Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM NHÂN THỌ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.42 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG TUYẾT VÂN

CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM
THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM NHÂN THỌ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG TUYẾT VÂN

CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM
THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM NHÂN THỌ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Kinh tế
: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN VÂN


HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan luận văn này là công trình nghiện cứu do chính tôi thực hiện. Mọi
số liệu, kết quả nghiên cứu đã công bố được tham khảo trong luận văn đều trung thực
và trích dẫn nguồn tài liệu đúng quy định. Những kết quả nghiên cứu của luận văn chưa
từng được công bố trong bất cứ công trình của tác giả khác.

Tác giả luận văn
Đặng Tuyết Vân


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỤC LỢI HIỂM NHÂN THỌ
1.1.

Khái quát trục lợi bảo hiểm nhân thọ

6

1.1.1. Khái niệm về trục lợi bảo hiểm nhân thọ

6


1.1.2. Hậu quả của hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ

9

1.1.3. Sự cần thiết phải ngăn ngừa và loại bỏ hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ

11

1.2.

11

Chủ thể thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ

1.2.1. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

11

1.2.2. Đại lý bảo hiểm

12

1.2.3. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm

13

1.2.4. Ngân hàng (bancassurance)

14


1.2.5. Người tham gia bảo hiểm

15

1.3.

Những dấu hiệu cơ bản của hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ

19

1.3.1 Hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm cam kết trong hợp đồng

19

1.3.2 Động cơ, mục đích và yếu tố lỗi của hành vi trục lợi bảo hiểm

21

1.3.3 Hậu quả, mối liên hệ giữa hành vi và hậu quả hành vi trục lợi bảo hiểm

23

1.4.

24

Những hình thức trục lợi bảo hiểm nhân thọ

1.4.1 Giai đoạn phát hành hợp đồng và quản lý hợp đồng bảo hiểm nhân thọ


24

1.4.2 Giai đoạn giám định hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

27

1.4.3 Giai đoạn doanh nghiệp bảo hiểm chi trả bảo hiểm cho khách hàng

29

Chương 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
CHỐNG TRỤC LỢI BẢO HIỂM THEO PHÁP LUẬT BẢO HIỂM NHÂN THỌ
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1.

Thực trạng quy định pháp luật về chống trục lợi bảo hiểm nhân thọ

2.1.1 Trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

34
34


2.1.2 Trong quản trị, điều hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

36

2.1.3 Trong việc quản lý, giám sát đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
của cơ quan nhà nước

2.2.

39

Thực hiện pháp luật về chống trục lợi bảo hiểm theo pháp luật bảo hiểm
nhân thọ từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh

40

2.2.1 Trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

40

2.2.2 Trong quản trị, điều hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

44

2.2.3 Trong việc quản lý, giám sát đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ
của cơ quan nhà nước

50

Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG TRỤC
LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1.

Kiến nghị về hoàn thiện các quy phạm pháp luật

58


3.1.1. Trong giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

58

3.1.2. Trong quản trị, điều hành kinh doanh bảo hiểm nhân thọ

62

3.1.3. Trong việc quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ của cơ

3.2.

quan nhà nước

67

Kiến nghị về công tác tổ chức thực hiện

70

3.2.1 Hoạt động của cơ quan nhà nước

70

3.2.2 Hoạt động của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam.

71

3.2.3 Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.


72

KẾT LUẬN

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHNT:

Bảo hiểm nhân thọ

BLHS:

Bộ luật Hình sự

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BMBH:

Bên mua bảo hiểm

CQLGSBH:

Cục Quản lý Giám sát Bảo hiểm


DNMGBH:

Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm

DNBHNT:

Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

DNBH:

Doanh nghiệp bảo hiểm

ĐLBH:

Đại lý bảo hiểm

IAV:

Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

HĐĐLBH:

Hợp đồng Đại lý bảo hiểm

HĐBHNT:

Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

HĐBH:


Hợp đồng bảo hiểm

HSYCBH:

Hồ sơ Yêu cầu bảo hiểm

LKDBH:

Luật Kinh doanh bảo hiểm

LBVNTD:

Luật Bảo vệ người tiêu dùng

NTGBH:

Người tham gia bảo hiểm

NĐBH:

Người được bảo hiểm

NTH:

Người thụ hưởng

TLBH:

Trục lợi bảo hiểm


IAIS:

International Association of Insurance Supervisors
Hiệp hội quốc tế các cơ quan giám sát bảo hiểm

ICP:

Insurance Core Principles
Các nguyên tắc cốt lõi của bảo hiểm

NAIC:

The National Association of Insurance Commissioners
Hiệp hội quốc gia các Ủy ban bảo hiểm Hoa Kỳ


MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của đề tài
BHNT là một lĩnh vực kinh doanh phát triển lâu đời trên thế giới, đặc biệt là

những nước có nền kinh tế phát triển, tuy nhiên tại Việt Nam, BHNT vẫn còn tương
đối mới mẻ và được các DNBH, các chuyên gia và các cơ quan quản lý đánh giá là
thị trường đầy tiềm năng.
Tuy nhiên, thời gian gần đây những vụ trục lợi BHNT xuất hiện ngày càng
nhiều, trong đó rất nhiều vụ việc xuất phát từ những bất cập của các quy định pháp
luật như: quy định về hoạt động kinh doanh BHNT, hoạt động đầu tư và quản lý,
hoạt động giám sát bảo hiểm… Ngoài ra, DNBH chưa áp dụng đúng tập quán kinh

doanh bảo hiểm theo đúng chuẩn mực thị trường, BLHS không có quy định rõ ràng
về tội danh “trục lợi bảo hiểm”, việc phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan
trong hoạt động giám sát và xử lý hành vi trục lợi chưa thật sự phát huy được hiệu
quả nên các vụ trục lợi BHNT xuất hiện ngày càng nhiều và tinh vi hơn.
Hiện nay, các công trình nghiên cứu về pháp luật kinh doanh BHNT ở Việt
Nam phần lớn đề cập đến một số khía cạnh về pháp luật kinh doanh BHNT mà chưa
nghiên cứu đến khía cạnh chống trục lợi BHNT. Trong khi đó, một trong những yêu
cầu trong quá trình hoàn thiện pháp luật kinh doanh bảo hiểm nói chung và kinh
doanh BHNT nói riêng là hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam để hội nhập quốc
tế. Với quan điểm “phòng, chống trục lợi” để không tạo cơ hội trục lợi BHNT xảy
ra, cũng như xây dựng những giải pháp khả thi nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “Chống trục lợi bảo hiểm theo pháp luật BHNT
từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn thạc sĩ.

2.

Tình hình nghiên cứu:
Thị trường BHNT ở Việt Nam chính thức được ghi nhận về mặt pháp lý tại

Nghị định 100-CP ngày 18/12/1993 về kinh doanh bảo hiểm, từ đó cho đến nay, hệ
1


thống pháp luật về lĩnh vực bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng luôn có sự kế
thừa và phát triển để từng bước ngày càng tốt hơn.
Phần lớn các đề tài về bảo hiểm thương mại tập trung nghiên cứu chuyên biệt
về một lĩnh vực hoặc một vấn đề cụ thể của pháp luật bảo hiểm. Trong lĩnh vực
nghiên cứu pháp lý về chống TLBH, chỉ có một số bài viết phân tích trên các tạp chí
hoặc trên trang điện tử của Bộ tài chính, CQLGSBH hoặc IAV nhằm đánh giá về
thực trạng TLBH thông qua đó gián tiếp đề cập đến hậu quả pháp lý của hành vi

TLBH. Điển hình: Nguyễn Thị Thủy (2016), Chống trục lợi bảo hiểm, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp, Viện nghiên cứu lập pháp, [34, tr.17-19]; Doãn Hồng Nhung
(2014), Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn trục lợi bảo
hiểm trong kinh doanh bảo hiểm ở Việt nam, Tạp chí Khoa học Luật học của Đại học
Quốc Gia Hà Nội, tập 30, [3, tr.33-40].
Năm 2017, một công trình nghiên cứu đáng chú ý viết về TLBH phi nhân thọ
của tác giả Lê Văn Hiệp. Luận văn đã khái quát phần nào những vấn đề lý luận chung
về hậu quả pháp lý của hành vi TLBH trong lĩnh vực phi nhân thọ dựa trên việc phân
tích các quy định pháp luật bảo hiểm thương mại Việt Nam, đưa ra dẫn chứng cụ thể
và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.
Nhìn chung, hầu hết các đề tài nghiên cứu, các bài viết có đề cập một phần
liên quan đến khái niệm hành vi TLBH, những dạng TLBH cơ bản trong lĩnh vực
bảo hiểm phi nhân thọ, chưa có một nghiên cứu chuyên sâu nào trong lĩnh vực
BHNT. Trong khi đó, quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm nói chung cũng
như kinh doanh lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ khác xa hoàn toàn so với lĩnh vực
BHNT. Mặc khác, pháp luật chưa có quy định rõ ràng về hành vi TLBH trong lĩnh
vực BHNT, chưa đề cập nhiều đến mặt thực tiễn áp dụng pháp luật, đồng thời chưa
đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như tăng cường một số
hoạt động hỗ trợ từ các cơ quan chuyên môn để giải quyết các vụ việc trên thực tế.
Đây cũng là nội dung chính trong đề tài nghiên cứu của tác giả.

2


3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là xây dựng cơ sở lý luận và đưa ra được

những giải pháp hoàn thiện pháp luật chống TLBH theo pháp luật kinh doanh BHNT

nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập quốc tế.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nêu rõ thực trạng trục lợi BHNT tại Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và phân tích
những thủ đoạn, hành vi cơ bản trục lợi BHNT.
- Đánh giá nội dung pháp luật về kinh doanh BHNT và những quy định pháp luật
hiện hành có phù hợp trong việc phòng chống trục lợi BHNT hiện nay. Từ đó xây
dựng nội dung lý luận hoàn thiện pháp luật kinh doanh BHNT.
- Xây dựng các giải pháp chống TLBH nhằm hoàn thiện pháp luật hiện hành về kinh
doanh BHNT. Những giải pháp này này cần bám sát và thể hiện đúng chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của nhà nước trong việc hoàn thiện pháp
luật nhằm thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của thị trường bảo hiểm đáp ứng quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế.

4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:

- Hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh BHNT bao gồm: LKDBH, các
văn bản hướng dẫn thi hành LKDBH và các văn bản pháp luật khác có liên quan như
BLDS, BLTTDS, BLHS, BLTTHS, Luật Đầu tư, Luật Thương mại, LBVNTD…
- Các quan điểm khoa học đã được các tác giả cá nhân và các tổ chức công bố trong
các công trình nghiên cứu về kinh doanh BHNT trong nước và quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu được xác định giới hạn như sau:
- Đối tượng nghiên cứu là hệ thống quy định pháp luật về kinh doanh BHNT ở Việt
Nam kể từ khi có LKDBH năm 2000 cho đến hiện nay, trong đó tác giả tập trung
chủ yếu vào hệ thống các quy định pháp luật hiện hành. Giai đoạn trước khi LKDBH

3



có hiệu lực không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án, tuy nhiên có thể được đề
cập khi so sánh và đánh giá các quy định pháp luật hiện hành.
- Những nghiên cứu của luận án hướng tới hệ thống các quy định pháp luật điều
chỉnh đối với hoạt động kinh doanh BHNT nói chung, không đi sâu vào các quy định
cá biệt để điều chỉnh một số sản phẩm BHNT đặc thù.

5.

Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được những nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên cứu, dưới

góc độ khái quát, luận văn được tiếp cận theo phương pháp luận chủ nghĩa Mác Lênin
trong việc giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu. Đối với từng nội dung cụ thể, đề tài chủ
yếu sử dụng phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh luật học và phương pháp lịch sử, cụ thể:
- Phương pháp tổng hợp, thống kê và phân tích được áp dụng phổ biến trong việc
xây dựng các luận điểm trong từng nội dung của luận văn, thông qua tổng hợp và
phân tích từng khía cạnh của đối tượng nghiên cứu, luận văn sẽ chứng minh các luận
điểm đã được đưa ra.
- Phương pháp thống kê được áp dụng trong quá trình đánh giá thực tiễn về áp dụng
pháp luật về kinh doanh BHNT, bằng việc sử dụng các số liệu thực tế thông qua
phương pháp này sẽ chứng minh cho các nhận định được đưa ra.
- Phương pháp so sánh luật học được áp dụng trong quá trình phân tích các luận
điểm, nội dung chủ yếu so sánh các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam với
quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và so sánh giữa quy định pháp
luật hiện hành của Việt Nam với các tiêu chuẩn, tập quán quốc tế.
- Phương pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu hiệu quả trong việc chống TLBH
của pháp luật kinh doanh BHNT gắn với bối cảnh phát triển kinh tế xã hội ở Việt
Nam.


4


6.

Ý nghĩa lý luận và tính thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình hỗ trợ góp phần chống trục lợi BHNT, giúp các nhà

làm luật tham khảo hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh BHNT Việt Nam cũng
như đánh giá tương đối toàn diện thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh lĩnh vực
này. Vì vậy, luận văn sẽ góp phần bổ sung tri thức trong ngành khoa học pháp lý nói
chung và chuyên ngành Luật Kinh tế nói riêng về lĩnh vực pháp luật kinh doanh
BHNT.
Kết quả nghiên cứu của luận án có tính ứng dụng thực tiễn. Thứ nhất, luận
văn đóng góp những căn cứ thực tế cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về kinh
doanh BHNT ở Việt Nam. Thứ hai, luận văn sẽ góp phần đóng góp vào hệ thống
kiến thức pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước, DNBH và NTGBH áp dụng các
quy định của pháp luật một cách hiệu quả.

7.

Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về trục lợi BHNT.
Chương 2: Thực trạng quy định và thực hiện pháp luật về chống TLBH theo pháp
luật BHNT từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chống trục lợi BHNT ở nước ta
hiện nay.


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRỤC LỢI BẢO HIỂM NHÂN THỌ

1.1

Khái quát trục lợi bảo hiểm nhân thọ

1.1.1 Khái niệm về trục lợi bảo hiểm nhân thọ
-

Đề cập đến những quan điểm khác nhau về TLBH trên thế giới:

Theo tài liệu “TLBH và chống TLBH trên thị trường bảo hiểm thương mại Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Tiến Hùng đăng trên Tạp chí Phát triển và Hội nhập của Trường
Đại học Tài Chính [20, tr.50-57] thì cơ bản nhất có hai quan điểm, có thể tóm lược
như sau:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “trục lợi bảo hiểm” là “gian lận bảo hiểm” (tiếng
Anh sử dụng thuật ngữ “Insurance Fraud”);
Theo các Hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm trên thế giới [20, tr.51], quan điểm
này được hiểu rằng: “TLBH là hành vi gian dối nhằm kiếm lợi bất hợp pháp của các
chủ thể tham gia vào quan hệ kinh doanh bảo hiểm.” Vì “HĐBH là sự thỏa thuận
giữa DNBH và BMBH”, như vậy, chủ thể thực hiện hành vi này có thể là BMBH và
DNBH (bao gồm: ĐLBH – người được ủy quyền của DNBH, nhân viên của DNBH,
người điều hành DNBH)."
Theo Hiệp hội quản lý các công ty BHNT Hoa Kỳ - LOMA (Life Office
Management Association, Inc.) [20, tr.52], từ “Fraud” trong giao dịch bảo hiểm

thương mại được hiểu là: “cố ý không nói sự thật hoặc che giấu thông tin của bên
mua bảo hiểm để được bồi thường bảo hiểm hoặc trả khoản tiền bảo hiểm mà lý ra
không được nhận” hoặc “không nói sự thật hoặc cung cấp sai thông tin của người
quản trị DNBH, nhân viên bảo hiểm, ĐLBH, DNMGBH nhằm thu lợi tài chính”
(“Intentional lying or concealment by policyholders to obtain payment of an
insurance claim that would otherwise not be paid, or lying or misrepresentation by
the insurance company managers, employees, agents and brokers for financial
gain”).
6


Còn theo Hiệp hội Bảo hiểm quốc gia Hoa Kỳ - NAIC (National Association
of Insurance Commissioners) [20, tr.52] thì: “gian lận bảo hiểm là một hoạt động
xảy ra khi một DNBH, ĐLBH, giám định viên, khách hàng bảo hiểm thực hiện những
hành vi gian dối nhằm thu lợi bất hợp pháp” (“Insurance fraud occurs when an
insurance company, agent, adjuster or consumer commits a deliberate deception in
order to obtain an illegitimate gain”). Có thể thấy với những quan điểm trên thì hành
vi trục lợi bảo hiểm được hiểu giống như định nghĩa đã được đưa ra tại Thông tư
31/2004/TT-BTC của Việt Nam.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng TLBH chỉ được hiểu là hành vi TLBH tiền bồi
thường bảo hiểm hoặc trục lợi tiền bảo hiểm trả từ phía BMBH tức là “hành vi gian
lận bảo hiểm từ phía khách hàng mua bảo hiểm”.
Theo đó, người ta không sử dụng cụm từ “Insurance Fraud” mà thay vào đó
là cụm từ “Fraudulent Claim” – “Khiếu nại những gian lận”, tức là yêu cầu bồi
thường/ trả tiền bảo hiểm nhằm mục đích trục lợi. Hành vi này được thể hiện qua
việc BMBH cố ý không nói sự thật hoặc che giấu, hoặc cung cấp những thông tin sai
lệch cho DNBH nhằm mục đích nhận khoản chi trả bảo hiểm từ DNBH đó.
Tuy nhiên, trong từ điển thuật ngữ kinh doanh bảo hiểm có thuật ngữ
“fraudulent misrepresentation” – khai báo gian lận được giải nghĩa “Sự khai báo
không trung thực nhằm thuyết phục DNBH chấp nhận bảo hiểm cho người yêu cầu

bảo hiểm. Nếu biết được sự thật, DNBH có thể không chấp nhận yêu cầu bảo hiểm”,
việc gian lận không chỉ trong trường hợp yêu cầu bảo hiểm mà còn trong khiếu nại
bồi thường hoặc yêu cầu chi trả quyền lợi bảo hiểm.
Nếu quan điểm thứ hai chỉ coi đó là hành vi của khách hàng – BMBH thì quan
điểm thứ nhất cho rằng hành vi TLBH có thể gây ra cho cả hai bên chủ thể của
HĐBH. Như vậy, sự khác biệt của hai quan điểm trên ở chỗ chủ thể của hành vi trục
lợi bảo hiểm vì trường hợp TLBH ở quan điểm thứ nhất đã nằm trong những trường
hợp trục lợi của quan điểm thứ hai.

7


Ở Việt Nam, các DNBH và IAV dường như ủng hộ quan điểm thứ hai, điều
này không khó hiểu vì suy nghĩ và quan tâm hàng đầu của DNBH và cơ quan nhà
nước là chống hành vi trục lợi của khách hàng nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh
bảo hiểm có hiệu quả.
-

Đề cập đến khái niệm về trục lợi bảo hiểm trong pháp luật Việt Nam:
Theo IAV, từ tài liệu “Chống trục lợi bảo hiểm”, Bản tin Vòng quanh thị

trường của IAV [18], khái niệm về TLBH được hiểu như sau: “TLBH là bất kỳ hành
vi lừa dối nào nhằm kiếm lợi bất hợp pháp của các chủ thể tham gia vào quan hệ
kinh doanh bảo hiểm. TLBH rất đa dạng, dưới nhiều hình thức, được chia theo hành
vi trục lợi: “Trục lợi cứng” và “Trục lợi mềm”.”
- “Trục lợi cứng” là hành vi khi một người cố tình lập hồ sơ khiếu nại cho một vụ
tổn thất không có thật; hoặc cố tình khởi tạo một vụ tai nạn, tự hủy hoại bản thân để
đòi bồi thường bảo hiểm (ví dụ cố ý dàn dựng tai nạn, tự chặt tay chân đòi tiền bảo
hiểm, tự dàn dựng hồ sơ bệnh án…).
- “Trục lợi mềm”, hay còn được gọi là “trục lợi cơ hội”, là hành vi NĐBH khai tăng

khiếu nại hợp pháp của họ. Trục lợi “mềm” cũng có thể phát sinh khi bắt đầu mua
một HĐBH mới, NTGBH kê khai không trung thực các tình trạng hiện tại của mình
hoặc trước đây của đối tượng bảo hiểm nhằm mục đích hưởng lợi bất hợp pháp (như
được hưởng một mức phí bảo hiểm cao hơn với phí đóng bảo hiểm rẻ hơn).
Đồng thời, tổng hợp ý kiến của đại diện các DNBHNT tại Hội thảo “Đánh
giá thực trạng và giải pháp phòng chống trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới và bảo
hiểm con người” do CQLGSBH và IAV phối hợp tổ chức ngày 17/8/2017 [16] đã
cho biết: “hành vi trục lợi, cả trục lợi “cứng’ và trục lợi “mềm”, đã xuất hiện, ngày
càng trở nên phổ biến và nghiêm trọng ở Việt Nam. Đa số trục lợi trong lĩnh vực
BHNT là trục lợi “mềm” (trục lợi cơ hội), tuy nhiên cũng đã xuất hiện nhiều trường
hợp trục lợi “cứng” như cố tình ngụy tạo hồ sơ điều trị y tế khống.”
Hiện tại, ngay cả IAV vẫn chưa có một nghiên cứu đầy đủ về TLBH, theo quy
định tại Thông tư 50/2017/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 73/2016/NĐ-CP
8


ngày 01/7/2016 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành LKDBH và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của LKDBH [4] thì TLBH được hiểu như sau: “Kinh doanh bảo
hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lời, theo đó DNBH chấp nhận rủi
ro của NĐBH, trên cơ sở BMBH đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho
NTH hoặc bồi thường cho NĐBH khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.”
Với khái niệm trên, hoạt động kinh doanh của DNBH được thực hiện trên cơ
sở DNBH chấp nhận rủi ro của NĐBH để đổi lại họ được quyền thu những khoản
phí nhất định từ BMBH. Khi DNBH thu phí của BMBH cũng đồng nghĩa với việc
DNBH sẽ phải gánh chịu một mức trách nhiệm đối với NĐBH tương ứng mức phí
bảo hiểm đã thu. Đây là yếu tố để chứng minh rằng, quan hệ kinh doanh bảo hiểm là
quan hệ xã hội mang tính chất song vụ, quyền lợi bên này cũng chính là nghĩa vụ của
bên kia và ngược lại. Tham gia vào quan hệ bảo hiểm, các bên nhằm mục đích hợp
tác với nhau để đạt được những lợi ích nhất định, và để thiết lập nên quan hệ mang
tính hợp tác, tương trợ này, BMBH và DNBH phải tuân thủ cam kết: không được cố

ý thực hiện những hành vi có thể gây thiệt hại cho phía đối tác. Như vậy, những hành
vi lừa dối nhằm gây thiệt hại cho phía bên kia để đạt được những quyền lợi tài chính
nhất định trong quan hệ bảo hiểm có thể coi là TLBH hay còn gọi là việc kiếm lời
bất hợp pháp.
Từ những phân tích trên về các quan điểm khác nhau về khái niệm trục lợi
bảo hiểm, tác giả đưa ra khái niệm trục lợi BHNT như sau: “Trục lợi BHNT là hành
vi gian dối được tiến hành bởi những chủ thể tham gia vào quá trình giao kết, thực
hiện hợp đồng bảo hiểm nhân thọ nhằm thu được những khoản lợi bất chính”.
1.1.2 Hậu quả của hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ:
Thực tế trong nhiều năm qua, tình trạng gian lận BHNT ngày càng gia tăng
với nhiều thủ đoạn tinh vi, việc này không chỉ gây thiệt hại đến NTGBH, các DNBH
mà còn tạo một môi trường kinh doanh không lành mạnh trong lĩnh vực BHNT, làm
ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. “Theo khảo sát của Bộ Tài chính tại 5 doanh
nghiệp BHNT lớn nhất Việt Nam cho thấy những trường hợp TLBH đã bị phát hiện
9


và từ chối bồi thường lên tới trên 10% số tiền bồi thường của doanh nghiệp. Riêng
thiệt hại do trục lợi không bị phát hiện và đã giải quyết bồi thường được nhận định
cao hơn nhiều so với tỷ lệ này.” [15]
Đối với NTGBH, họ sẽ phải đóng góp thêm một khoản trong phí bảo hiểm vì
những hành vi TLBH không bị phát hiện phải giải quyết bồi thường, điều này cũng
làm cho Quỹ của các DNBH được xã hội hóa bằng thu phí bảo hiểm không thực hiện
đúng nguyên tắc lá lành (NTGBH không bị tổn thất) đùm lá rách (NTGBH không
may gặp rủi ro, tổn thất).
Đối với DNBH, TLBH sẽ gây hại cho chính DNBH bởi TLBH có nguyên do
từ NTGBH, cũng có thể từ ĐLBH, kể cả trường hợp có sự cấu kết từ người điều hành
DNBH, đặc biệt là DNBH có vốn thuộc sở hữu nhà nước. Theo Bản tin Vòng quanh
thị trường về “Chống trục lợi bảo hiểm” của IAV [18] đã thống kê được: “hơn 80%
các trường hợp TLBH là do có sự tiếp tay từ nội bộ DNBH”. Điều này một mặt gây

hại cho chính DNBH bởi DNBH phải chi trả quyền lợi bảo hiểm cao hơn mức phí
bảo hiểm mà DNBH thu được, điều đó dễ dẫn đến tình trạng DNBH phá sản. Mặc
khác, việc gia tăng công tác phòng chống TLBH ở các giai đoạn kiểm tra, xác minh,
điều tra các hồ sơ chứng từ nghi vấn sẽ làm kéo dài thời gian giải quyết bồi thường,
tăng thêm “sự nghi ngờ” các hồ sơ yêu cầu bồi thường được gửi đến; điều đó cũng
dễ dẫn đến việc DNBH sẽ làm mất uy tín với khách hàng vì sự chậm trễ chi trả quyền
lợi bảo hiểm.
Đối với nền kinh tế - xã hội, TLBH sẽ làm suy yếu kinh tế từ Quỹ của các
DNBH đã được xã hội hóa để góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội của nhà
nước bồi thường cho các tổ chức cá nhân khi rủi ro, thiên tai, tai nạn xảy ra. Kênh
thu hút vốn đầu tư trung dài hạn từ BHNT với hợp đồng và phí bảo hiểm nhàn rỗi
nhiều năm được đầu tư vào nền kinh tế xã hội sẽ bị thâm hụt do phải chi trả tăng
thêm cho hậu quả của trục lợi bảo hiểm. Hơn nữa, TLBH sẽ gây ra tình trạng lũng
đoạn trên thị trường BHNT, làm xáo trộn trật tự quản lý nhà nước cũng như làm thay
đổi bản chất của hoạt động kinh doanh “rủi ro” này.
10


1.1.3 Sự cần thiết phải ngăn ngừa và loại bỏ hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ:
Với quan điểm phòng, chống TLBH, tác giả nhận thấy cần thiết phải có những
giải pháp ngăn ngừa và loại bỏ hành vi trục lợi BHNT nhằm bảo đảm quyền lợi cho
NTGBH cũng như DNBH và nhà nước. Trong bối cảnh thị trường BHNT hoạt động
ngày càng phong phú, nhiều DNBH với các sản phẩm bảo hiểm đa dạng thì việc có
những biện pháp chấn chỉnh càng cần được xem xét một cách thấu đáo để có thể kịp
thời ngăn chặn trước khi không thể kiểm soát được TLBH.

1.2

Chủ thể thực hiện hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ
Về phía DNBHNT, người có hành vi gian dối có thể xuất phát từ các kênh


phân phối sản phẩm bảo hiểm, gồm có kênh phân phối trực tiếp (mạng lưới nhân
viên và văn phòng của mình để bán sản phẩm bảo hiểm), kênh phân phối gián tiếp
(ĐLBH, DNMGBH và Ngân hàng).
Về phía NTGBH, sẽ phức tạp hơn trong bảo hiểm con người (nhân thọ và sức
khỏe) vì một chủ thể sẽ có nhiều tư cách.
Ví dụ: BMBH có thể có nhiều tư cách gắn với nhiều cá nhân khác nhau: Tư
cách BMBH – người giao kết hợp đồng; tư cách NĐBH – người có tuổi thọ, tính
mạng, thân thể, sức khỏe được đảm bảo bởi HĐBH; tư cách NTH - người được nhận
hưởng tiền bồi thường, tiền bảo hiểm trả.
TLBH có thể xuất phát từ chủ thể là cá nhân có 1 trong 3 tư cách nói trên.
Thông tin bị gian dối còn có thể là mối quan hệ giữa các cá nhân đó như: Mối quan
hệ đảm bảo “có quyền lợi có thể bảo hiểm” của BMBH (Khoản 9, Điều 3 LKDBH)
hay mối quan hệ nhân thân để giao kết hợp đồng bảo hiểm (Điều 31 LKDBH). Dưới
đây, tác giả sẽ nêu rõ hơn từng chủ thể trong quan hệ giao kết HĐBHNT.
1.2.1 Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
DNBHNT được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của LKDBH
và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Theo quy định của LKDBH, doanh

11


nghiệp muốn hoạt động kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam phải được Bộ Tài chính
cấp giấy phép thành lập và hoạt động.
DNBHNT là đơn vị cung cấp sản phẩm bảo hiểm, cung cấp HĐBH, là người
quyết định đồng ý hoặc không đồng ý cho NTGBH mua sản phẩm – tham gia vào
giao dịch HĐBH. DNBH phân phối sản phẩm BHNT qua các kênh nhân viên của
chính DNBH, ĐLBH, DNMGBH và ngân hàng (bancassurance).
DNBHNT là đối tượng bị TLBH bởi khách hàng, chính nhân viên DNBH và
các kênh phân phối của mình.

Đối với nhân viên của DNBHNT, đây là chủ thể dễ dàng có hành vi TLBH
nhất. Bởi vì, nhân viên của DNBHNT là người nắm rõ khách hàng, hiểu quy tắt sản
phẩm, nắm vững hoạt động giao dịch, biết hoạt động thẩm định cũng như quy trình
chi trả quyền lợi bảo hiểm… nên dễ dàng có hành vi cố tình TLBH bằng cách thông
đồng cùng với các đồng nghiệp tại các bộ phận khác trong DNBH hoặc thông đồng
cùng với tổ chức cơ quan nhà nước khác (cơ sở y tế, khám chữa bệnh, đơn vị giám
định…) để trục lợi khách hàng bằng các hình thức như: làm giấy tờ giả, biên lai giả,
thay đổi hồ sơ bảo hiểm, khai tăng mức độ thương tật…
1.2.2

Đại lý bảo hiểm
ĐLBH là tổ chức, cá nhân được DNBH uỷ quyền trên cơ sở HĐĐLBH để

thực hiện hoạt động ĐLBH theo quy định của LKDBH và các quy định khác của
pháp luật có liên quan.
Hoạt động ĐLBH là hoạt động giới thiệu, chào bán bảo hiểm, thu xếp việc
giao kết HĐBH và các công việc khác nhằm thực hiện HĐBH theo ủy quyền của
DNBH. Do vậy, hoạt động của các ĐLBH được xem là “chiếc cầu nối” giữa DNBH
với NTGBH, mọi quyền và nghĩa vụ được xác định trong HĐĐLBH.
Trong thực tiễn kinh doanh bảo hiểm, các giao dịch HĐBH, thu phí bảo hiểm,
chăm sóc khách hàng đều được ký kết và thực hiện qua khâu trung gian là các ĐLBH,
từ đó đã tạo nên cơ hội để chủ thể này thực hiện hành vi TLBH.

12


ĐLBH có thể TLBH ở bất kỳ giai đoạn nào khi thực viện việc ủy quyền của
DNBH với vai trò là người ủy quyền của DNBH như: lập hồ sơ, thu phí, chi trả quyền
lợi bảo hiểm… ĐLBH sẽ cố tình không thực hiện đúng cam kết ủy quyền với DNBH
kê khai không trung thực, cố tình không nộp phí, cố tình vi phạm pháp luật bắt tay

với cơ quan chức năng tạo dựng hiện trường giả để TLBH.
Trường hợp ĐLBH vi phạm HĐĐLBH, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp
pháp của NĐBH, thì DNBH phải chịu trách nhiệm về HĐBH do ĐLBH thu xếp giao
kết. Nếu ĐLBH có lỗi trong việc vi phạm, thì ĐLBH phải bồi hoàn cho DNBH khoản
tiền mà DNBH đã bồi thường cho NĐBH. Ngoài ra, những ĐLBH nào vi phạm, tùy
mức độ sẽ bị chính DNBH ký HĐĐLBH và IAV xử lý kỷ luật. Riêng đối với trường
hợp phát hiện ĐLBH trục lợi thì ngoài việc xử phạt, ĐLBH đó sẽ bị cấm hoạt động,
thu hồi chứng chỉ hành nghề, đồng thời tên của ĐLBH đó sẽ được đưa vào “Danh
sách đen” của IAV, báo cáo về Bộ Tài chính và được thông báo trên toàn hệ thống
thông tin DNBH Việt Nam (nhân thọ và phi nhân thọ).
1.2.3 Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
Hoạt động của DNMGBH là việc cung cấp thông tin, tư vấn cho BMBH về
sản phẩm bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, DNBH và các công việc
liên quan đến đàm phán, thu xếp và thực hiện HĐBH theo yêu cầu của BMBH. Mặt
khác, DNMGBH còn có thể là người đứng ra thu phí bảo hiểm, bồi thường hoặc trả
tiền bảo hiểm khi được DNBH ủy quyền. Trong trường hợp DNMGBH được DNBH
ủy quyền trả tiền bảo hiểm hoặc trả tiền bồi thường, thì DNBH vẫn phải chịu trách
nhiệm trước NĐBH hoặc NTH về số tiền bảo hiểm mà DNBH có nghĩa vụ trả cho
NĐBH hoặc NTH. Như vậy, tương tự như hoạt động của ĐLBH, hoạt động môi giới
bảo hiểm cũng là khâu trung gian giữa NTGBH với DNBH trong việc thu xếp ký kết
HĐBH.
Sự khác biệt cơ bản giữa chủ thể môi giới và chủ thể đại lý là ở chỗ, chủ thể
tiến hành môi giới có tư cách độc lập, thường tư vấn hoặc đại diện cho BMBH để
giao kết HĐBHNT với DNBH chứ không phải là đại diện cho DNBH. Tuy nhiên,
13


người môi giới BHNT còn “cao tay” và trục lợi tinh vi hơn ĐLBH bởi ĐLBH chỉ am
tường sản phẩm và hoạt động của chính DNBH đã ký HĐĐLBH, còn người môi giới
sẽ hiểu biết hầu hết các sản phẩm bảo hiểm của các DNBHNT trên thị trường, tất

nhiên cũng nắm luôn hoạt động và quy định của từng DNBH nên nếu muốn thực
hiện hành vi TLBH thì dễ dàng hơn nhiều so với ĐLBH. Ví dụ: ở hoạt động
DNMGBH được quyền thay mặt khách hàng để yêu cầu DNBH chi trả quyền lợi bảo
hiểm, trong trường hợp này, để TLBH của DNBH, DNMGBH có thể bắt tay với
khách hàng và đường giây làm hồ sơ bệnh án giả sau đó trở thành đại diện ủy quyền
yêu cầu DNBH trả tiền bồi thường.
1.2.4 Ngân hàng (bancassurance)
Ngân hàng (bancassurance) là hoạt động phân phối sản phẩm bảo hiểm qua
ngân hàng dựa trên cơ sở khách hàng của ngân hàng và những lợi thế như hệ thống
các điểm giao dịch, hệ thống hỗ trợ thanh toán cũng như thương hiệu. Tuy nhiên,
hiện nay LKDBH không có định nghĩa hoặc quy định pháp luật điều chỉnh kênh phân
phối này nên ki xảy ra TLBH, DNBH và ngân hàng sẽ áp dụng giải quyết theo quy
định hợp đồng đã ký kết giữa các bên.
Trong một mô hình bancassurance điển hình, khách hàng sẽ được tiếp cận với
một sản phẩm hỗn hợp khá toàn diện, bao gồm các sản phẩm ngân hàng và bảo hiểm.
Thực tế, hiện nay mô hình bancassurance hoạt động như sau: nhân viên của ngân
hàng sẽ kiêm nhiệm tư vấn viên bảo hiểm, nhân viên này sẽ được đi học về sản phẩm,
được cấp chứng chỉ tư vấn viên bảo hiểm và hoạt động, cũng như hưởng hoa hồng
theo chế độ tư vấn viên của DNBH. Nhân viên này sẽ chăm sóc khách hàng cho đến
giai đoạn phát hành HĐBH rồi bàn giao hợp đồng và khách hàng về cho DNBH.
Thông thường, ngoài chi phí trả cho tư vấn viên thì DNBH phải trả thêm hoa hồng
trên Hợp đồng bảo hiểm cho ngân hàng tối thiểu trong thời 02 năm tùy theo thỏa
thuận giữa ngân hàng và DNBH.

14


Đối với chủ thể này, vì sở hữu hệ thống thông tin chi tiết khách hàng tiềm
năng cho DNBH nên việc làm giả hồ sơ dựa trên thông tin có thật của khách hàng để
TLBH là việc dễ dàng.

1.2.5

Người tham gia bảo hiểm
- Bên mua bảo hiểm:
Tại khoản 6 Điều 3 LKDBH có quy định: “BMBH là tổ chức, cá nhân giao

kết HĐBH với DNBH và đóng phí bảo hiểm”.
BMBH là cá nhân hoặc tổ chức có nhiều quyền hạn nhất trong một HDBHNT.
Hiểu nôm na, BMBH chính là người chủ hợp đồng và cũng là người đóng phí bảo
hiểm hợp pháp nhằm bảo hiểm cho các đối tượng là tính mạng, sức khỏe của chính
mình hoặc tính mạng, sức khỏe của người thứ ba khi ký kết hợp đồng với DNBH.
BMBH kê khai và ký tên trên Giấy yêu cầu bảo hiểm, thực hiện các quyền và nghĩa
vụ HĐBH.
BMBH tham gia giao dịch HĐBHNT là cá nhân, tổ chức bất kỳ nhưng các
chủ thể này phải thỏa mãn điều kiện về năng lực hành vi của chủ thể tham gia, bao
gồm năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, đồng thời có mối quan
hệ nhất định đối với đối tượng được bảo hiểm. Như vậy, BMBH có thể đồng thời là
NĐBH và NTH, nhưng cũng có thể là các chủ thể riêng biệt.
BMBH là đối tượng có mong muốn TLBH nhất, vì họ có mục đích TLBH rõ
ràng, có hành vi cố ý vi phạm pháp luật – sẵn sàng kê khai không trung thực để nhận
tiền chi trả bảo hiểm nhưng họ lại là đối tượng bị thiếu phương tiện và sự hướng dẫn,
do đó họ sẽ sẵn sàng hợp tác với những đường dây lừa đảo hoặc là “con chốt” để đối
tượng khác hợp tác hoặc lợi dụng TLBH.
Trong các HĐBHNT, nếu cho đến khi hợp đồng đáo hạn mà không có rủi ro
gì về tính mạng, sức khỏe đối với NĐBH thì khoản tiền mà BMBH đóng cho DNBH
có tính chất như một khoản tiền gửi tiết kiệm, vì khoản tiền này người mua sẽ được
nhận về cùng với một khoản bảo tức. Tuy nhiên, bên cạnh việc được hưởng lãi suất,
BMBH còn được bảo hiểm về trường hợp chết (nếu có tham gia bảo hiểm sản phẩm
15



BHNT có kỳ hạn), được bảo hiểm về các rủi ro đối với tính mạng và thương tật (nếu
có tham gia bảo hiểm sản phẩm bảo hiểm chết và tàn tật do tai nạn). Đối với bảo
hiểm tử kỳ và bảo hiểm hỗn hợp, nếu NĐBH không đồng thời là BMBH thì
HĐBHNT chỉ được giao kết khi có sự đồng ý của NĐBH. Điều kiện này được đặt ra
nhằm loại bỏ tình trạng NTH muốn trục lợi bất chính, có thể gây ra các rủi ro đạo
đức. Bên cạnh đó, quyền sống của con người là quyền thiêng liêng, không ai có thể
xâm phạm mà không có sự đồng ý của họ, trừ trường hợp họ gánh chịu sự trừng phạt
của pháp luật. Chính vì vậy, LKDBH quy định: "Khi BMBH giao kết HĐBHNT cho
trường hợp chết của người khác thì phải được người đó đồng ý bằng văn bản, trong
đó ghi rõ số tiền bảo hiểm và NTH". [28]
Vì sự chấp thuận của NĐBH là sự thể hiện ý chí của người đó, do vậy pháp
luật thường cấm giao kết HĐBHNT trong trường hợp chết mà NĐBH là những người
không có năng lực hành vi dân sự. Còn đối với những người chưa có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ, pháp luật yêu cầu phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc
là người giám hộ hợp pháp.
Điều kiện BMBH phải có sự chấp thuận của NĐBH trong trường hợp bảo
hiểm chết được quy định phổ biến trong pháp luật các nước. Ví dụ, tại Điều 42 Luật
Hợp đồng bảo hiểm Israel [23] đã quy định: "Trong trường hợp bảo hiểm cho tử
vong của người thứ ba không phải BMBH, hợp đồng phải có sự chấp thuận bằng văn
bản của người đó, hoặc của người giám hộ hợp pháp nếu người đó là trẻ em hoặc là
người thiếu năng lực hành vi".
Trường hợp BMBH là “cá nhân”, thì yêu cầu cần có mối quan hệ với NĐBH
(hôn phối, ruột thịt) hoặc BMBH có thể cũng là NĐBH chính của hợp đồng. Ví dụ:
Chồng đứng tên mua bảo hiểm cho vợ, chồng là người trực tiếp đóng phí bảo
hiểm, vợ là NĐBH chính. Người chồng để con trai là NTH. Vậy thì: Người vợ là
NĐBH, được hưởng các quyền lợi bảo hiểm trong hợp đồng. Người chồng là BMBH,
là chủ hợp đồng. Người con là NTH (Người nhận tiền khi NĐBH tử vong). Nếu

16



người con dưới 18 tuổi khi người mẹ tử vong, người cha – là người Giám hộ hợp
pháp – sẽ nhận số tiền đền bù từ HĐBH đó.
Trường hợp là một “tổ chức”: thì bắt buộc phải có pháp nhân hay không? Hiện
nay, chưa có bất kỳ một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể, mặc dù không có tư
cách pháp nhân, nhưng nếu tổ chức đó được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt
Nam sẽ được coi là một chủ thể trong quan hệ dân sự, thì tổ chức đó vẫn là chủ thể
của một hợp đồng dân sự. Vì vậy, vẫn có thể là NTGBH trong một HĐBHNT nhất
định. Hiện nay, trường hợp doanh nghiệp mua BHNT cho nhân viên, được xem là
một trong những chiến lược quan trọng giúp doanh nghiệp thu hút và giữ chân nhân
tài. Bởi việc làm này sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi phí thuế thu nhập doanh
nghiệp hàng năm, đồng thời chứng tỏ doanh nghiệp có sự quan tâm rất lớn và cung
cấp chính sách phúc lợi tốt hơn cho nhân viên của mình.
Theo Khoản 2.6b, Điều 4 Thông tư số 96/2015/TT-BTC ngày 22/6/2015 của
Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp quy định khoản chi không
được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế bao gồm: “Các khoản tiền lương, tiền
thưởng, chi mua BHNT cho người lao động không được ghi cụ thể điều kiện được
hưởng và mức được hưởng tại một trong các hồ sơ sau: Hợp đồng lao động; Thoả
ước lao động tập thể; Quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty, Tập đoàn; Quy
chế thưởng do Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc, Giám đốc quy định theo
quy chế tài chính của Công ty, Tổng công ty”. [2]
- Người được bảo hiểm:
NĐBH là tổ chức, cá nhân có tuổi thọ, tính mạng con NĐBH theo HĐBH,
được một DNBHNT chấp nhận bảo hiểm theo quy định của DNBH và phù hợp với
quy định của pháp luật.
NĐBH có thể là công dân Việt Nam, công dân nước ngoài sinh sống tại Việt
Nam. Trường hợp NĐBH là người nước ngoài, thời hạn bảo hiểm của HĐBHNT
phải nhỏ hơn thời hạn NĐBH cư trú tại Việt Nam. NĐBH có thể có nhiều tư cách:


17


NĐBH có thể đồng thời là NTH khi rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm xảy ra đối
với người này sẽ làm phát sinh trách nhiệm chi trả tiền bảo hiểm của DNBH. Hoặc
NĐBH có thể đồng thời là BMBH nếu NĐBH không phải là BMBH thì BMBH phải
có quyền lợi có thể được bảo hiểm đối với NĐBH.
Trong thực tiễn kinh doanh BHNT, độ tuổi của NĐBH là một yếu tố quan
trọng để DNBH chấp nhận bảo hiểm. Độ rủi ro sẽ khác nhau tuỳ theo độ tuổi của
NĐBH. Thông thường, DNBH không chấp nhận bảo hiểm cho NĐBH có một độ tuổi
quá giới hạn nào đó. Thậm chí, một số sản phẩm bảo hiểm cũng chỉ áp dụng cho
những độ tuổi nhất định. Chính vì vậy, LKDBH quy định việc khai báo đúng tuổi là
nghĩa vụ của NĐBH và hậu quả của việc khai báo sai tuổi.
Trong việc quyết định có chi trả hoặc chi trả quyền lợi bảo hiểm bao nhiêu thì
DNBH căn cứ vào tình trạng “rủi ro” của NĐBH. Vì vậy, để phát hiện có TLBH hay
không DNBH căn cứ vào dấu hiệu của NĐBH (hồ sơ bệnh án, mục đích mua bảo
hiểm, tài chính của họ…), ngoại trừ trường hợp BMBH là NĐBH thì trong đường
dây trục lợi, NĐBH có thể không biết mình bị kẻ khác lợi dụng để TLBH thậm chí
sẵn sàng hợp tác vì suy cho cùng NĐBH cũng không mất gì.
- Người thụ hưởng:
Cũng theo LKDBH, NTH có thể là tổ chức, cá nhân bất kỳ, có quan hệ huyết
thống hoặc không có quan hệ huyết thống với NĐBH chính của HĐBHNT, NTH là
người sẽ nhận số tiền đền bù lớn nhất của HĐBHNT khi NĐBH chính tử vong. Việc
chỉ định ai là NTH của hợp đồng do BMBH quyết định, có thể thay đổi NTH trong
trường hợp mong muốn và không giới hạn số lần thay đổi.
Trường hợp không chỉ định NTH, khác với NĐBH, trong HĐBHNT không
nhất thiết phải chỉ định rõ NTH, vì khi NĐBH chết thì quyền lợi bảo hiểm sẽ chi trả
cho những người thừa kế theo quy định pháp luật về thừa kế. Nếu trong HĐBHNT
không thoả thuận về NTH, thì số tiền bảo hiểm được trả sẽ là tài sản của NĐBH.


18


Ngoài ra, pháp luật hiện hành không quy định cụ thể về điều kiện của chủ thể
được hưởng quyền lợi bảo hiểm. Đồng nghĩa với việc, dù người này có đủ năng lực
hành vi dân sự hay không thì doanh nghiệp vẫn phải chi trả theo thỏa thuận.
Liên quan đến NTH trong HĐBHNT, NTH có những trường hợp sau: NTH
không nhất thiết phải là người thân của NĐBH và BMBH; nếu NTH dưới 18 tuổi,
thì người bảo hộ hợp pháp của NTH sẽ là người nhận số tiền đền bù từ HĐBH;
BMBH có thể thêm, loại trừ NTH nhiều lần trong suốt thời hạn hợp đồng có hiệu
lực; nếu NTH phạm tội hình sự, số tiền đền bù sẽ chỉ chia cho những NTH còn lại
trong hợp đồng và NTH cần có giấy chứng tử của NĐBH để chứng minh NĐBH đã
chết và lấy quyền lợi.
Mục đích cuối cùng của TLBH là lấy được tiền bồi thường, vì vậy kẻ trục lợi
thường biến mình thành NTH (BMBH là NĐBH và là NTH) hoặc liên kết thành
đường dây với NTH để chia số tiền bảo hiểm hoặc lợi dụng NTH để nhận tiền bảo
hiểm; trong khi đó, LKDBH lại quy định việc chỉ định ai là NTH của hợp đồng do
BMBH quyết định, vì vậy đã tạo cơ hội để BMBH và NTH bắt tay TLBH.

1.3

Những dấu hiệu cơ bản của hành vi trục lợi bảo hiểm nhân thọ

1.3.1 Hành vi vi phạm pháp luật của trục lợi bảo hiểm
Trước đây, Điều 15 Nghị định 118/2003/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm chỉ quy định mức độ xử phạt đối với hành vi này
mà không quy định các thành tố cấu thành hành vi TLBH. Hiện nay, tại Điều 213
BLHS 2015, được sửa đổi bổ sung 2017 về tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm
đã có một số quy định về hình thức gian lận cơ bản trong kinh doanh bảo hiểm và
mức độ thiệt hại để làm căn cứ áp dụng khung hình phạt. Tuy nhiên, tội danh gian

lận trong kinh doanh bảo hiểm vẫn chưa thể hiện đầy đủ các dấu hiệu của hành vi
TLBH, nhất là TLBH trong lĩnh vực BHNT.
Xét dưới góc độ cấu thành tội phạm trong BLHS Việt Nam, luận văn đề cập
những dấu hiệu cơ bản của hành vi trục lợi trong BHNT: đây là hành vi vi phạm pháp
19


×