lực
và phẩm chất để bồi dưỡng, giới thiệu để Mặt trận tổ chức hiệp thương và các vị
trí quan trọng của tổ chức Mặt trận địa phương. Ngoài ra, Đảng thường xuyên
quan tâm, đề ra các chủ trương, quyết định phù hợp nhằm định hướng cho hoạt
động của Mặt trận và các tổ chức Chính trị - xã hội địa phương hoạt động đúng
theo quy định và nâng cao hiệu quả hoạt động, hướng tới mục tiêu xây dựng
khối đại đoàn kết toàn dân, rộng rãi trong mọi tầng lớp nhân dân.

Thông qua lực lượng đảng viên đang hoạt động trong tổ chức của Mặt
trận, Cấp ủy đảng luôn kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng chính trị các hoạt
động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội khác, qua đó từng bước nâng
cao hiệu quả hoạt động, uy tín của Mặt trận trong nhân dân, tuyên truyền, vận
động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước.
Ngoài ra, Cấp ủy Đảng địa phương còn thường xuyên kiểm tra, giám sát
hoạt động của Mặt trận theo từng chuyên đề, chủ đề nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của đảng đối với công tác Mặt trận và hoạt động của Mặt trận theo đúng quy
định.
------------------------------

23


Câu 9
Phân tích nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn thể
chính trị - xã hội hiện nay. Liên hệ thực tiễn.
---------------------Các Đoàn thể Chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị ở nước ta gồm
có: Công đoàn Việt Nam, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHPN Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam và Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Các đoàn thể chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị của nước ta có
vai trò là đại diện cho quyền và lơi ích hợp pháp của đoàn viên, hội viên; Tham
gia xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước, phát huy vai trò giám sát và phản
biện xã hội; Ngoài ra còn có chức năng vận động, hướng dẫn và tổ chức các
phong trào thi đua yêu nước trong các tầng lớp nhân dân.
Đảng CSVN lãnh đạo trực tiếp và toàn diện đối với hệ thống chính trị.
Lãnh đạo trực tiếp có nghĩa là tổ chức Đảng ở cấp nào thì trực tiếp lãnh
đạo các thành viên hệ thống chính trị ở cấp đó.
Lãnh đạo toàn diện có nghĩa là lãnh đạo về các mặt như tư tưởng chính

trị, tổ chức, đạo đức và hành động của các tổ chức chính trị - xã hội.
Trong vai trò lãnh đạo các đoàn thể chính trị - xã hội, Đảng CSVN thể
hiện vai trò lãnh đạo thông qua các nội dung cơ bản sau:
Một là, Đảng lãnh đạo về tư tưởng, chính trị đối với các đoàn thể CTXH.
Đảng tuyên truyền, giáo dục, xây dựng và củng cố hệ tư tưởng chủ nghĩa mác –
lenin và tư tưởng HCM trong toàn hệ thống CT và đời sống xã hội, trong các
hoạt động của các đoàn thể CTXH. Đảng lãnh đạo về chính trị là lãnh đạo về
nhận thức và thực hiện các quan điểm, đường lối của Đảng.
Hai là, đảng lãnh đạo các đoàn thể CTXH thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình theo quy định của pháp luật.
Ba là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức cán bộ và quản lý đội
ngũ cán bộ, công chức của các đoàn thể CTXH.
Về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các đoàn thể CTXH, phương
thức lãnh đạo được hiểu là tổng hợp các biện pháp, cách thức lãnh đạo của Đảng
tác động lên hệ thống CT nhằm thực hiện mục tiêu của Đảng đã đề ra. Nếu
phương thức lãnh đạo khoa học và phù hợp thì sẽ thúc đẩy hoạt động thực tiễn
đạt kết quả cao và ngược lại.
Trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, nội dung và phương thức là 2 yếu tố
cơ bản cấu thành hoạt động lãnh đạo, bởi vậy cả 2 yếu tố này đều quan trọng và
mang tính quyết định. Nội dung là yếu tố tiền đề quy định về việ cluwaj chọn
phương thức thích hợp trong khi phương thức là điều kiện để hiện thực hóa nội
dung.
Trong lịch sử lãnh đạo hệ thống Ct và các Đoàn thể CTXH đến nay,
Đảng đã thực hiện phương thức lãnh đạo đa dạng và linh hoạt thùy theo đối
tượng, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể có thể. Ta có thể rút ra các phương thức
lãnh đạo cơ bản sau
24


Thứ nhất, đảng lãnh đạo các đoàn thể CTXH bằng cương lĩnh chính trị,

các Nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn…. từ đó các tổ đoàn thể CTXH sẽ cụ thể hóa
bằng điều lệ và những nội dung hoạt động của riêng mình.
Thứ hai, Đảng lãnh đạo bằng các tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ Đảng
viên trong các cơ quan của các Đoàn thể CTXH.
Thông qua việc này, đảng sẽ biến quá trình hiện thực hóa nghĩa vụ của
công chức, viên chức Nhà nước và biến quá trình thực hiện kỷ luật của cán bộ,
hội viên các đoàn thể CTXH thành hiện thực. Đây là phương thức lãnh đọa quan
trọng của Đảng đối với các đoàn thể CTXH. Phương thức này mang tính trực
tiếp.
Thứ ba, Đảng lãnh đạo bằng công tác tuyên truyền, vận động và thuyết
phục đội ngũ cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức – viên chức
trong HTCT để đôi ngũ này nhận thức đúng và thực hiện các quan điểm, chủ
trương của đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư, Đảng lãnh đạo các đoàn thể CTXH bằng công tác kiểm tra, giám
sát.
Đối tượng kiểm tra, giám sát của đảng là các tổ chức đảng và đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong hệ thống CT và các đoàn thể CTXH. Nội dung và cách
thức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện theo quy định của điều
lệ Đảng, quy định của BCH TW và hướng dẫn của UBKT TW>
Thứ năm, Đảng lãnh đạo bằng vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ
cán bộ, đảng viên trong hệ thống CT; đặc biệt là vai trò gương mẫu của người
đứng đầu các tổ chức đảng trong đoàn thể, người đứng đầu các đoàn thể CTXH.
Thứ sáu, đảng lãnh đạo bằng việc tôn trọng tính độc lập và phát huy vai
trò dân chủ sáng tạo của các đoàn thể CTXH.
Đảng tạo điều kiện để các đoàn thể CTXH mở rộng nguyên tắc tập trung
dân chủ trong quá trình thực hiện sự lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước và cá
tổ chức CTXH, đồng thời vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ trong việc
tham gia hoạt động của các đoàn thể CTXH.
Liên hệ thực tiễn địa phương:
- Liên hệ việc lãnh đạo của đảng đối với thực hiện các nội dung, phương

thức lãnh đạo đối với các đoàn thể CTXH ở địa phương.
- Việc áp dụng các nội dung, vận dụng linh hoạt, phối hợp các phương
thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với phong trào, hoạt động của các đoàn thể
địa phương.
- Vai trò định hướng, hướng dẫn, nòng cốt trong tổ chức và công tác cán
bộ của đảng đối với các đoàn thể CTXH địa phương.
- Kết luận về hiệu quả của công tác lãnh đạo của đảng. Ưu – khuyết
điểm, hạn chế.
---------------------------

25


×