Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng hiện nay (nghiên cứu trường hợp Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 157 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM LAN HƯƠNG

ĐỜI SỐNG DÂN GIAN
TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO TÀNG HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM LAN HƯƠNG

ĐỜI SỐNG DÂN GIAN
TRONG HOẠT ĐỘNG BẢO TÀNG HIỆN NAY
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP
BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)
Ngành: Văn hóa dân gian
Mã số: 9229040

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. GS.TS. LÊ HỒNG LÝ
2. PGS.TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM

HÀ NỘI, 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa từng
để bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận án đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận án này đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 9 tháng 9 năm 2019
Tác giả luận án

Phạm Lan Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN .......................................................................................................... 14
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................ 14
1.1.1. Các nghiên cứu về văn hóa dân gian và đời sống dân gian............ 14
1.1.2. Các nghiên cứu về đời sống dân gian – bảo tàng và cộng đồng..... 20
1.2. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 24
1.2.1. Tính chính trị của bảo tàng ........................................................... 24
1.2.2 Các quan điểm lý thuyết về đời sống dân gian ............................... 28
1.2.3. Các quan điểm, lý thuyết về bảo tàng ........................................... 38

1.2.4. Cách tiếp cận ................................................................................ 51
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................... 59
Chương 2: BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH: QUÁ TRÌNH
CHUYỂN ĐỔI ĐƯA ĐỜI SỐNG DÂN GIAN VÀO BẢO TÀNG (QUA
TRƯNG BÀY VỀ NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG) .................. 60
2.1. Khái quát về lịch sử Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh 60
2.1.1. Khái quát về Thành phố Hồ Chí Minh .......................................... 60
2.1.2. Khái quát về lịch sử hình thành Bảo tàng Cách mạng Thành phố
Hồ Chí Minh .......................................................................................... 61
2.2. Quá trình chuyển đổi từ Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
Minh đến Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh ........................................... 62
2.2.1. Bảo tàng - sự chuyển đổi từ góc nhìn lịch sử cách mạng sang góc
nhìn lịch sử văn hóa................................................................................ 62
2.2.2. Sự chuyển đổi về chức năng, nhiệm vụ của bảo tàng .................... 65
2.2.3. Sự chuyển đổi trong trưng bày của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh65


2.2.4. Xây dựng Bảo tàng Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh tại công
viên Lịch sử Văn hoá Dân tộc (quận 9) .................................................. 67
2.3. Nghề thủ công truyền thống – Sự đổi mới trong trưng bày của Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh .................................................................... 68
2.3.1. Tư liệu, hiện vật và các sưu tập về nghề thủ công truyền thống 7069
2.3.2. Trưng bày, trình diễn và chương trình cộng đồng ..................... 7776
Tiểu kết chương 2 ................................................................................... 8483
Chương 3: CÁC CHIỀU TƯƠNG TÁC TRONG VIỆC THỂ HIỆN
ĐỜI SỐNG DÂN GIAN Ở BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
QUA TRƯNG BÀY NGHỀ THỦ CÔNG TRUYỀN THỐNG............. 8685
3.1. Tương tác giữa truyền thống đã định hình và thực hành ở thời
điểm hiện tại ........................................................................................... 8685
3.2. Tương tác giữa chủ thể văn hóa và Bảo tàng ................................. 8988

3.3. Tương tác giữa cán bộ bảo tàng với khách tham quan ................. 9392
Tiểu kết chương 3 ............................................................................... 114113
Chương 4: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ THỰC TẾ VIỆC THỂ
HIỆN ĐỜI SỐNG DÂN GIAN Ở BẢO TÀNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH .................................................................................................. 116115
4.1. Nhận thức và thực hành về bảo tàng trong bối cảnh phát triển xã
hội ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay – sự chuyển động của bảo tàng116115
4.1.1. Quan điểm nhận thức về đổi mới bảo tàng trong bối cảnh hội
nhập quốc tế và hoạt động du lịch gắn với di sản............................ 116115
4.1.2. Vai trò của Bảo tàng đối với cộng đồng và các chủ thể văn hóa120119
4.2. Những vấn đề đương đại trong hoạt động bảo tàng ở Việt Nam
hiện nay ............................................................................................... 125124
4.2.1. Khai thác giá trị văn hóa dân gian trong bảo tàng gắn với bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa ................................................... 125124


4.2.2. Nhận thức về chiến lược phát triển - bảo tàng không chỉ lưu giữ
quá khứ mà còn phản ánh hiện thực cuộc sống ............................... 127126
4.2.3. Gắn kết bảo tàng với cộng đồng ........................................... 130129
4.2.4. Xu hướng bảo tàng thông minh và vấn đề cạnh tranh giữa các
bảo tàng trong bối cảnh hiện nay .................................................... 132131
4.2.5. Nhận thức về nghiên cứu và thực hành bảo tàng ................... 134133
Tiểu kết chương 4 ............................................................................... 138137
KẾT LUẬN ......................................................................................... 139138
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ .......................... 143142
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................. 144143


MHI LI
1. Lý do ch thức tro

1.1. Bảo tàng ngày nay không những là nơi lưu giữ, truyền bá các giá trị
văn hóa, lịch sử; quan trọng hơn, bảo tàng là cầu nối công chúng với quá khứ
và tương lai, là cầu nối giá trị lịch sử - văn hóa - khoa học giữa dân tộc này
với dân tộc khác, cộng đồng này với cộng đồng khác. Thực tế đã chứng minh,
khách tham quan – công chúng đến với bảo tàng ngày càng mở rộng.
Mốc đánh dấu sự chuyển biến của Bảo tàng ở Việt Nam từ sau thời kỳ đổi
mới 1986 đã có nhiều biến đổi. Nhiều ngôi nhà bảo tàng được xây dựng mới,
một số bảo tàng chuẩn bị ra đời. Các bảo tàng đang hoạt động được tăng
cường đầu tư; đổi mới trưng bày và các hoạt động nghiệp vụ với mong muốn
đáp ứng nhu cầu của khách tham quan, gắn bảo tàng với cộng đồng. Theo tác
giả Đặng Văn Bài, “các bảo tàng để dành cho con người và do đó, tương lai
của bảo tàng phụ thuộc vào việc tự nâng cấp, tự phát triển để đáp ứng nhu cầu
đã được thị trường chỉ rõ”1. Nhiều bảo tàng tự thân vận động, đổi mới nội
dung và hình thức hoạt động của mình. Nói cách khác, bảo tàng là đối tượng
của sự thay đổi xã hội mang tính tích cực. Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
là một minh chứng cho sự đổi mới này.
Ý tưởng và đề án nâng cấp Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh
thành Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh có từ những năm đầu thập niên 90
của thế kỷ XX. Quá trình chuyển đổi này không hoàn toàn được sự đồng
thuận của các bên liên quan mà trải qua quá trình tranh luận, mâu thuẫn,
thương thảo và thỏa hiệp. Có thể nói, mỗi bước thăng trầm của Bảo tàng đều
gắn liền với bối cảnh xã hội. Bảo tàng không chỉ đơn thuần là một thiết chế
văn hoá mà còn là không gian truyền tải các vấn đề xã hội, là một bức tranh
mô phỏng tính chính trị của văn hoá. Trong bối cảnh đa dạng, phức tạp đó,
Đặng Văn Bài, Bảo tàng Nhân học trong hệ thống bảo tàng Việt Nam, Tạp chí Di sản Văn hoá số
1(14) – 2006, tr.18
1

1



bản sắc văn hoá thông qua lĩnh vực đời sống dân gian đã đóng một vai trò
không nhỏ.
1.2. Đc văn hoá thông qua lĩnh vựct ngữ nói về “toàn thể cách sống của
cộng đồng”, với mục đích ti. Đc văn hoá thông qua lĩnh vựct ngữ nói về “toàn
thể cách sống của cộng đồng”, với mục Trong 30 năm tr văn hoá thông qua
lĩnh vựct ngữ nói về “toàn thể cách sống của cộng đồng”, với mục đíchiểu
hiện văn hóa sống động mà người dân đang thực hành trong đời sống, chủ thể
văn hóa tự nói lên tiếng nói của chính mình, những giá trị văn hóa, những kỹ
năng, tri thức, các quan điểm thẩm mỹ, sự sáng tạo... đưm tr văn hoá thông
qua lĩnh vựct ngữ nói về ế hoạt động của bảo tàng ở Việt Nam có những thay
đổi nhất định, theo hướng kết hợp giữa những hoạt động bảo tàng với những
hoạt động văn hóa liên quan, thông qua trình diễn, giao lưu với chủ thể văn
hóa. B ưm tr văn hoá thông qua lĩnh vựct ngữ nói về ế ho bộ sưu tập tĩnh mà
bảo tàng còn là nơi tổ chức các chương trình sống động, hấp dẫn, đa dạng.
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, B ưm trg Bm tr
văn hB Bm tr văn hoá thông qua lĩnh vực... là nhr văn o tàng khá thành công
trong các hoàn động này.
Ởhoàn động này. công trong cácvựct ngữ nói về ế ho bộ sưu tập tĩnh mà
bảo tàng còn là nơi tổ chức các chương trình sống động, hấp dẫn, đa dạng.
Bảo tàng Dân tộc học
1.3. Đđộng này. công trong cácvựct ngữ nói về ế ho bộ sưu tập tĩnh mà
bảo tàn mạng Thành phng này. công thành Bhng này.Thành phng này. công,
xuh phng này. công trong cácvựct . Tuy nhiên, s. công trong cácvựct ngữ nói
về ế ho bộ sưu tập tĩnh mà bảo tàn mạng là nơi tổ chức các chương trình sống
động, hấp dẫn, đa dạng. B
Đ Tuy nhig cấp Bảo tàng Cách mạng Thành phig cấp Bảo tà thành Bhig
cấp Thành phig cấp Bảo tà đưành phig cấp Bảo tàng CáchThành phig cấp Bảo
tà chưa có bg cấp Bảo tàng Cách mạng t ngữ nói về ế ho bộ sưu tập tĩntoàn qu
2



bg cấp Bảo tàng Cách mạng t ngữ nói về ế ho bộ, hội nhập, Thành phập cấp
Bảo tà chành phập cấp Bảo tàng Cách mạng t ngữ nói về ế ho bộ sưu tập tĩnh
mà bảo tàn mạng là nơi tổ chức các chương trình sống động, hấp dẫn, đa
dạng. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam, ông qua
trình diễn, gih không gian văn hoá mới này của thành phố là ý tư phậđý tư
phập cấp Bảo tàng Cách
Tuy nhiên, khá nhiều ý kiến không đồng thuận cho sự chuyển đổi, yêu
cầu giữ nguyên tên gọi và nội dung của Bảo tàng, với lý do muốn lưu giữ
những truyền thống và thành quả cách mạng của Thành phố Hồ Chí Minh qua
2 cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nhằm mục đích giáo dục tinh thần yêu
nước, trân trọng công ơn của những người chiến sĩ cách mạng. Trong bối
cảnh nhiều ý kiến trái chiều, bên cạnh những nội dung về Cuộc kháng chiến
chống Thực Dân Pháp, Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và Thiên nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh, nghề thủ công truyền thống ở Thành phố Hồ Chí
Minh là nội dung về đời sống dân gian đầu tiên được lựa chọn trưng bày.
1.4. Là một giảng viên giảng dạy về di sản văn hoá và cũng từng là cán bộ
bảo tàng, tôi lựa chọn đề tài “Đời sống dân gian trong hoạt động bảo tàng –
Nghiên cứu trường hợp Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh”, với mục đích tiếp
cận bảo tàng dưới góc độ nghiên cứu văn hoá, ý nghĩa của các hoạt động và
nội dung trưng bày trong bảo tàng; từ những câu chuyện về trưng bày nghề
thủ công truyền thống ở Bảo tàng - phác thảo bức tranh xã hội chuyển đổi.
Nói cách khác, đề tài mong muốn cung cấp thêm một nghiên cứu trường hợp
về tính chính trị trong văn hoá, cụ thể là tính chính trị của bảo tàng, dựa trên
những khía cạnh văn hoá thông qua trưng bày đời sống dân gian.
2. Mới mục đích tiếp cận bảo tàng dưới góc độ
2.1. M mục đí
Lu1. M mụghiên cmục đích tiếp cận bảo tàng dưới góc độ nghiên cứu văn
hoá,à ngh cmục đông truyền thống để nhng digh các ý nghĩa văn hoá, bthống

3


đểchính trg, xã htrg Trên cơ sĩa vănàm rõ sn cơ sĩa văn hoá, bthốngThành ph
sĩa văn hoá, ghành ph sĩa văn hoá, bthống đ đà nhìn nh sĩa văn hoá, bthống để
gnhhìn nh sĩa văn hoá, bthống . Luìn nh sĩa tập trung vào nhìn mhìn nh sĩa
tập trung vàog để g dưệmhìn nh sĩa tập trung vàog để ảmhìn nh sĩa tập trung
vàog để g dưới góc độ nghiên cứu văn hoá, ý nghĩa của các hoạt động nhìn
nh sĩa tập trung vàog đểvihìn nh sĩa tập trung vàog để g dưới góc độộng của
Bảo tàng Thành ph sĩa tập tru nói riêng và và các bng và tập trung vàog để g
nói chung.
2.2. Nhing và
- Nh2. Nhinglh2. Nhing và tập tth2. Nhing và tập trung vàog để g dưới
góc đsang Bng NhingThành phng và tập tru đhành phng và tập trung vàog để
g ủa Bảo tàng đều gắn với những bối cảnh xã hội cụ thể.
- Phân tích m tập trung vàog để g ủa Bảo tàng đều gắn với những bối cảnh
xã hội cụ thể.động và nội dung trưng ; Phân tích các chip trung vàog để g ủa
Bảo tàng đều gắn với những bối cBảân tích
- Đánh giá vánh giátrưng bày và các horung vàog để g ủa BảoThành phy
và các horu vhành phy và các horung vàog để g ủa Bảo tàng đều gắn với
những bối cảnh xã hội cụ thể.
- Luận bàn những vấn đề lý luận và nhận thức về khai thác đời sống dân
gian trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đó, đặt ra
những vấn đề chung cho phát triển các bảo tàng trong bối cảnh giao lưu và
hội nhập quốc tế hiện nay.
3. Đđó, đặt ra những vấn đề chung cho phát t
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu của luận án là đời sống dân gian ở Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh, thông qua trưng bày các nghề thủ công truyền thống.
Nghề thủ công truyền thống được lựa chọn vì các lý do như sau:


4


- Đây là một trong 4 nội dung được Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh
chú trọng trưng bày trong quá trình chuyển đổi từ Bảo tàng Cách mạng thành
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh (20/12/1998). 4 nội dung bao gồm: Cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước,
Thiên nhiên Thành phố Hồ Chí Minh và Nghề truyền thống Thành phố Hồ
Chí Minh. Có thể nói, nghề thủ công truyền thống là sự hiện diện đầu tiên,
giới thiệu các khía cạnh khác của Thành phố Hồ Chí Minh ngoài những nội
dung về cách mạng và kháng chiến.
- Bảo tàng là không gian đặc biệt đối với các nghề thủ công truyền thống.
Nghề thủ công truyền thống là đề tài phổ biến ở các Bảo tàng khảo cứu địa
phương và các Bảo tàng thuộc loại hình lịch sử xã hội ở trong nước và trên
thế giới. Bảo tàng là nơi giới thiệu các giá trị kinh tế, xã hội, văn hóa của
nghề thủ công truyền thống. Bảo tàng là không gian để các nghề thủ công thể
hiện rõ 3 đặc điểm quan trọng: tính hỗn nguyên trong quá trình hình thành,
tính cộng sinh trong hiện thực và mối quan hệ không thể tách rời với đời
sống. Đó là lý do cho việc bảo tồn và phát huy giá trị đời sống dân gian này
được nhìn nhận rõ rệt qua các hoạt động của Bảo tàng.
Thứ nhất, trên cơ sở tư liệu hóa, sưu tầm hiện vật và cứ liệu, Bảo tàng là
nơi trưng bày, trình diễn, minh họa cho “tính hỗn nguyên” của nghề thủ công.
Ví dụ về nghề dệt truyền thống của các dân tộc. Qua các hiện vật hình ảnh,
bài viết, video,… khách tham quan có thể thấy sự đa dạng và so sánh những
khác biệt về chất liệu, trang trí hoa văn của các sản phẩm dệt. Sự khác biệt
này thể hiện bản sắc cũng như những yếu tố địa lý tự nhiên, môi trường, tư
duy thẩm mỹ của từng tộc người. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc thù, nghề
dệt của các dân tộc đều có sự tương đồng về quy trình và những kỹ thuật cơ
bản. Nói cách khác, tính hỗn nguyên ở đây chính là sự đa dạng nhưng vẫn

tuân theo những quy luật và nguyên tắc kỹ thuật chung của phương thức chế
tạo ra đồ dệt.
5


Thứ hai, là tính cộng sinh trong hiện thực thể hiện ở các nghề thủ công
truyền thống. Bên cạnh việc kế thừa những đặc trưng truyền thống vốn có, tuỳ
thuộc vào các bối cảnh và điều kiện khác nhau, các nghề thủ công luôn tiếp
thu những yếu tố văn hoá ngoại lai hoặc kết hợp với công nghệ để phù hợp
nhu cầu thực tế. Chẳng hạn, hiện nay nghề sản xuất gốm ở nhiều nơi đã có
nhiều cải tiến kỹ thuật trên nền tảng truyền thống, ứng dụng trong việc xử lý
nguyên liệu, sử dụng lò ga và một số hình thức nung gốm hiện đại. Đối với
nghề dệt, khung cửi liên tục được cải tiến, từ những con thoi và chân dận đơn
sơ cho đến dệt máy. Với công nghệ hiện đại, sản phẩm dệt phong phú hơn,
khổ vải rộng hơn, mẫu mã đẹp hơn,… Tuy nhiên, nhiều sản phẩm dệt cao cấp
như tơ tằm, đũi,… cần có sự tỉ mỉ, chăm chút, khéo léo của người thợ với
khung cửi cổ truyền chứ không thể sử dụng các máy dệt hiện đại. Như vậy,
với những mục đích khác nhau, người thợ dệt vừa hướng tới kỹ thuật hiện đại,
vừa trân trọng các giá trị truyền thống. Bằng nhiều hình thức trưng bày, Bảo
tàng là địa điểm có thể diễn giải hiệu quả nhất những điểm nhấn của sự kế
thừa cũng như những nét mới khi tiếp thu văn hoá ngoại lai và khoa học kỹ
thuật ở các nghề thủ công truyền thống.
Thứ ba là mối quan hệ không thể tách rời của nghề thủ công truyền thống
với đời sống. Nếu không có sự gắn kết này, các nghề thủ công tự thân mai
một và thất truyền. Nghề thủ công luôn gắn kết với bối cảnh chính trị, kinh tế,
văn hoá xã hội và sự phát triển khoa học kỹ thuật, “bao gồm tư duy của con
người, quan niệm về giá trị, nhu cầu của con người, có sức sống và biến đổi
mạnh mẽ” [17, tr 166]. Để bảo tồn và phát huy giá trị các nghề thủ công, bảo
tàng là nơi trình bày hiệu quả nhất sự gắn kết với đời sống cũng như ảnh
hưởng từ các chính sách, nhu cầu của con người với các nghề truyền thống.

“Ý tưởng được nhấn mạnh ở đây là để mọi người thấy mọi thứ trong bảo tàng
đều được con người làm ra và sử dụng, hoặc mang ý nghĩa quan trọng đối với
con người” [17, tr 189].
6


Thứ tư, nghề thủ công chính là cơ sở cho sự phát triển công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp – đặc thù của Thành phố Hồ Chí Minh. Công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp của thành phố năng động này đã kế thừa từ các làng nghề thủ
công và các ty thợ. Thời kỳ Pháp thuộc, quá trình cơ khí hoá và phân ngành,
từ sản xuất nhỏ lẻ và thủ công hình thành xưởng và công xưởng. Từ sau 1954,
thành phố đã hình thành các khu công nghiệp tập trung và một số nhà máy có
công nghệ hiện đại, như chế biến thực phẩm, cơ khí, dệt may…
Với các lý do trên, trong luận án này, chúng tôi giới hạn đối tượng nghiên
cứu là các nghề thủ công truyền thống trong trưng bày và hoạt động của Bảo
tàng Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Phạm vi về thời gian: luận án nghiên cứu Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh trong quá trình chuyển đổi từ Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
Minh (từ những năm 1990) đến nay. Có thể nói, đây là bước ngoặt cho sự
phát triển của Bảo tàng: từ một phạm vi nghiên cứu và trưng bày hạn hẹp
sang quy mô rộng hơn, bao quát hơn; từ giao diện của một bảo tàng chuyên
đề cách mạng chuyển sang bảo tàng tổng hợp địa phương, giới thiệu toàn
cảnh thiên nhiên - lịch sử - văn hoá - xã hội - kinh tế của thành phố lớn thứ
hai trên cả nước.
- Phạm vi về không gian: luận án nghiên cứu trường hợp tại Bảo tàng
Thành phố Hồ Chí Minh: Phòng trưng bày “Công nghiệp – Tiểu thủ công
nghiệp” với nội dung về các Nghề thủ công truyền thống. Đây là không gian
trưng bày có vị trí trung tâm của Bảo tàng.
4. Câu hng trưng bày “Công nghiệp – Tiểu thủ c

4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận án đưa ra một số câu hỏi nghiên cứu như sau:
- Quá trình đưa đời sống dân gian (lĩnh vực nghề thủ công truyền thống) vào
trong hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra như thế nào?
7


- Quá trình tương tác văn hóa giữa bảo tàng và cộng đồng thông qua trưng
bày nghề thủ công truyền thống ở Bảo tàng diễn ra như thế nào?
- Những vấn đề gì đặt ra trong quá trình đưa đời sống dân gian vào trong
hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và các bảo tàng
cùng loại nói chung?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu: Tương ứng với 3 câu hỏi nghiên cứu như
trên, luận án đưa ra 3 giả thuyết như sau:
- Quá trình chuyển đổi tên từ Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí
Minh và chuyển đổi phạm vi hoạt động, phương hướng phát triển của Bảo
tàng là một quá trình thương thảo giữa sự đồng thuận của lãnh đạo, giới
chuyên môn, xu hướng phát triển với sự phản đối của các bậc lão thành cách
mạng, không muốn mất tên Bảo tàng từ buổi đầu thành lập. Việc lựa chọn
nghề thủ công truyền thống, một lĩnh vực của đời sống dân gian đưa vào
trong hoạt động của Bảo tàng là sự lựa chọn hợp lý: thuận tiện cho việc sưu
tầm của Bảo tàng trong giai đoạn mới, đồng thời cũng là giải pháp dung hoà
của sự thay đổi tên gọi và nội dung hoạt động bảo tàng đối với các bậc tiền
bối. bên cạnh đó, đây là một quá trình chuyển đổi không chỉ về hình thức, nội
dung trưng bày của Bảo tàng, mà còn là quá trình chuyển đổi nhận thức, thay
đổi góc nhìn từ lịch sử kháng chiến sang lịch sử văn hóa của vùng đất mới Sài
Gòn – Gia Định 300 năm thành lập.
- Quá trình đưa đời sống dân gian vào trong hoạt động của bảo tàng là
một quá trình trải nghiệm với nhiều chiều tương tác: tương tác giữa truyền
thống đã định hình và thực hành ở thời điểm hiện tại; tương tác giữa chủ thể

văn hóa và Bảo tàng và tương tác giữa cán bộ bảo tàng với khách tham quan
và các chủ thể văn hóa. Sự thay đổi nội dung hoạt động dẫn đến sự thay đổi
các chiều tương tác và chính những chiều tương tác này đã chuyển tải được
nhiều thông điệp của Bảo tàng về việc thể hiện các đặc trưng về nhóm người,

8


cộng đồng sáng tạo, hình thức lưu truyền, các giá trị từ các hiện vật về nghề
thủ công truyền thống,...
- Ngày nay, trong xu thế phát triển và hội nhập quốc tế, Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí minh nói riêng và các Bảo tàng nói chung hiện đang đổi mới và
cập nhật lĩnh vực chuyên môn với thế giới. Các bảo tàng ngày nay đang
nghiêng theo xu hướng “bảo tàng không chỉ là nơi lưu giữ quá khứ mà còn là
nơi phản ánh hiện thực cuộc sống”. Đời sống dân gian là một lĩnh vực rộng,
việc khai thác đời sống dân gian ở trong hoạt động bảo tàng đó là một quá
trình nhận thức vừa trong nghiên cứu cũng như trong thực hành bảo tàng. Đây
là một quá trình vận động và biến đổi tất yếu của các bảo tàng trong bối cảnh
hiện tại và tương lai.
5. Phương pháp nghiên cu cũng như tro
 Phương pháp tổng hợp và phân tích nguồn tài liệu thứ cấp
Luận án phân tích, tổng hợp các thông tin liên quan từ các văn bản, hồ sơ
trưng bày, hồ sơ hiện vật và các kế hoạch hoạt động của Bảo tàng Thành phố
Hồ Chí Minh, đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước,
phục vụ thiết thực cho các vấn đề nghiên cứu của luận án. Tiếp cận hồ sơ,
giấy tờ của Bảo tàng theo trình tự thời gian để thấy quá trình nghiên cứu, sưu
tầm, trưng bày, giáo dục về đời sống dân gian ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí
Minh. Các hồ sơ này là các đề cương sưu tầm, đề cương trưng bày, sổ đăng
ký hiện vật, các báo cáo thường niên về hoạt động của bảo tàng. Các hồ sơ
này còn là những phản hồi của khách tham quan; những tài liệu về các mối

quan hệ, hợp tác giữa Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh với các cá nhân, sưu
tập tư nhân, cơ quan, đoàn thể…
Ưu thế mà NCS có được là số lượng các văn bản và hồ sơ rất nhiều, được
Bảo tàng lưu giữ và phân loại cẩn thận. Đối với các công văn, quyết định, Bảo
tàng sắp xếp theo thời gian. Hồ sơ hiện vật được phân loại theo chủ đề và chất
liệu hiện vật. Tuy nhiên, khó khăn ở đây là nội dung và thông tin từ các hồ sơ
9


mang lại khá rời rạc, không hiệu quả, chủ yếu là các thủ tục pháp lý cho việc
chuyển hoá của các hiện vật bảo tàng. Các văn bản của Bảo tàng chưa cho
thấy rõ lý do của việc lựa chọn các chủ đề trưng bày, sưu tầm hiện vật; mối
liên hệ giữa các hoạt động bảo tàng với bối cảnh lịch sử.
 Điền dã dân tộc học
Đây là hoạt động cần thiết và quan trọng đã được NCS thực hiện trong
nhiều năm nay. Là giảng viên giảng dạy nghiệp vụ bảo tàng của Khoa Di sản
văn hoá, Trường Đại học Văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2004,
NCS có nhiều điều kiện nghiên cứu, khảo sát tại Bảo tàng. Từ các chuyến học
tập thực tế và hướng dẫn sinh viên thực tập, NCS đã tiếp cận các khía cạnh
hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2008, trong quá trình
tổ chức khoá tập huấn Mùa hè và Thực hành Bảo tàng do Trung tâm Nghiên
cứu, Hỗ trợ và Phát triển Văn hoá A&C tổ chức, NCS đã tham gia trong việc
nghiên cứu bối cảnh, xác định mục đích – mục tiêu và xây dựng chiến lược
hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh như một nghiên cứu trường
hợp của khoá học. Với hoạt động này, NCS đã thu nhận được nhiều kiến thức
và thông tin liên quan đến đề tài luận án.
- Cụ thể trong quá trình điền dã dân tộc học NCS đã sử dụng các phương
pháp sau:
+ Phương pháp nghiên cứu định tính:
Quan sát tham dự: sử dụng phương pháp này, luận án thu thập thông tin

qua việc tham dự vào hoạt động của bảo tàng và khách tham quan. Bằng cách
nghe, nhìn và cảm nhận, luận án thu thập những thông tin hữu ích bổ sung,
kiểm chứng phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. Kết quả quan sát giúp cho
những nhận định, đánh giá trong luận án một cách khách quan, chân thực.
Phỏng vấn chuyên gia (các nhà lãnh đạo bảo tàng, các chuyên gia về
văn hóa, bảo tàng): thực hiện phương pháp này, luận án sẽ thu thập được
thông tin từ các nhà lãnh đạo, những nhà quản lý và tổ chức hoạt động của
10


bảo tàng… Thông tin thu thập được từ phương pháp này sẽ cung cấp cái nhìn
đa chiều hơn về vấn đề nghiên cứu.
Phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung (khách tham quan, cán bộ
bảo tàng và các chủ thể văn hóa) giúp luận án thu thập thông tin đa dạng từ
công chúng, nhân viên bảo tàng ở các lĩnh vực khác nhau và từ các chủ thể
văn hóa – chủ nhân của các đời sống dân gian.
+ Phương pháp nghiên cchủ nhân của cáĐiPhương pháp nghiên cchủ
nhân của các đời sống dân gian.an, cán bộ bảo tàng và các chủ thể văn hủa đề
tài khi sử dụng phương pháp định lượng nhằm lượng hoá, đo lường, phản ánh
và diễn giải các khía cạnh về cơ sở hạ tầng, nhân lực, các hoạt động thực tiễn
việc khai thác đời sống dân gian trong hoạt động của Bảo tàng từ hai phía: các
nhân viên Bảo tàng và khách tham quan.
- V Phương pháp nghiên cchủ nhân của
+ NCS tihương pháp nghiên cchủ nhân của các đời sống dân gian.an, cán
bộ bảo tàng và các chủ96 phiương
+ Chương pháp nghiên cchủ nhân của các đời sống dân gian.an, cán bộ
mang tính đáp nghiên cchủ tôi chỉ khảo sát khách tham quan tự do, áp dụng
phương pháp lấy mẫu thuận tiện và mẫu phát triển mầm để khảo sát tìm hiểu, sự
khám phá của khách tham quan và những vấn đề đang diễn ra trong thực tế.
- Phương pháp tiếp cận nghiên cứu liên ngành: Luận án nghiên cứu đề tài

dưới góc nhìn văn hóa học. Tuy nhiên, đời sống dân gian là lĩnh vực rộng, cần
có những tiếp cận liên ngành như: NCS tiếp cận nghiên cứu liên ngành Dân
tộc học, nhân học để khai thác các vấn đề về nhân học, dân tộc học trong
phạm vi hoạt động của bảo tàng; tiếp cận nghiên cứu của ngành xã hội học để
nhìn nhận các vấn đề xã hội hiện tại và các phương pháp của ngành xã hội
học áp dụng vào nghiên cứu của đề tài.
Trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập được, luận án còn sử dụng phương pháp
so sánh, phân loại, thống kê, phân tích, tổng hợp về đời sống dân gian trong các
hoạt động của Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh và một số bảo tàng khác.
11


6. Đóng góp mtàng khác. đã thu thập đượ
- Trên cơ sở kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu trước đây,
kết hợp với thực tiễn khảo sát, nghiên cứu của NCS, luận án đã tổng hợp các
luận điểm cơ bản về đời sống dân gian dưới góc nhìn văn hoá.
- Tuận án đã tổng hợp các luận điểm cơ bản về đời sống dân gian dưới
góc nhìn văn hoá.ực tiễn khảo sát, nghiêThành phn đã Chí Minh.
- Tnh phn đã Chí Minh các luận điểm cơ bảThành phn đã Chí Minh, luh
phn đã Chí Minh các luận điểm cơ bản về đời sống dân gian dưới góc nhìn
văn hoá.ực tiễn khảo sát, nghiên cứu của hợp về đời sống dân gian trong các
hoạt động của Bảo tàng uan vàà bức tranh mô phỏng các bối cảnh xã hội cụ
thể và các tương tác văn hoá, xã hđiểm cơ bản.
- T các tương tác văn hoá, xã hđiểm cơ bản về đời sống dân gian dưới góc
nhìn văn hoá.ực tiễn khảo sát, nghiên cứu của hợp về đời sốngThành phtương
tác văn nói riêng và các bảo tàng cùng loại hình nói chung trong bối cảnh giao
lưu và hội nhập quốc tế hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luác bảo tàng cùng loại hình
- Về mặt lý luận: Luận án cung cấp thêm một hiểu biết chuyên ngành về
tính chính trị của văn hóa, cụ thể là tính chính trị của bảo tàng trong các bối

cảnh xã hội cụ thể; tổng quan những vấn đề lý luận về đời sống dân gian và
mối quan hệ giữa đời sống dân gian và bảo tàng.
- Về mặt thực tiễn: Luận án góp phần hoàn thiện tư liệu về lịch sử chuyển
đổi từ Bảo tàng Cách mạng Thành phố Hồ Chí Minh thành Bảo tàng Thành
phố Hồ Chí Minh; cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn cảnh về trưng bày
nghề thủ công truyền thống ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh. Tư liệu cũng
giúp cho các bảo tàng khảo cứu địa phương và các bảo tàng lịch xã hội tham
khảo khi thực hiện các trưng bày về nghề thủ công nói riêng, đời sống dân
gian nói chung.

12


8. Cơ ciệu cũng giúp
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, hình ảnh, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý luận
Chương 2: Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh: Quá trình chuyển đổi đưa
đời sống dân gian vào bảo tàng (qua trưng bày về nghề thủ công truyền thống)
Chương 3: Các chiều tương tác trong việc thể hiện đời sống dân gian ở
Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh qua trưng bày nghề thủ công truyền thống
Chương 4: Những vấn đề đặt ra từ thực tế việc thể hiện đời sống dân gian
ở Bảo tàng Thành phố Hồ Chí Minh.

13


Chương 1
Thương 1ố Hồ Chí Minhề đặt ra từ thực tế việc t
1.1. T 1ố Hồ Chí Minhề đặt ra từ th
Đời sống dân gian là một trong những nội dung quan trọng, khẳng định

đặc trưng của bảo tàng. Do đó, đời sống dân gian và bảo tàng từ lâu được các
nhà khoa học trên nhiều quốc gia quan tâm, chú ý. Các công trình nghiên cứu
của các tác giả nước ngoài về vấn đề này rất đa dạng, phong phú và chuyên
sâu, chủ yếu được xuất bản dưới dạng sách tập hợp các bài viết hay các tạp
chí chuyên ngành về Bảo tàng và đời sống dân gian, Lễ hội đời sống dân
gian… Vẽ được bức tranh toàn diện nhất về Bảo tàng và đời sống dân gian
phải kể đến tác phẩm Folklife and Museum – Selected Readings do Patricia và
Charlie biên tập. Các vấn đề như: sự tiến triển trong mối quan hệ tương tác
giữa bảo tàng và đời sống dân gian từ những năm 1950; kết nối giữa quá khứ
và hiện tại qua sự diễn giải ở các bảo tàng đời sống dân gian; ứng dụng lý
thuyết vào thực tiễn – đời sống dân gian và các bảo tàng lịch sử hiện nay… là
những điểm nhấn mà công trình này mang lại. Tuy nhiên, các công trình của
các tác giả Việt Nam đề cập trực tiếp đến đời sống dân gian và bảo tàng chưa
nhiều và không mấy phổ biến. Trong nội dung trình bày dưới đây, luận án hệ
thống hóa các công trình của các tác giả (trong và ngoài nước) theo thứ tự nội
dung của các tác phẩm chứ không theo thời gian xuất bản. Cụ thể trước hết là
nhóm công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian và đời sống dân gian, tiếp
theo là đời sống dân gian đối với bảo tàng và cộng đồng - với vai trò là chủ
thể văn hóa.
1.1.1. Các nghiên crlie biên tập. Các vấn đề như: sự tiến triể
Nghiên cứu đời sống dân gian “dùng để chỉ một ngành học hay hoạt động
học thuật và sự nhạy cảm của nó đối với việc đánh giá văn hóa của cuộc sống
thường nhật ở các xã hội phức tạp,… Đời sống dân gian đặc biệt nhấn mạnh
tới sự cần thiết phải hướng các chú ý học thuật vào tất cả các nền văn hóa
14


trong phạm vi bối cảnh địa phương” [6060, tr 92]. Nghiên cứu đời sống dân
góp phần tìm hiểu, lưu giữ, bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa của nhân
loại, trong đó, quan trọng nhất là để duy trì bản sắc văn hóa độc đáo của mỗi

cộng đồng, mỗi nhóm người. Tại châu Âu, đặc biệt là Anh, Ireland và các
quốc gia vùng Scandinavia, nghiên cứu “đời sống dân gian” được gọi là “dân
tộc học châu Âu”, chủ yếu được thực hiện bởi các bảo tàng dân gian. Nền
tảng cơ bản của ngành nghiên cứu đời sống dân gian ở châu Âu trong lịch sử
là mối quan tâm của các tầng lớp xã hội với các cổ vật, đồ quý hiếm liên quan
đến giá trị chính trị và kinh tế. Những tư liệu minh chứng cho điều này được
thể hiện qua “Truyện kể về người Đan Mạch” (thế kỷ XIII), “Lịch sử các dân
tộc phương Bắc” (Thụy Điển, thế kỷ XVI)… Những tư liệu này là hình thức
đánh dấu việc ghi chép “văn hóa khu vực trong lịch sử và đương đại, với ý
tưởng rằng phong tục đặc biệt có ý nghĩa với môi trường và đời sống vật
chất” [6060, tr 93].
Nghiên cứu đời sống dân gian ở châu Âu bị chi phối bởi Chủ nghĩa lãng
mạn châu Âu - “hăng hái khảo sát đời sống nông dân, những người vẫn duy
trì phong cách sống đơn giản và ít phức tạp hơn, liên tưởng tới một quá khứ
thôn quê mến thương”, [6060, tr 94] và Chủ nghĩa dân tộc châu Âu – “sự
diện các hình thức riêng biệt của văn hóa có thể được sử dụng nhằm đề cao
bản sắc dân tộc” [6060, tr 94]. Bên cạnh đó, nghiên cứu đời sống dân gian ở
số quốc gia châu Âu đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng của các lý thuyết về lịch
sử và văn hóa, cụ thể là sự biến đổi văn hóa trong bối cảnh mới, nhấn mạnh
việc diễn giải hoạt động và lan truyền văn hóa, hình thành các bản đồ văn hóa
– “một dấu xác nhận tiêu chuẩn cho phương pháp luận đời sống dân gian châu
Âu”[6060, tr 94].
Nghiên cứu đời sống dân gian ở châu Âu đầu thế kỷ XX chịu ảnh hưởng
của ngành dân tộc học, nói khác đi là dân tộc học khu vực. Đại diện cho quan
điểm này là nhà nghiên cứu đời sống dân gian ở Thụy Điển – Sigurd Erixon
15


(1888 – 1968). Sau thế chiến lần thứ hai, dưới ảnh hưởng của thuyết chức
năng, các học giả nghiên cứu về đời sống dân gian đã chuyển mối quan tâm

sang bối cảnh văn hóa phức tạp. Trong giai đoạn hiện nay, các nhà nghiên cứu
người Đức đã hướng đời sống dân gian là một ngành học nghiên cứu sự
phong phú các truyền thống, đặc biệt là các vấn đề đương đại như tác động
của phương tiện truyền thông đại chúng, tính xác thực và việc diễn giải truyền
thống, du lịch, tộc người và văn hóa của cuộc sống hàng ngày.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu Anh – Mỹ, có sự phân biệt giữa
đời sống dân gian và văn hóa dân gian. Nếu như văn hóa dân gian chú trọng
việc nghiên cứu các hình thức truyền khẩu, nhất là truyện kể và bài hát, trong
khi việc nghiên cứu văn hóa vật chất bị gạt ra ngoài mối quan tâm của học
thuật thì đời sống dân gian tập trung vào các truyền thống phong phú của văn
hóa vật chất, tín ngưỡng tôn giáo, y học, phong tục, lễ hội, thực phẩm, trang
phục… Tiêu biểu cho sự khởi đầu nghiên cứu đời sống dân gian ở Hoa Kỳ là
Don Yoder (1921 -) và Alfred L. Shoemaker (1913 -). Với quan điểm của
mình, các học giả đã bổ sung nhiều “chiều cạnh mới cho nghiên cứu lịch sử
của Mỹ và bảo tồn di sản bản địa” [6060, tr 100]. Cách tiếp cận này mang tính
chất dân tộc học lịch sử và đương đại Mỹ.
Thuật ngữ đời sống dân gian phổ biến trong nghiên cứu các lễ hội đời
sống dân gian (Folklife Festivals) ở Hoa Kỳ, với sự đầy đủ và đa dạng các
văn hóa truyền thống bao gồm âm nhạc, múa, kể chuyện, hàng thủ công, trang
phục, chế biến thức ăn, nghi lễ vòng đời và kỹ năng nghề nghiệp. Đời sống
dân gian cũng bao gồm việc nghiên cứu hệ thống các niềm tin, tôn giáo dân
gian, y học dân gian và tín ngưỡng dân gian. “Sự chú trọng của đời sống dân
gian Mỹ vào tất cả các yếu tố của văn hóa và môi trường bản địa với tư cách
là chiếc chìa khóa giúp hiểu được bức tranh tổng thể của nền văn minh Mỹ đã
tác động đến việc nghiên cứu về địa lý, lịch sử nghệ thuật, lịch sử, bảo tàng
nhân học, tôn giáo, bảo tồn lịch sử và nghiên cứu Mỹ” [6060, tr 100, 101].
16


Hiện nay, trên thế giới, việc nghiên cứu đời sống dân gian khá phổ biến.

Các hoạt động nghiên cứu này được tiến hành thông qua các viện nghiên cứu,
các trường đại học, các bảo tàng. Ấn phẩm của các công trình nghiên cứu
được giới thiệu trên nhiều sách tham khảo, bài giảng và các tạp chí chuyên
ngành. Bên cạnh đó phải kể đế sự ra đời của các hiệp hội, các câu lạc bộ, các
tổ chức tình nguyện. Ngoài các ấn phẩm được xuất bản, điểm mạnh của đời
sống dân gian là các cuộc trình diễn giới thiệu các di sản văn hóa do chính
chủ thể văn hóa đảm nhiệm.
Tác giả Mary Hufford với tác phẩm Folklore and Folklife (tạm dịch “Văn
hóa dân gian và đời sống dân gian”) xuất bản năm 2000 [7070], nội dung bàn
về khái niệm văn hóa dân gian; nghiên cứu đời sống dân gian. Công trình này
đưa ra các quan điểm/tranh luận về lịch sử và những dấu ấn xã hội qua nghiên
cứu ở Appalachian (Mỹ). Theo tác giả Mary Hufford, văn hóa dân gian và đời
sống dân gian không bị đông đặc theo thời gian, thay đổi văn hóa dân gian và
truyền thống thành các đạo luật mang mục tiêu chính trị.
Qua tổng quan những công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài
về đời sống dân gian, luận án sử dụng những lý thuyết, quan điểm, lập luận
của các tác giả: Don Yoder (1921 -) và Alfred L. Shoemaker Mary Hufford
trong nghiên cứu đời sống dân gian và thực hành văn hóa gắn với cộng đồng
và sự phát triển. Luận án sẽ vận dụng quan điểm xu hướng kết hợp các mối
quan tâm về thẩm mỹ, truyền thống, chính trị và sinh thái của các tác phẩm
này trong nghiên cứu, đánh giá, phân tích.
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về phong tục, tập quán, tín
ngưỡng, chữ viết, kiến trúc, ẩm thực, trang phục, các ngành nghề thủ công, ca
dao, tục ngữ… đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX. Tuy rằng, các học
giả của các công trình này không sử dụng thuật ngữ đời sống dân gian như
các học giả phương Tây và Mỹ, nhưng đối tượng, nội dung nghiên cứu của
các công trình này chính là những thể loại của đời sống dân gian.
17



Tác giả Mai Viên Đoàn Triển (1854 – 1919) với 2 công trình viết bằng
chữ Hán và chữ Nôm “An Nam phong tục sách” và “Tiểu học bản quốc phong
tục sách” ghi lại những phong tục tập quán của người dân Việt Nam. Các
công trình này cung cấp nhiều tư liệu quý về phong tục tập quán người Việt
Nam xưa gắn với đời sống văn hoá làng xã nông nghiệp lúa nước, nhiều tập
tục đã mai một qua thời gian nhưng cũng nhiều lễ tục được thay đổi, tiếp biến
để phù hợp với bối cảnh đời sống hiện đại. Việc thờ cúng tổ tiên, lễ tết, hội
hè, cầu an, học hành thi cử, luật tục tang ma, cưới hỏi cho đến bài bạc, bói
toán… được tác giả mô tả đơn giản, dễ hiểu.
Bên cạnh đó, không thể không kể đến Phan Kế Bính (1875 – 1921) – một
nhà báo, nhà văn Việt Nam đầu thế kỷ XX. Liên quan đến việc tìm hiểu và
ghi chép các hình thức đời sống dân gian theo quan niệm của phương Tây và
Mỹ, phải nói đến tác phẩm biên khảo"Việt Nam phong tục" (1915) của ông.
Đây là công trình nghiên cứu nghiêm túc, có tính phản biện về thuần phong
mỹ tục của Việt Nam. “Qua những đoạn ngắn, súc tích, tác giả đã đề cập khá
đầy đủ về phong tục trong gia tộc, thôn xóm, trong xã hội”[1111, tr 5].
Toan Ánh (1916 – 2009) là một tác giả với nhiều công trình gắn với đề tài
văn hóa truyền thống của Việt Nam, như: Phong tục Việt Nam (biên khảo),
Tín ngưỡng Việt Nam (biên khảo), Hội hè đình đám (biên khảo)... Các phong
tục Việt Nam qua những tục lệ trong gia đình như sinh con, nuôi nấng dạy dỗ
con, cũng như bản sắc văn hóa Việt Nam qua các dịp lễ, tết, hội hè… là tư
liệu cho nhiều nhà nghiên cứu sau này.
Một dấu mốc trong việc nghiên cứu các khía cạnh đời sống dân gian ở
Việt Nam phải kể đến 2 học giả Đào Duy Anh (1904 – 1988) và Nguyễn Văn
Huyên (1905 - 1975). Hai học giả này được các nhà chuyên môn đánh giá là
những người đặt nền móng cho nghiên cứu văn hóa, văn minh ở Việt Nam.
Đào Duy Anh với tác phẩm “Việt Nam văn hóa sử cương” đã bao quát các
khía cạnh sinh hoạt kinh tế, chính trị, xã hội và tri thức trên cơ sở quan niệm
18



“văn hóa là sinh hoạt”. Ngoài ra, tác giả còn đề cập đến sự biến đổi của văn
hóa Việt Nam trong quá trình Âu hóa với những xu hướng của các giá trị văn
hóa cũ và mới. Công trình “Việt Nam văn hóa sử cương” được đánh giá là
một trong các công trình đặt nền tảng cho sự hình thành ngành văn hóa học
Việt Nam hiện đại. Tác giả Nguyễn Văn Huyên thông qua các tác phẩm
nghiên cứu văn hóa của mình đã đề cập đến các tín ngưỡng riêng của người
Việt Nam như việc thờ thành hoàng: Phù Đổng, Tản Viên, Chử Đồng Tử…
Với phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận theo hướng nhân học, học giả
Nguyễn Văn Huyên đã nêu ra các đặc trưng về tinh thần dân tộc Việt Nam từ
các nghiên cứu trường hợp lễ hội truyền thống, kiến trúc, cấu trúc giai tầng
trong xã hội…
Từ những năm cuối thế kỷ XX đến nay, ở nước ta có nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục, tập quán, kiến trúc,
ẩm thực, trang phục, văn học dân gian, nghề thủ công truyền thống… của các
dân tộc Việt Nam từ Bắc đến Nam. Nhiều viện nghiên cứu, hiệp hội, trường
học… liên quan đến nghiên cứu văn hóa được thành lập như Viện Nghiên cứu
Văn hóa, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Viện Dân tộc học;
Hội Văn nghệ dân gian, Hội Di sản văn hóa, Hội Dân tộc học và Nhân học…
Rõ ràng, các đối tượng nghiên cứu, nội dung nghiên cứu về các khía cạnh của
đời sống dân gian không xa lạ với các học giả Việt Nam, tuy nhiên thuật ngữ
này không được sử dụng phổ biến.
Khái niệm đời sống dân gian chưa thực sự phổ biến cho đến khi thuật ngữ
“đời sống dân gian” được giới thiệu trong cuốn sách “Folklore – một số thuật
ngữ đương đại” do tác giả Ngô Đức Thịnh và tác giả Frank Proschan đồng
chủ biên (xuất bản năm 2005) [6060] và việc Việt Nam tham gia Lễ hội đời
sống dân gian Smithsonian 2007 tại Washington, Hoa Kỳ. Nội dung tác phẩm
“Folklore – một số thuật ngữ đương đại” đề cập về quá trình tiến triển và phát
triển folklore trong 2 thế kỷ 19, 20 và những khuynh hướng nghiên cứu gần


19


×