Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phát huy nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.1 KB, 13 trang )

Đề Tài Thảo Luận : Phát huy nguồn nhân lực
trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
ở nước ta hiện nay
PHẦN 1: LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 2: NỘI DUNG
I. THÉ NÃO LÃ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ?
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CNH -HĐH Ở NƯỚC TA.
1. Thế nào là công nghiệp hoá - hiện đại hoá ?
a. Tính tất yếu khách quan của CNH-HĐH
b Tác dụng của CNH-HĐH
Khái niệm CNH-HĐH(Hội nghị TW 7 khoá VII )
2. Mục tiêu, quan điểm CNH-HĐH ở nước ta
a. Mục tiều
b. Quan điểm
II. VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI, NGUỒN NHÂN Lực TRONG
QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
III.
THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN Lực NỨỚC TA. Ưu
ĐIỂM VÃ HẠN CHÉ. PHÁT HUY CÙNG CÁC GIẢI PHÁP.

1. Những thế mạnh, ưu điểm nguồn nhân lực ở nước ta.Vận dụng
phát huy vai trò của nó.
2. Những mặt còn hạn chế của nguồn nhân lực nước ta. Nguyên
nhân và các giải pháp.
a. Các mặt hạn chế
b. Nguyên nhân
c. Giải pháp

PHẦN 3: LỜI KẾT



Lời Mở Đầu
Như chúng ta đã biết công nghiệp hoá - hiện đại hoá là con đường tốt nhất để
giúp một đất nước phát triển kinh tế, thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Từ đó làm nền
tảng, cơ sở vật chất và kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đặc biệt đối với một nước như nước ta kinh tế còn kém phát triển, công nghiệp
chậm phát triển, nông nghiệp còn lạc hậu thì sự nghiệp đổi mới công nghiệp hoá hiện đại hoá là biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của nước ta
trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu và kết quả to lớn về kinh tế, văn
hoá, xã hội, chính trị... song vẫn còn đó nhiều mặt hạn chế và khiếm khuyết.


Trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì con người, nguồn nhân lực
được coi là nhân tố quan họng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại,
tính hiệu quả của quá trình này. Đe đạt được sự phát tricn, tính hiệu quả của
quá trình CNH -HĐH thì càn phải có những chính sách phát triển con người,
nâng cao chất lượng nguồn lao động và cách phân bổ, sử dụng hợp lí. Ở nước ta
con người, nguồn nhân lực có nhiều ưu điểm, lợi thế song cũng có những mặt
hạn chế. vấn đề sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực lại chưa thực sự hợp lý.
Chính vì vậy việc phát huy và sử dụng nguồn nhân lực trong sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là một điều hết sức càn thiết và cần
có những sự quan tâm đúng mức.

NỘI DUNG

I. THẾ NÀO LÀ CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ ?
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CNH -HĐH Ở NƯỚC TA .
1. Thế nào là công nghiệp hoá - hiện đại hoá ?
a. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong sự nghiệp xây
dựng Xã hội chủ nghĩa:
Mỗi phưong thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập một cách vững chắc

trên một cơ sở vật chất kỹ thuật thích ứng. Nói cơ sở vật chất kỹ thuật của một
phương thức sản xuất là nói cơ sở vật chất - kỹ thuật đó đã đạt đến một trình độ nhất
định làm đặc trưng cho phương thức sản xuất đó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
CNTB là công cụ thủ công nhỏ bé, lạc hậu. Đặc trưng của cơ sở vật chất kỹ thuật của
Chủ nghĩa tư bản là nền đại công nghiệp cơ khí hoá, CNXH phát triển cao hơn dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Nhưng phải cao hơn CNTB về hai phương diện: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất,
gắn với thành tựu của cách mạng khoa học kĩ thuật của CNXH là nền đại công
nghiệp hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao dựa trên trình độ
khoa học - công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Vì vậy, từ CNTB hay từ những phương thức sản xuất trước chủ nghĩa tư bản
quá độ lên CNXH thì việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH là một tất yếu
khách quan, một quy luật kinh tế mang tính phổ biến và được thực hiện thông qua
công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Đối với các nước quá độ từ CNTB lên CNXH dù đã có công nghiệp, có cơ sở
vật chất kỹ thuật nhưng đó chỉ là tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất - kỹ
thuật của CNXH. Mà muốn có cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH các nước này
phải tiến hành cách mạng XHCN về quan hệ sản xuất; tiếp thu, vận dụng phát triển
cao hơn những thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất và hình thành cơ cấu kinh
tế mới XHCN có trình độ cao và có tổ chức(có kế hoạch, tổ chức sắp xếp lại nền đại
công nghiệp tư bản một cách hợp lý có hiệu quả). Chính vì lẽ đó đối với các nước có
nền kinh tế kém phát triển quá độ lên CNXH như nước ta thì việc xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật cho CNXH phải thực hiện từ đàu, tù không đến có, tù gốc đến ngọn,
thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cho nên CNH- HĐH là tất yếu khách quan,
là một việc làm đương nhiên đối với nước ta. Mỗi bước tiến của quá trình CNHHĐH là một bước tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH phát triển mạnh mẽ


lực lượng sản xuất góp phần hoàn thiện quan hệ sản xuất XHCN .

b. Tác dụng của CNH-HĐH :
Thứ nhất là, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nó giúp phát triển lực
lượng sản xuất và tăng năng suất lao động. Khắc phục nguy cơ tụt hậu, giảm dần
khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với các nước phát triển trên thế giới. Đồng thời,
góp phần nâng cao và ổn định đời sống nhân dân .
Hai là, củng cố và tăng cường vai trò của kinh tế Nhà nước, nâng cao năng lực
tích luỹ, tạo công ăn việc làm, khuyến khích sự phát hiển tự do và toàn diện của mỗi
cá nhân.
Thứ ba, CNH-HĐH tạo điều kiện đáp ứng các ỵêu cầu về vật chất-kỹ thuật cho
việc củng cố và tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng. Công nghiệp hoá- hiện đại
hoá có tác dụng trực tiếp và chủ yếu trong việc tạo ra tiềm lực to lớn cho quốc phòng.
Bốn là, tạo điều kiện cho việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, không
phụ thuộc vào các nước khác để có thể tham gia hiệu quả vào sự phân công và hợp
tác quốc tế .
Từ các tác dụng trên chúng ta có thấy được vị trí và tàm quan trọng của công
nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chính vì vậy, CNH - HĐH là nhiệm vụ trọng tâm trong
suốt thời kì quá độ lên XHCN ở nước ta .
Khái niệm công nghiệp hoá - hiện đại hoá (Hội nghị TW 7 khoá VII) :
“Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương
tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát hiển công nghiệp và tiến bộ
khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.

2. Mục tiều, quan điểm công nghiệp hoá-hỉện đại hoá ở nước ta
a, Mục tiêu :
- Tiến hành cách mạng khoa học - kĩ thuật để xây dựng cở sở vật chất - kĩ thuật
cho xã hội chủ nghĩa .
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lao động xã hội.
- Nâng cao mức sống vật chất, tinh thần, dân giàu nước mạnh, xã hội công

bằng, dân chủ,văn minh.
- Củng cố quốc phòng, an ninh vững chắc .
b. Quan điểm :
- Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá và công nghiệp hoá, hiện đại hoá với
phát hiển kinh tế tri thức.
Công nghiệp hoá theo khái niệm truyền thống là quá trình thay thế lao động thủ
công bằng máy móc trong sản xuất .Trong thời đại hiện nay ,công nghiệp hoá phải
gắn với hiện đại hoá do sự phát triển của cách mạng KHKT cùng với xu hướng hội
nhập toàn càu hoá .Vì vậy, chúng ta có thể tận dụng, nhập khẩu công nghệ mới để
phát triển kinh tế ở một số khâu, một số lĩnh vực.
CNH-HĐH phải gắn với phát hiển kinh tế tri thức là vì trên thế giới có nhiều
nước đang chuyển từ nước công nghiệp sang phát hiển kinh tế tri thức. Do đó ta tận
dụng được lợi thế của một nước phát triển sau, ta không cần phát triển tuần tự mà
phát triển theo con đường rút ngắn.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD): kinh tế tri thức là nền kinh
tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối


với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.Là những
ngành kinh tế mới dựa vào tri thức, thành tự khoa học công nghệ như là: công nghệ
thông tin, công nghệ sinh học, nông công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng công nghệ
khoa học cao .
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát hiển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Khác với công nghiệp hoá ở thời kì trước đổi mới, được tiến hành trong cơ chế
tập trung, quan liêu, bao cấp. Được tiến hành theo kế hoạch của nhà nước thông qua
hệ thống chỉ tiêu, kế hoạch, pháp lệnh. Thời kì đổi mới, CNH-HĐH được tiến hành
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhiều thành phần. Do đó
CNH-HĐH không phải chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của
mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo. Phân bổ các nguồn lực

theo cơ chế thị trường. Đồng thời trong thời kì đổi mới, CNH-HĐH nước ta diễn ra
trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, tất yếu phải hội nhập và mở rộng các mối quán
hệ kinh tế quốc tế nha thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm... từ các nước trên thế
giới nhằm sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển .
- Lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triền nhanh và
bền vững.
Trong các yếu tố tham gia vào quá trình CNH-HĐH thì yếu tố con người luôn
được coi là yếu tố cơ bản và quyết định. Các nguồn lực khác đều chịu sự chi phối và
tác động của con người. Nguồn lực con người đòi hỏi phải có đủ số lượng, cân đối về
cơ cấu và trình độ, có khả năng nắm bắt và sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ tiên tiến trên thế giới và có khả năng sáng tạo công nghệ mới. Đe phát triên
nguồn lực con người đáp ứng yêu càu của CNH-HĐH càn đặc biệt chú ý đến phát
hiển giáo dục, đào tạo.
- Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
Khoa học và công nghệ quyết định đến năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, nâng cao lợi thế cạnh hanh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung. Nước ta tiến
lên XHCN từ một nền kinh tế kém phát triền, tiềm lực khoa học công nghệ ở trình độ
thấp. Vì vậy, để tiến hành CNH-HĐH gắn với phát triền kinh tế tri thức thì phải phát
triền công nghệ khoa học .Phải đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ, kết hợp với công
nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghiệp, nhất là
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học...
-Phát triển nhanh hiệu quả cao và bền vững. Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Xây dựng XHCN ở VN thực chất là nhằm thực hiện mực tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đe thực hiện mục tiêu đỏtước hết kinh
tế phải phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, rút
ngắn khoảng cách giữa các vùng .
Sự phát triển nhanh hiệu quả và bền vững có mối quan hệ chặt chẽ với bảo vệ

môi trường tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học. Bảo vệ môi trường tự nhiên chính
là bảo vệ điều kiện sống của con người và cũng là nội dung của sự phát triển bền
vững.


II.
VAI TRÒ CỦA CON NGƯỜI, NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ
1. Con người là nhân tổ chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khác phục vụ cho
qua trinh CNH-HDH
Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên... nó đều chỉ tồn tại ở dưới
dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết hợp với
nguồn lực con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người. Bởi lẽ con người
là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng các nguồn lực khác
gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác động vào quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác chịu sự cải tạo, khai thác của con
người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích của con người nếu con
người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố thì yếu tố con người
quan trọng nhất. Chẳng hạn như vốn, tài nguyên là những nguồn lực để tiến hành
CNH-HĐH nhưng chúng chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết cho sự phát
triển khi nằm trong tay của người biết khai thác và sử dụng chúng. Thiếu sự hiện
diện của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa.
2.
Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt còn
nguồn lực con người là vô tận '
Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn
tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất bong con người xã hội nếu biết chăm lo,
bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực tiễn của con
người phát triền như một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ
tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất

mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao .
3.

Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn

Một khi nó được vật thể hoá để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát
triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang dẫn các
nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế trí tuệ (mà
gọi là tri thức). Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng phát triển và
chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám chiếm tới 1/2
tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến mức nhờ có cuộc
cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước" hay phỏng theo
những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ thuật công nghệ
hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến
sự biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.
4.

Kỉnh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn

Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy, sự
thành công của công nghiệp hoá - hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định
đường lối chính sách, cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Không có những nhà chính khách,
các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học công nghệ... thì khó có thể có được


những chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn. Không có những nhà kinh
doanh tài ba thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn
vốn, tài nguyên, công nghệ.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy được rằng, nguồn lực con người

(nguồn nhân lực) là nguồn lực có vai trò quyết định sự thành công của quá trình công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do vậy muốn công nghiệp hoá - hiện đại hoá
được thành công thì phải đổi mới, quan tâm đến các chính sách đầu tư cho các ngành
khoa học, văn hoá, giáo dục nhằm phát hiển nguồn lực con người.

III. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NƯỚC TA: ƯU
ĐIỂM VÀ HẠN CHẾ. PHÁT HUỸ CÙNG CÁC GIẢI PHÁP
1. Những thế mạnh, ưu điểm nguồn nhân lực ở nước ta. Vận dụng
phát huy vai trò của nó:
a. Lực lượng lao động dồi dào:
Theo số liệu tính đến năm 2009 thì nước ta có khoảng 43.8 triệu người nằm trong độ
tuổi lao động tức chiếm khoảng 51.1% dân số. Mỗi năm có thêm khoảng 1.8 triệu
người bước thêm vào độ tuổi lao động(từ 15 trở lên) trong khi đó số người ra khỏi độ
tuổi lao động (từ 60 trở lên) chỉ là 0.35 hiệu người, dự tính trong các năm tới mức
tăng dân số trong độ tuổi lao động là khoảng 2.5%.Việt Nam đang ở trong giai đoạn
“cơ cấu dân số vàng ”, Với một lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ như vậy sẽ là một
lợi thế lớn, tiềm năng và thế mạnh lớn để giúp cho phát triển kinh tế đối với một
nước đang phát triển và đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta.
b. Tỷ trọng lao động trẻ cao, phần lớn có văn hoá phổ thông. Ở Việt Nam mỗi năm
số dân bước vào độ tuổi lao động là khá cao(1.8 triệu người), lực lượng lao động trẻ
dồi dào và có văn hoá phổ thông có nhiều lợi thế như là có sức khoẻ, năng động, có
khả năng tiếp thu kiến thức nghề nghiệp dễ dàng, ngay cả đối với các ngành mới và
có nhiệt huyết với nghề nghiệp hơn. Một nền kinh tế trẻ, năng động và phát triển.
c. Lượng lao động Việt Nam ờ nước ngoài là khá lớn tập trung ở châu Âu, châu
Mỹ, các nước châu Á phát triển (Nhật Bản, Hàn Quốc) là những nơi có nền kinh tế
phát hiển, có công nghệ khoa học và trình độ phát hiển cao. Trong đó tỉ lệ người có
trình độ nghiệp vụ và chuyên môn cao là đáng kể (khoảng 300.000). Đây là một
nguồn lực quan họng góp phần phát hiển đất nước, là cầu nối giữa để chuyển giao
các công nghệ, tri thức về trong nước và tạo dựng các mối quan hệ hợp tác giữa Việt
Nam với các nước trên thế giới.

d. Người Việt Nam vốn có bản tính hiếu học, thông minh, cần cù lao động và đoàn
kết. Đó là cơ sở cho việc nắm bắt, tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những
sáng tạo, những phát minh, sáng kiến khoa học của nhân loại phục vụ cho sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tính cộng đồng, ý thức trách nhiệm với cộng
đồng được phát huy mạnh mẽ có thể hỗ trợ đắc lực không chỉ cho việc truyền bá tay
nghề, kinh nghiệm nghề nghiệp mà còn có thể giúp nhau về vốn, tạo dựng và phát
triển cơ nghiệp, giúp nhau về công ăn việc làm. Đây là một trong những ưu điểm
mạnh nhất của lạo động Việt Nam.


2. Những mặt hạn chế của nguồn nhân lực nước ta. Nguyên nhân
cùng các giải pháp :
a. Những mặt hạn chế:
- Số lượng đông nhưng tỷ lệ qua đào tạo thấp. Hiện nay nước ta đang thiếu
nghiêm họng các chuyên gia kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, công nhân lành nghề, có
tay nghề cao.Theo kết quả điều ha lao động việc làm thì vẫn còn trên 15% số lao
động chưa tốt nghiệp tiểu học,trong đó chưa biết chữ chiếm gàn 4% ,trong số lao
động trong nhóm tuổi 15-34 tuổi số người không có chuyên môn kĩ thuật chiếm 84%.
Thực tế cho thấy, hiện chỉ có khoảng 35% lao động VN được qua đào tạo và tỷ lệ lao
động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%, 78% thanh niên trong độ tuổi 20-24
khi tham gia vào thị trường lao động chưa được đào tạo nghề hoặc có đào tạo nhưng
vẫn bị hạn chế về kỹ năng nghề nghiệp. Bên cạnh đó, những lao động có hình độ cao
đã được đào tạo hiện nay cũng chỉ đáp ứng được 15-20% yêu cầu của DN. Điều này
dẫn đến việc nhiều DN đang thiếu lao động kĩ thuật. Đây là một trong những trở ngại
lớn nhất khi tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta.
- Đội ngũ cán bộ khoa học tre chất lượng còn ít dẫn đến việc chuyển bị cho thế
hệ kế cận gặp nhiều khó khăn. Theo thống kê, hiện nay trong tổng số 61.000 giảng
viên của các trường đại học, học viện, cao đẳng trong cả nước chỉ có 320 giảng viên
có chức danh giáo sư. Trong số cán bộ khoa học đang làm việc tại các trường có tới
75% đã quá tuổi 50, số cán bộ dưới 35 tuổi chỉ có 8%. Hơn 60% số phó tiến sĩ và

tiến sĩ, hơn 70% phó giáo sư và hơn 90% số giáo sư nằm trong độ tuổi từ 55 đến 60.
Điều này nói lên một thực hạng, đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học trong các
trường đại học, cao đẳng, các cơ sở giáo dục đào tạo đang già đi, trong khi đội ngũ
kế cận lại có biểu hiện không muốn kế thừa bởi nhiều nguyên nhân. Hiện tượng chảy
máu chất xám hiện đang là thực hạng chung mà cần phải có những biện pháp để giữ
chân người tài.
- Cơ cấu, bố trí sử dụng nguồn nhân lực còn bất hợp lí: mất cân đối tỷ lệ về
trình độ nhân lực đã qua đào tạo .Theo thống kê ở nước ta cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại
học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công nhân kỹ thuật, frong khi đó tỷ
lệ này của thế giới là 1,4 và 10. Nước ta hiện nay cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại
học, trong khi đó của thế giới là 100 .Đây chính là tình trạng “thầy nhiều hơn thợ ”.
Ngoài ra việc bố trí sử dụng cán bộ còn bất hợp lí giữa các vùng miền, giữa các
ngành. 80% cán bộ khoa học công nghệ làm việc ở Hà Nội, ở TP.HCM chỉ có 12%.
Bình quân chung của cả nước ta là 118 sinh viên/1 vạn dân nhưng ở Tây Bắc và một
số vùng miền núi khác chỉ là 17 sinh viên/1 vạn dân. Hầu hết các nguồn lao động có
chất lượng đều tập trung ở các thành phố lớn, trong khí đó các vùng miền núi, nông
thôn lại thiếu trầm trọng. Cùng với đó là mất cân đối giữa các ngành đào tạo. Cụ thể,
sinh viên nhóm ngành kinh tế và quản lý chiếm tỷ trọng cao nhất với 29,86%; trong
khi số sv ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 15,29%. O hệ CĐ, sv nhóm ngành sư
phạm lên tới 40%; trong khi nhóm ngành kỹ thuật công nghệ chỉ chiếm 17,63%. Việc
này đã gây ra hiện tượng thừa thiếu lao động giả tạo,gây ra nạn thất nghiệp đặc biệt
trong lao động tri thức.
- Thể chất, sức khoẻ lao động Việt Nam: chất lượng dân số thấp đang là yếu tố
cản trở sự phát triển của xã hội. Mặc dù thời gian qua, chỉ số phát triển con người
(HDI) của Việt Nam liên tục được cải thiện nhưng còn thấp hơn so với nhu cầu phát
triển của Việt Nam. Theo thống kê, có tới 1,5% dân số Việt Nam bị thiểu năng về thể


lực và trí tuệ, trong đó, số trẻ mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyền chiếm khoảng
1,5-3%. Đặc biệt, xu hướng này hiện có dấu hiệu tiếp tục gia tăng do điều kiện sống,

môi trường độc hại và không được phát hiện, điều trị kịp thời. Nhiều nhất chính là số
người bị tàn tật, khuyết tật, hiện chiếm khoảng 6,3% dân số và đang được “bổ sung”
mỗi ngày do tình trạng tai nạn giao thông, tai nạn lao động liên tục gia tăng. Không
chỉ kém về thể chất, tầm vóc và thể lực của người Việt Nam so với nhiều nước trong
khu vực cũng còn hạn chế. Thanh niên Việt Nam không chỉ thấp, bé, nhẹ cân mà còn
yếu về sức mạnh cơ bắp, sức dẻo dai và sức bền. Tuổi thọ bình quân khỏe mạnh của
Việt Nam chỉ đạt 60,2 tuổi, xếp thứ 116/174 nước trên thế giới. Tính trung bình, mỗi
người dân có tới 12 năm ốm đau so với 72,2 tuổi thọ bình quân. Đó là chưa kể đến số
khá đông thanh niên đang trong độ tuổi lao động nhưng thất nghiệp hoặc mắc vào
vòng nghiện ngập, mang trong mình căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS .Vì vậy mặc dù
đang được coi là nằm trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng nhưng chất lượng dân số của
Việt Nam hiện được coi là thấp, đặc biệt là chất lượng thể chất và thể lực.
- Nguồn lao động Việt Nam chưa có nếp sống lao động công nghiệp: tác phong
công nghiệp là một trong những tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá năng lực và hiểu
biết về nguồn nhân lực. Tuy nhiên khái niệm “tác phong công nghiệp” dường như
vẫn xa lạ với số đông người Việt. Sự chậm chạp và lề mề trong công việc vốn đã trở
thành vết hằn ăn sâu vào máu thịt của từng người và chính vì thế, ở mọi lứa tuổi, mọi
cấp bậc, địa vị trong xã hội lúc này hay lúc khác, sự tre nải, lỡ hẹn là không tránh
khỏi. Việc chưa am hiểu tác phong công nghiệp của người lao động thể hiện: chậm
thích ứng với môi trường có sự giám sát chuyên nghiệp, ít quan tâm các nội quy và
chế độ an toàn lao động. Đây là yếu tố làm giảm rất lớn chất lượng lao động Việt
Nam nhất là trong xu thế hội nhập ngày nay sẽ tạo nên một cái nhìn phản cảm trong
con mắt của bạn bè quốc tế.

b. Nguyền nhân:

- Cơ cấu chất lượng giáo dục đào tạo chưa hợp lý: Cơ cấu giáo dục giữa các cấp
bậc ,các ngành học, khối ngành học trong cả nước nói chung và từng khu vực nói
chung còn nhiều bất cập. Mà nguyên nhân chủ yếu là do sự điều tiết của Nhà Nước
về giáo dục còn chưa hiệu quả. Chương trình đào tạo chưa bám sát vào yêu cầu thực

tiễn do chất lượng đào tạo và huấn luyện chưa bám sát vào nhu cầu xã hội và yêu cầu
của người sử dụng lao động. Quy trình đào tạo, huấn luyện tồn tại nhiều bất hợp lý,
lỗi thời. Chưa gắn lý luận với thực tiễn. Đặc biệt đối với các trường nghành kỹ thuật
cơ sở vật chất còn thiếu thốn dẫn đến tình trạng sinh viên được tiếp cận với thực tế
vẫn còn rất hạn chế ảnh hưởng đến chất lượng đàu ra. Học viên học một cách thụ
động do thiếu thông tin và nhận thức mang tính hướng nghiệp. Nhà trường, cơ sở dạy
nghề chỉ dạy và đào tạo những gì mình có, chưa thực sự quan tâm đến việc hang bị
cho người lao động những kỹ năng, kiến thức về xã hội. Từ đó dẫn đến tính kỷ luật
của người lao động còn yếu và ở nhiều ngành nghề còn chưa đáp ứng đúng nhu cầu
thực tiễn. Hầu hết người lao động sau khi được đào tạo đều bỡ ngỡ khi bước vào môi
trường làm việc thực sự, nhiều doanh nghiệp cho rằng hầu hết phải đào tạo bổ sung
hoặc đào tạo lại sau khi tuyển dụng.
- Lực lượng và cở sở trang thiết bị để chăm sóc, cải thiện sức khoẻ người dân
vẫn còn quá thiếu thốn (đặc biệt là ở vùng núi, vùng sâu vùng sa) dẫn đến thể trạng
và sức khoẻ lao động vẫn dậm chân tại chỗ. Đa số cơ sở sản xuất kinh doanh chưa có
cán bộ y tế, việc thực hiện đo môi trường lao động và khám sức khỏe định kỳ cho
người lao động chưa thường xuyên; việc phối hợp trong công tác kiểm tra, giám sát


về công tác bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động và chăm sóc sức
khoẻ cho người lao động còn hạn chế.
- Chưa đầu tư thích đáng cho giáo dục, dạy nghề và hướng nghiệp. Trong hệ
thống các trường chuyên nghiệp hiện nay có rất ít trường có cơ sở vật chất và hang
thiết bị dạy học đủ hấp dẫn và thuyết phục người học, đa số còn yếu kém thiếu thốn
nên chưa thật sự đáp ứng nhu càu sử dụng của xã hội. Điều kiện về cơ sở vật chất,
thiết bị kỹ thuật hiện đại để đào tạo các ngành thuộc lĩnh vực công nghệ cao như điện
tử - tin học, viễn thông... để đáp ứng nhu càu phát triền các ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước còn chưa đáp ứng được. Cùng với đó vấn đề định hướng nghề nghiệp
cũng không được chú trọng nhiều .
- Đội ngũ giảng dạy, đào tạo giáo dục, kiến thức nghề nghiệp còn thiếu và yếu

về số lượng cũng như năng lực. Do hệ thống dạy nghề đa dạng về cả loại hình cơ sở,
ngành nghề và trình độ đào tạo nên đội ngũ giáo viên dạy nghề(GVDN) của cả nước
nói chung đa dạng về mọi mẳt trình độ không đồng đều nên những tồn tại của đội
ngũ giáo viên hiện nay không phải là ít. Những tồn tại, yếu kém của đội ngũ GVDN
hiện nay nổi lên mấy vấn đề là thiếu về số lượng, không đồng bộ về cơ cấu ngành
nghề đào tạo. Đặc biệt thiếu nghiêm họng giáo viên cho các nghề mới, thiếu giáo
viên giỏi thực sự. Mặt khác, giáo viên dạy nghề nước ta ít được tiếp cận với khoa học
kĩ thuật, công nghệ sản xuất hiện đại nên chất lượng đào tạo nghề chắc chắn bị hạn
chế. Không những thế, họ còn nhiều hạn chế về năng lực sư phạm, cũng như trình độ
ngoại ngữ, tin học nên việc giảng dạy, cũng như khai thác, sử dụng các phương tiện
kỹ thuật dạy học hiện đại vào đào tạo nghề còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế việc đào
tạo GVDN ở các trường sư phạm kỹ thuật hiện nay là quá ít ( chiếm khoảng 10%),
trong khi nhu cầu của xã hội ngày càng nhiều hơn. Điều này đặt ra sự cần thiết phải
có những phương hướng, mô hình đào tạo GVDN một cách linh hoạt để đáp ứng nhu
cầu đào tạo giáo viên cho nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội, đồng thời phải
gắn đào tạo với mục đích sử dụng họ sau khi ra trường. Bởi lẽ, đào tạo nghề có vị trí
rất quan trọng trong việc tạo ra nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH - HĐH và phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần xoá đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu
phát triển bền vững.
- Một bộ phận nhỏ lao động chưa nhận thức đày đủ về việc phải nâng cao trình
độ văn hoá, tay nghề, còn thờ ơ với nếp sống lao động công nghiệp .Mặc dù đã tăng
cường công tác tuyên truyền về học nghề, dạy nghề, nhưng một bộ phận lớn người
dân vẫn chưa nhận thức đúng mức về vai trò của đào tạo nghề; một số cấp, ngành,
địa phương chưa có phương án chuẩn bị nguồn nhân lực kỹ thuật, phục vụ phát hiển
bền vững KT-XH của địa phương. Một bộ phận lớn học sinh tốt nghiệp THCS,
THPT, thanh niên chưa hiểu đúng và lựa chọn học nghề là con đường lập thân, lập
nghiệp phù hợp với khả năng, điều kiện của mình .

c.


Các giải pháp :

Để khắc phục những hạn chế của nguồn nhân lực nước ta, tạo ra sự thay đổi căn
bản về chất lượng trong nguồn lực con người cần có hàng loạt những giải pháp thích
ứng tạo ra những sự chuyển biến căn bản, toàn diện nhằm phát hiển tốt yếu tố con
người, nguồn nhân lực. Nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước trong sự
nghiệp công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước thời kì đổi mới. Sau đây chúng em
xin đưa ra một số giải pháp sau :
- Điều đầu tiên quan trọng nhất là phải xác định rõ nguồn nhân lực là tài
nguyên quý giá nhất trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước
không lấy gì là nhiều tài nguyên thiên nhiên, nếu không nói quá là ít như nước ta thì


phải lấy nguồn nhân lực làm tài nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực.
Phải xác định rõ như vậy thì mới có được những chính sách, chiến lược phát hiển đầu
tư cho nguồn nhân lực một cách thích đáng, họng tâm, trọng điểm.
- Nâng cao, đổi mới chất lượng giáo dục, đào tạo, chất lượng lao động: phải
tiếp tục xoá mù chữ, phổ cập giáo dục, đổi mới phương pháp giáo dục sao cho có
hiệu quả hơn, tăng cường các trang thiết bị học tập cần thiết phục vụ cho giáo dục.
Đồng thời phải đầu tư, mở rộng quy mô giáo dục để đáp ứng kịp nhu cầu phát triền
của đất nước. Cùng với đó, đào tạo nguồn lao động có những kiến thức cơ bản, làm
chủ kĩ năng nghề nghiệp, có ý thức vươn lên. Đào tạo nghề từ sơ cấp đến các cấp bậc
cao hơn. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà khoa học,
nhà văn hóa. vấn đề đặt ra càn phải tập trung và chăm sóc bồi dưỡng, đào tạo phát
huy sức mạnh của con người Việt Nam thành lực lượng lao động xã hội, lực lượng
sản xuất có đủ bản lĩnh và kỹ năng nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triền đất nước,
đủ sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc hợp tác cạnh hanh trong kinh tế thị trường mở
cửa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể các trường chuyên
nghiệp và đại học tập trung vào đào tạo nguồn nhân lực đủ khả năng tiếp cận công
nghệ tiên tiến. Phải mau chóng làm cho khoa học và công nghệ trở thành nền tảng

của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giáo dục đại học phải kết hợp với nghiên cứu
khoa học, phát triển khoa học cả về cơ bản và ứng dụng. Bảo đảm tập trung đào tạo
đội ngũ nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá với diện đại trà, đồng thời đặc
biệt chú ý tới mũi nhọn - có chính sách phát hiện bồi dưỡng và sử dụng người tài
,mau chóng tăng cường đội ngũ nhân lực có trình độ và năng lực cao, từ các nghệ
nhân làm các nghề truyền thống đến các chuyên gia công nghệ cao. Giáo dục và đào
tạo kết hợp chặt chẽ với khoa học kỹ thuật công nghệ mới có thể đóng góp xứng
đáng vào phát huy nguồn lực con người. Tuy nhiên một yếu tố mà ngày nay con
người cần phải hoàn thiện đó là cần coi họng mặt đạo đức nhân cách của nguồn lực
con người.
- Đe tránh tình trạng thầy nhiều hơn thợ, ngành, nơi này thừa lao động ngành
kia lại thiếu, thiếu hụt lớp lao động kế cận thì cần phải có những điều chỉnh cơ cấu
lao động phải hợp lí hơn giữa trình độ, nghành nghề, độ tuổi. Cùng với đó phải có
những kế hoạch, chính sách phân bố lao động phải hợp lí hơn giữa các vùng miền,
khu vực để tránh tình trạng những thành phố lớn phát triển dư thừa nhân lực trong
khi các vùng miền núi, nông thôn kém phát triển lại thiếu những nguồn lao động.
Dẩn đến sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền trong cả nước. Điều chỉnh hợp
lý cơ cấu bậc họ, cơ cấu nghành, nghề, cơ cấu vùng trong hệ thống giáo dục và đào
tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội và
các mục tiêu của chiến lược. Chú họng giáo dục hướng nghiệp thiết thực trong
trường phổ thông. Mở rộng đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và nhân viên nghiệp vụ
theo nhiều trình độ. Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại học, sau đại học,
tập trung xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia mang tầm khu vực,
tiến tới đạt trình độ quốc tế. Phát triền giáo dục thường xuyên và đào tạo từ xa. Nhà
nước dành ngân sách đưa người giỏi đi đào tạo ở các nước phát hiển, khuyến khích
tạo thuận lợi cho việc học tập và nghiên cứu nước ngoài. Coi họng đào tạo đội ngũ
công nhân tay nghề cao, có kỹ thuật thực hành và nhà kinh doanh giỏi. Ưu tiên đào
tạo nhân lực phục vụ phát triển nông nghiệp và nông thôn, miền núi, xuất khẩu lao
động, một số nghành mũi nhọn. Phát triển và nâng cao chất lượng các trường dân tộc
nội trú, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số .

- Phải có những chính về sức khoẻ và y tế để cải thiện thể trạng và sức khoẻ lao


động. Đảng và Nhà nước cần phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triền
nhân tố con người .càn phải có những đàu tư thích đáng về y tế, trang thiết bị phục
vụ cho y tế tới các vùng miền sâu sa (những nơi thường thiếu thốn các cơ sở y tế,
trang thiết bị dẫn đến tình trạng sức khoẻ kém, thường xuyên bệnh tật, tre em suy
dinh dưỡng) nhằm cải thiện sức khoẻ và càn có những chính sách để nâng cao chất
lượng cuộc sống con người. Đảm bảo cho họ có sức khoẻ dồi dào, sức khoẻ minh
mẫn. Phải thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động, cải thiện điều kiện lao động, ngăn
ngừa tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe người lao động ngày
một tốt hơn đòi hỏi cần có sự chỉ đạo tập trung, thống nhất; tăng cường sự phối hợp
giữa các cấp, các ban/ngành trong việc xây dựng kế hoạch, kiểm tra, giám sát hoạt
động về công tác bảo hộ lao động, đặc biệt quan tâm đến các doanh nghiệp có nhiều
yếu tố nguy hiểm, độc hại; tổ chức tốt công tác tuyên truyền, vận động các doanh
nghiệp thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các văn bản pháp qui về an toàn lao động, vệ
sinh lao động, phòng chống bệnh nghề nghiệp có như vậy mới chăm sóc tốt sức khỏe
cho người lao động, hạn chế và đẩy lùi tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Các chính sách xã hội hoá việc làm cần phải được phát huy để tận dụng được
tối đa nguồn nhân lực .Khôi phục các làng nghề, phố nghề truyền thống để huy động
tổng lực các nguồn lực của các thành phần kinh tế, tổ chức xã hội, mọi người dân. Cơ
sở kinh tế hộ gia đình, cơ sở doanh nghiệp ngành nghề ở nông thôn, doanh nghiệp
vừa và nhỏ có thể thu hút nhiều lao động, tạo công ăn việc làm. Vì vậy, cần phải
được tạo điều kiện phát triền. Đồng thời tổ chức các hội chợ việc làm, các buổi thảo
luận, hội nghị hướng nghiệp nhằm tạo điều kiện giúp đỡ nguồn nhân lực có được
công ăn việc làm, tránh tình trạng thất nghiệp. Tổ chức và có những chính sách đối
với lao động đi làm việc ở nước ngoài và thu hút các thành phần kinh tế tham gia đưa
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
- Đảng và Nhà nước cần có chính sách rõ ràng, minh bạch, đúng đắn đối với
việc việc sử dụng, trọng dụng nhân tài, nhất là trọng dụng các nhà khoa học và

chuyên gia thật sự có tài năng cống hiến. Phải có sự phân biệt rành mạch giữa tài thật
và tài giả, giữa những người cơ hội và những người chân chính trong các cơ quan
công quyền. Không giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng, thì nhân tài của đất
nước sẽ lại "rơi lả tả như lá mùa thu", "vàng thau lẫn lộn", làm cho những người thật
sự có tài năng không phát triển được, trong khi đó, những người cơ hội, “ăn theo nói
leo”, xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các cơ quan công quyền. Đồng thời, sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá không chỉ diễn ra trong ngày một ngày hai mà là
trong nhiều năm bởi vậy cần phải có những chính sách, kế hoạch nhằm đào tạo, bồi
dưỡng lực lượng lao động kế cận. Bên cạnh đó, càn phải bồi dưỡng cho lực lượng lao
động về lối sống, đạo đức, chính trị-tư tưởng, pháp luật. Tài phải đi đôi với đức .


Tóm lại việc giáo dục đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách hợp lý để phát triển,
sử dụng, không ngừng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hóa là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ họng
tâm trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước. Mặc dù, chúng ta cũng đã
đạt những thành tựu và kết quả nhưng so với yêu câu phát triển kinh tế xã hội
thì vẫn chưa đáp ứng được. Chính bởi vậy, Chính phủ và Nhà nước ta cần phải
có những chính sách, chiến lược phát triển nguồn nhân lực một cách hợp lý hơn
nữa. Đe sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá nước ta đạt được những kết
quả và thành tựu to lớn.

LỜI KẾT

Để phát triển kinh tế kinh tế - xã hội thì dựa trên rất nhiều nguồn lực: nhân lực
(nguồn lực con nguời), vật lực (công cụ lao động, đối tuợng lao động, tài nguyên
thiên nhiên...), tài lực (nguồn lực về tài chính, tiền tệ...). Song chỉ có nguồn lực con
nguời mới tạo ra động lực phát triển, những nguồn lực khác muốn phát huy tác dụng
thì đều phải thông qua nguồn lực con nguời. Do vậy, trong bất cứ xã hội nào, đất
nước nào thì vấn đề đào tạo và phát huy sức mạnh của nguồn nhân lực cũng đóng

một vai trò cực kì quan trọng. Đặc biệt ở nước ta hiện nay, đang trong thời kì công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì nó lại càng được coi trọng hơn nữa. Con người
Việt Nam đã làm được nhiều điều kì diệu trong lịch sử và chắc chắn cũng sẽ làm
được những điều đó để phát triển đất nước. Như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng
nói: “ Nhìn lại thế kỉ XX, dân tộc Việt Nam dũng cảm và thông minh đã làm được
những điều tưởng như không làm được, đã làm cho hiện thực lịch sử trở thành huyền
thoại. Bước vào thế kỉ XXI và thiên niên kỉ mới, dân tộc ta với hoài bão lớn và trí tuệ
sáng tạo sẽ có những ước mơ tưởng như huyền thoại và quyết biến những ước mơ ấy
thành hiện thực lịch sử ”. Mong rằng, nước ta sẽ trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại hoá trong một tương lai gần nhất để có thể sánh vai với các
cường quốc năm châu.
Mặc dù, đã cố gắng rất nhiều nhưng bài thảo luận của nhóm em cũng không
tránh khỏi những sai sót. Em mong được sự giúp đỡ và đóng góp của cô để bài thảo
luận của chúng em được tốt và hoàn thiện hơn .



×