Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Nội dung Tiểu Luận Mác Lê Nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.7 KB, 14 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Mâu thuẫn là hiện tượng có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy
con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuật hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong
mỗi sự vật, mâu thuẫn không chỉ hình thành chỉ một mà là nhiều mâu thuẫn, và sự vật
trong cùng một lúc có nhiều mặt đối lập thì mâu thuẫn này mất đi sẽ có mâu thuẫn
khác hình thành.
Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng trong phép biện chứng duy vật. Đã
được coi là hạt nhân của phép biện chứng vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận
động và phát triển, đã chỉ ra nguyên nhân của sự thay đổi cái này thành cái khá, đồng
thời nó tác động đến tất cả quy luật và phạm trù của phép biện chứng.
Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, có rất nhiều mâu thuẫn trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây là một vấn đề quan tâm của Đảng và Nhà nước,
nhiều bài báo, cuộc họp đã bàn luận về vến đề bức xúc này. Và mặc dù đã có nhiều lý
luận và đề tài đề cập tới sự hoạt động của quy luật mâu thuẫn trong nền kinh tế thị
trường Việt Nam nhưng với em là một sinh viên em tù nhận thấy rằng việc tiếp tục
nghiên cứu và khai thác những khía cạnh của quy luật này trong tình hình thị trường
Việt Nam hiện nay sẽ không những giúp cho mình hiểu biết sâu sắc về vấn đề này mà
còn góp một phần nhỏ bé vào việc phát triển lý luậ, vào sự phát triển kinh tế ở Việt
Nam. Với mong muấn đó em đã chọn đề tài : “Quy luật mâu thuẫn vàý nghĩa phương
pháp luận”. Đề tài này dược nghiên cứu trên cơ sở sử dụng phương pháp luận dụy vậtt
biện chứng Mác – Lênin.
Với những hiểu biết đang còn rất hạn chế chắc chắn sẽ không tránh được
những sai lầm trong bài viết của mình mong nhận được sự thông cảm và nhận xét của
quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn.
1


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VỀ QUY LUẬT MÂU THUẪN
1.1. Khái lược lịch sử quan niệm về mâu thuẫn


Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác đông qua lại
của cái đối lập và xem sự tác động qua lại đó là cơ sở của vận đông của thế giới.
Nhiều đại biểu triết học phương Đông đã xem vận động là do sự hình thành những đối
lập và cá đối lập ấy cũng luôn vận động.
Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Heraclit – người được V.I.Lênin coi là ông tổ của
phép biện chừng, cho rằng trong sự vận động biện chứng vĩnh viễn của mình, các sự
vật đều có khuynh hướng chuyển sang mặt đối lập.
Trên quan điểm duy tâm khách quan, Platon đã đi tới quan điểm xem xét phép
biện chứng là học thuyết về sự vận đông của khái niệm. Bản chất phép biện chứng của
Platon là ở chỗ, ông cho rằng khi giải quyết bất kỳ vấn đề nào cũng phải xuất phát từ
hai luận điểm đối lập, và phải xem xét cái gì đứng đằng sau các luận điểm đối lập ấy –
khi lấy ra một cách tự nó và lấy ra trong quan hệ với cái kia.
Trước khi phép biện chứng Mácxít ra đời, tư tưởng biện chứng về những đối
lập đạt đực đỉnh cao nhất trong sự phát triển trong học thuyết biện chứng của các nhà
triết học cổ điển Đức, tiêu biểu là Cantơ và G.V.Hêghen.
Các antinomi ( mỗi antinomi hình thành từ hai phân đoán trái ngược nhau về
cùng một sự vật, trong cùng một quan hệ nhưng cả hai đều đúng. Trong giới hạn nhận
thức đương thời, người ta chỉ có thể chấp nhận một trong hai phán đoán đó. Antinomi
là một loại mâu thuẫn biện chứng) cùa Cantơ xuất hiện trên cơ sở vượt quá trình độ
nhận thức có tính chất kinh nghiệm. Lần đầu tiên qua các antinomy, Cantơ đã xem các
mặt đối lập là những đối lập về chất. Nhưng do không giải quyết được vấn đề các
antinomy, Cantơ đã đi tới việc từ bỏ thưa nhận các mậu thuẫn khách quan. Ông xem
sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên sự bất lực của con người trong việc
nhận thức thế giới.
Khi nghiên cứu pháp biện chứng với tư cách sự vận động và phát triển của “ ý
niệm tuyệt đối”, Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất
( đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt và mâu thuẫn). Ông cho rằng đó là một sự

2



đồng nhất trừu tượng, trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lý nào. Trong
quan niệm của ông, bất kỳ sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn.
Hơn nữa, Hêghen cũng là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá
trình vận động và phát triển. Ông khẳng định: “ Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả
mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực chứa đựng trong bản
thân nó một mâu thuẫn, thì nó mới vận động mới có xung lực và hoạt động”; “ tất cả
mọi sự vất đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”.
Song, do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp của mình, Hêghen đã
không phát triển học thuyết mâu thuẫn đến mức triệt để. Điều đó cang thể hiện rõ khi
ông nghiên cứu các vấn đề xã hội. Bằng tư duy biện chứng của mình, Hêghen đã chỉ
ra tính mâu thuẫn không thể điểu hoà được , trong “xã hội công dân”, nhưng khi giải
quyến mâu thuẫn của nó, ông lại đẩy nó vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý.
Kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu có giá trị nhất trong toàn
bộ lịch sử hơn 2000 năm của triết học, dựa trên những thành quả mới nhất của khoa
học hiện đại ( cả khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội và nhân văn) và khái quát thực
tiễn thời đại mình, C. Mác và Ph. Angghen đã phát triển học thuyết mâu thuẫn biện
chứng lên một tầm cao mới Nhờ có lý luận mâu thuẫn biện chứng và sự vân dụng lý
luận đó và đời sống xã hội đương thời, hai ông đã phát hiên đúng mâu thuẫn nội tại
của Chủ Nghĩa Tư Bản, làm sáng tỏ nội dung, tính chất của những mâu thuẫn đối
kháng trng xã hội đó, trước hết là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá lực lượng sản
xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất. Mâu
thuẫn kinh tế nêu trên được thể hiên trên lĩnh vực xã hội thành mâu thuẫn giữa tư sản
và vô sản. Qua đó, các ông chỉ ra rằng: lực lượng xã hội cơ bản lãnh đạo cuộc cách
mạng nhằm xoá bỏ chế độ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới- xã hội chủ nghĩa, cộng sản
chủ nghĩa- là giai cấp vô sản.
Như vậy, bằng việc kế thừa những thành quả tư tưởng biện chứng về mâu
thuẫn, bằng việc tổng kết thực tế lịch sử loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đã cho rằng, chúng ta phải tìm xung lực vận động và phát triển của sự vật trong
chính sự vật, trong nhưng mâu thuẫn của bản thân sự vật. Quan điểm lý luận đó được

thể hiện tập trung ở quy luật thông nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Quy luật này
đề cập đến vấn đề cơ bản, quan trọng nhất của phép biện chứng: vấn đề nguồn gốc và
động lực của sự phát triển.
3


1.2. Nội dung cơ bản của quy luật
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được
làm sang tỏ thông qua những khái niệm cơ bản: “quy luật”, “đối lập”, “mặt đối lập”,
“mâu thuẫn”, “thống nhất của các mặt đối lập”, “đấu tranh của các mặt đối lập”, “mối
quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập”.
Quy luật là những mối quan hệ bên trong, tất yếu ổn định và lặp đi lặp lại,
quyết định sự tồn tại và phát triển của các sự vật hiện tượng.
Quy luật giúp ta nắm vững được bản chất, xu hướng tính tất yếu của đối tượng.
Trong khoa học tự nhiên quy luật được gọi là định luật. Nếu nhưng quy luật của khoa
học cụ thể chỉ tác động trong một lĩnh vực đối tượng cụ thể của thế giới, thì những
quy luật mà triết học nghiên cứu là những quy luật tác động phổ biến trong tất cả các
lĩnh vực khác nhau của thế giới. Để khái quát những quy luật là dựa trên sự khái quát,
những thành tựu của khoa học cụ thể.
- Đối lập là sự trái ngược loại trừ và phủ định nhau của khuynh hướng khác nhau
-

của sự vật.
Mặt đối lập: là tập hợp nhưng yếu tố, những khuynh hướng trái ngược nhau,
loại trừ lẫn nhau trong các sự vật, hiện tượng. Mặt đối lập không phải là từng
yếu tố, từng khuynh hướng đối lập nhau trong sự vật mà là tập hợp chính thể
của chúng và cùng tồn tại trong một sự vật nào đó.
Các mặt đối lập thường tồn tại dưới hình thức là các cặp mặt đối lập, ở trong

cùng một sự vật tạo nên tính chỉnh thể của sự vật. Đây là điểm quan trọng để chứng

minh sự vận động, phát triển của các vật hiên tượng là do “tự vận động” nguyên nhân
vận động ở bản thân sự mâu thuẫn của sự vật chứ không phải do tác động của một lực
lượng sức mạnh bên ngoài.
Mâu thuẫn xã hội cũng được hình thành từ những mặt đối lập tồn tại trong bản
thân xã hội đó, là sự vận động tất yếu và khách quan. Mâu thuẫn là sự tập hợp, sự liên
hệ của các mặt đối lập thì tạo ra mâu thuẫn.
- Thống nhất của các mặt đối lập.
+ Chỉ mối liên hệ không tách rời nhau gữa các mặt đối lập
+ Sự thống nhất của các mặt đối lập do chúng ở trong cùng một sự vật nên chúng
đồng nhất.
+ Ở giai đoạn đầu tiên của mâu thuẫn, khi đó các mặt đối lập chưa phân hoá, chưa
hình thành là các mặt đối lập đồng nhất nhau về cơ bản.

4


+ Sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập, sự thâm nhập vào nhau cảu các mặt
đối lập. Trong những yếu tố, thuộc tính của mặt đối lập này tồn tại trong mặt đối lập
kia và ngược lại.
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập:
+ Là một quá trình tức là có khởi đầu, diễn biến và kết thúc.
+ Sự chuyển hóa này có thể xảy ra trong ba khả năng
o Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lặp kia và ngược lại.
o Các mặt đối lập kết hợp với nhau để tạo thành một sự vật mới, hoặc một cặp
mặt đối lập cao hơn.
o Hai mặt đối lập có thể kết hợp với nhau một cách tạm thời trong một thời
gian hoặc khoảnh khắc nào đó.
Về thực chất đấu tranh giữa các mặt đối lập là đấu tranh giữa cái đang nảy sinh
và cái cũ đang trở nên lạc hậu và lỗi thời, là sự tác động qua lại loại trừ, phủ định lẫn
nhau của các mặt đối lập.

-

Mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
+ Là hai quá trình không tách rời nhau.
+ Thống nhất có khuynh hướng giữ cho sự vật ổn định. Đấu tranh giữa các mặt
đối lập có khuynh hướng phá vỡ sự ổn định.
Bản chất của quy luật: thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
mối liên hệ bên trong, tất yếu, lặp đi lặp lại và quyết định nguồn gốc của sự
phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Việc hiểu rõ và thấu đáo quy luật mâu thuẫn sao cho đúng với tinh thần
của chủ nghĩa Mác – Lênin là điều cần thiết nhưng không dễ dàng. Quan điểm
về mẫu thuẫn của chủ nghĩa Mác – Lênin là quan điểm về mâu thuẫn viện
chứng, chứ không phải là quan điểm về một thứ mâu thuẫn thuần túy, siêu hình,
máy móc. Vì thế phải đặt ra vấn đề là cách hiểu về mâu thuẫn viện chứng với
tính chất là động lực của sự phát triển là như thế nào.
“Cho đến nay, chúng ta có thể thấy có không ít định nghĩa về mâu thuẫn
biện chứng khác nhai. Chẳng hạn, Bách khoa Triết học của Liên Xô xem mâu
thuẫn biện chứng là quan hệ căn bản giữa các nhân tố đối lập trong cùng một
hệ thống, là mâu thuẫn bên trong một bản chất, vốn có của một bản chất. Còn
G.M. Stơrắc cho rằng: mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập tạo thành nguồn gốc bên trong của bất kì sự phát triển nào.
Xiuxiucalo lạo xem mâu thuẫn là mối quan hệ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau.
5


Trong tác phẩm “Các vấn đề phép biện chứng chủ nghĩa chính muồi”, các giáo
sư Đuđen và Kazơlốpxki đưa ra quan niệm sau về mâu thuẫn biện chứng: “Mâu
thuẫn biện chứng là mối quan hệ căn bản - khách quan cả sự thống nhất và đấu
tranh, loại trừ lân fnhai và thâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập biện chứng (
những mặt này không có giá trị như nhau ) trong các sự vật, các quá trình, các

hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mâu thuẫn biện chứng được nhận thức không phải bằng tư duy thông
thường mà bằng tư duy khoa học ( không phải bằng logic hình thức mà bằng
logic biện chứng ), trong cùng một mối quan hệ chứ không phải trong những
mối quan hệ khác nhau, trong tính động của sự xuất hiện và triển khai và được
giải quyết, được khắc phục chứ không phải bằng tiêu diệt hay điều hòa. Mâu
thuẫn biện chứng là nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Việc giải quyết nó
có ý nghĩa là dứt đoạn của tính liên tục, là sự nhảu vọt trong qua trình phát
triển, là sự chuyển hóa thành trạng thái mới về chất với nội dung mới”.
Tuy không đáp ứng được tính ngắn gọn của một định nghĩa nhưng trong
nhiều định nghĩa khác nhau về mẫu thuẫn biện chứng, quan niệm vừa nêu có
những ưu điểm cơ bản. Nó nói lên được bản chất kết cấu của mâu thuẫn biện
chứng, phương thức và quá trình nhận thức nó - tức là đề cập hai mặt vấn đề
cơ bản của triết học trong quan niệm duy vật biện chứng về mâu thuẫn. Đoạn
vừ nêu cho ta biết cả kết cấu, bản chất, chức năng và các giai đoạn phát triển
của giải quyết mâu thuẫn biện chứng.
Từ quan niệm chung đó về mau thuẫn biện chứng, chúng ta cần hiểu lại
khái niệm về mặt đối lập.
Liệu có phải mặt đối lập trong hiện thực đều là đối lập biện chứng
không? Chẳng hạn, ngày và đêm, bên phải và bên trái, mặt trên và mặt dưới…
Theo A.N. Avêrianốp, những mặt vừa nêu là những mặt chết cứng, mâu thuẫn
giữa chúng không phải là nguồn gốc của sự phát triển. Như vậy, có thể nói
không phải mọi đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng phải là những mặt mà
sự tác động qua lại giữa chúng tạo thành nguồn gốc của sự phát triển.
Các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng luôn luôn tồn tại đồng
thời trong hai trạng thái: một mặt chúng luôn thống nhất với nhau, mặt khác
chúng luôn đấu tranh với nhau. Song, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là gì? Trả lời câu hỏi đó không đơn giản. Vấn đề là ở chỗ đôi khi người
6



ta lại sử dụng những khác niệm ngôn ngữ hàng ngày để hiểu những phạm trù
triết học, làm mất ý nghĩa thế giới quan triết học và phương pháp luận của nó.
Chẳng hạn, “thống nhất” trong đời sống hàng ngày chỉ được hiểu là sự đồng
tâm

nhất

trí,

loại

trừ

mọi

sự

khác

biệt.

Còn

“đấu tranh”, đặc biệt là khi vận dụng thuật ngữ đó vào đáu tranh giai cấp, vào
đấu tranh giữa CNXH1 và CNTB2, thì người ta thường chỉ hiểu đó là sự thủ tiêu
lẫn nhau, thậm chí đó là sự thủ tiêu bằng bạo lực. Như vậy người ta đã đưa các
đặc thù thành cái phổ biến, thậm chí lấy quan điểm siêu hình thay thế cho quan
điểm biện chứng trong cách hiểu phạm trù đó.
Với tư cách là một phạm trù triết học, sự thống nhất của các mặt đối lập

mang nội dung quan trong nhất là tính không thể tách rời, là sự đòi hỏi có nhai,
làm điều kiện tiền đề cho nhau. Diễn đạt tư tưởng đó, Mác cho rằng giai cấp vô
sản và sự giài có là những mặt đối lập; là những đối lập, hai mặt đó cấu thành
một chỉnh thế thống nhất nào đó…; chế độ tư hữ với tư cách là chế độ tư hữu…
bắt buộc phải duy trì dự tồn tại của bản thân nó và do đó, duy trù cả sự tồn tại
của cái đối lập với nó, giai cấp vô sản.
Ngoài ra, sự thống nhất của các mặt đối lập vòn bao hàm nội dung về sự
phù hợp, sự giống nhau, sự đồng nhất - thậm chí có sự đồng nhất với nhau về
bản chất- khi xét về một phương diện nào đó. Đề cập đến vấn đề này, Mác cho
rằng “Cực Bắc và cực Nam là những cực như nhau, bản chất của chúng là đồng
nhất”.
“Đồng nhất” biểu hiện rõ nhất khi có sự chuyển hóa lẫn nhai của các
mặt đối lập. Đó là điểm nút trong sự phát triển của cuộc đấu tranh giữa các mặt
đối lập và được đánh dấu bằng việc giải quyết mâu thuẫn. Khi chú ý tới tầm
quan trọng của trạng thái đó, Lênin xem phép biện chứng như là học thuyết về
sự thống nhất của các mặt đối lập.
“Đấu tranh giữa các mặt đối lập” cũng là một phàm trù có nội dung
phức tạp. Có đấu tranh kích thích lẫn nhau cùng phát triển, có đấu tranh đã tới
sự thủ tiêu của một mặt và mặt kia cũng thay đổi. Đấu tranh giữa các mặt đối
lập vũng diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Tính đa dạng của hình thức
1 Chu Nghia Xa Hôi
2 Chu Nghia Tư Bản

7


đấu tranh phụ thuộc vào bản chất của mâu thẫn, trạng thái của mâu thuẫn và
điều kiện trong đó diễn ra cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Do vậy, bất kì sự
tuyệt đối hóa nào một trong những hình thức đấu tranh, dù là tiêu biểu nhất,
trong một lĩnh vực nào đó thành hình thức mang tính phổ biến đều bóp chết nội

dung biện chứng của phạm trù đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Nội dung đó quan trọng nhất của học thuyết mâu thuẫn viện chứng là
vai trò của nó đối với sự vận động và phát triển. Nhưng ngay trong vấn đề cơ
bản này, cũng có những ý kiến rất khác nhau. Một số người cho rằng, không
phải trong giai đoạn tồn tại của mình, mâu thuẫn đều là nguồn gốc của sự vận
động và phát triển. Theo các tác giả đó, mâu thuẫn ở gian đoạn đầu là nguồn
gốc phát triển, ở giai đoạn sau ( tức là khi đã gay gắt ) thì biến thành cái kìm
hãm, ở giai đoạn này mâu thuẫn đòi hỏi phải được giải quyết ngay.
Số người khác lại cho rằng: trong hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn
biện chứng, chỉ có một mặt đóng vai trò thúc thúc đẩy sự phát triển, còn mặt
kia kìm hãm. Ví dụ: Trong mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản,
giai cấp vô sản thì thúc đẩy, giai cấp tư sản thì kìm hãm việc giải quyết mâu
thuẫn.
Một số tác giả lại cho rằng không phải mâu thuẫn nói chung, mà chỉ có
sự đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là nguồn gốc của sự vận động và phát
triển.
Từ những điều trình bày trên đây, có thể nêu ra một số đặc trưng phổ
biến của mâu thuẫn biện chứng như sau:
- Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan trong các sự vật và hiện
tượng.
- Mâu thuẫn biên chứng mang tính phổ biến. Điều đó không chỉ được
hiểu là trong mọi sự vật đều có mâu thuẫn, thậm chí có nhiều mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn biên chứng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập biện chứng. Sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, đấu tranh là
tuyệt đối.

8


- Mâu thuẫn biện chứng tạo thành nguồn gốc của sự vận động và phát

triển của tự nhiên, của xã hội và tư duy.
- Mâu thuẫn biện chứng cũng là một thực thể vẫn động và phát triển.
Trong các giai đoạn khác nhau, chúng ta có thể có hình thức đấu tranh khác
nhau, có vai trò khác nhau với sự vận động và phát triển.
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng. Những đặc
trưng trên đây chắc chắn biểu hiện cụ thể không hoàn toàn như nhau trong mâu
thuẫn của giới tự nhiên, của xã hội và của tư duy. Do vậy, việc nghiên cứu đặc
điểm mẫu thuẫn biện chứng trong đời đóng xã hội trở thành vấn đề cần thiết.

Chương 2.Ý nghĩa phương pháp luận. Biểu hiện của mâu
thuẫn cở bản hiện nay và phương hướng giải quyết chúng
2.1.

Ý nghĩa phương pháp luận quy luật mâu thuẫn
Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự

vật và là khách quan trong bản thân sự vật nên cần phải phát hiện ra mâu thuẫn
của sự vật bằng cách phân tích sự vật tìm ra những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau và mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa chúng.
Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, biết phân loại mâu
thuẫn và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn.
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn – phù hợp với từng loại
mâu thuẫn, trình độ phát triển của mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn.

9


Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn khi
điều kiện đã chín muồi.
2.2.


Biểu hiện của mâu thuẫn cở bản hiện nay
Mâu thuẫn chủ yếu ở một giai đoạn phát triển xã hội là biểu hiện của

mâu thuẫn cơ bản của toàn bộ chế độ xã hội trong giai đoạn phát triển đó của
xã hội. Mâu thuẫn cơ bản có sự tồn tại khác nhau trên các lĩnh vực khác nhau
của xã hội, chúng là những biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản của xã hội
trên lực đó.
Biểu hiện trên lĩnh vực chính trị đó là mâu thuãn giữa việc đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân với tình trạn quan liêu của hệ thống chính trị.
Biểu hiện trên lĩnh vực xã hội văn hóa tư tưởng đó là mâu thuẫn giữa
quá trình hình thành hoàn thiện nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc
với tình trạn xuống cấp về văn hóa, sự suy thoái về đạo đức, sự vong ngoại do
tác động tiêu cực của những mặt trái thuộc cơ chế thị trường và mặt mặt trái
của mở rộng giao lưu quốc tế.
2.2.1. Mâu thuẫn giữa việc đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân với
tình trạng quan liêu của hệ thống chính tri
Đúng như tính chất đặc thù của xã hội trong thời kì quá độ gồm có cả
yếu tố của xã hội chủ nghĩa và xã hội tư bản. Điều đó tác động đến xã hội cũng
nảy sinh những nhân tố lối sống biến dạng và phức tạp theo tính chất đó. Xã
hội phát triển chứa đứng trong nó khả năng để đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân hơn, nhưng đồng thời cũng tồn tại không ít yếu tố của tình trạng quan
liêu của hệ thống chính trị.
Biểu hiện của mâu thuẫn này đã trở thành bức xúc và cấp thiết được đề
cập trên những bài báo, những bài viết. Tần suất cũng tang dần, mức độ nghiêm
trọng cũng tang dần lên, và việc có sự tham gia của các quan chức cấp cao Nhà
nước ngày càng nhiều. Qua đó biểu hiện sự xuống cấp trầm trọng về đạo đức

10



của cán bộ Nhà nước, Đảng viên – tình trạng làm việc quan liêu của các cán bộ
cấp chính quyền ngày càng tang thể hiện như là mặt trái của xã hội hiên nay.
2.2.2. Mâu thuẫn giữa quá trình từng bước hình thành, hoàn thiện
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với tình trạn xuống cấp về văn
hóa, sự suy thoái về đạo đức, sự vong ngoại do tác động tiêu cực của những
mặt trái thuộc cơ chế thi trường và mặt mặt trái của mở rộng giao lưu quốc
tế
Xã hội hiện nay được nhiều người dùng đến cụm từ là một xã hội “chạy
theo đồng tiền”. Chúng ta càng thấy xuất hiện nhiều các hiện tượng lừa đảo,
cướp giật, mại dâm gia tang phát triển ở lứa tuổi vị thành niên. Xã hội ấy tác
động trực tiếp đến con người chúng ta.
Các đạo đức xã hội truyền thống đang dần bị phá vỡ. Con gái giết bố me
để lấy tiền hút thuốc phiện, anh hại em, anh rể hại em vợ, vợ lừa chồng,… đó
chỉ là một trong số rất ít các biểu hiện tiêu cực của xã hội hiện nay.
Đáng cảnh báo nhất là những vụ việc giết người trong gia đình để chiếm
tài sản, trả thù vì ghen tuông, và hiện nay gia tang khá nhiều việc lạm dụng tình
dục trẻ em, xâm hại đến thân thể, phẩm hạnh của người phụ nữ. Điều đáng
buồn là những hành động pháp pháp ấy lại xyar ra trong giới trẻ hiện nay rất
nhiều.
2.3.

Phương hướng chủ yếu giải quyết mâu thuẫn cơ bản
Quan điểm chung
Phương hướng giải quyết mâu thuẫn cơ bản - mâu thuẫn giữa khuynh

hướng tư bản chủ nghĩa và khuỳnh hướng xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản
của cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng đó là nhằm đẩy mạnh quá trình xây
dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, nâng cao đời sống vật chất và văn hóa
của nhân dân, giữ vững độc lập tự chủ để làm cho nước ta trở thành một nước

xã hội chủ nghĩa phồn vinh - cũng chính là phương hướng xây dựng xã hội chủ
nghĩa với tư cách là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế – xã hội ở nước ta.
11


2.3.1. Về phương hướng giải quyết mâu thuẫn giữa việc đảm bảo
quyền làm chủ của nhân dân với tình trạng quan liêu của hệ thống chính tri
“ Quan liêu” được nói ở đây trước hết và chủ yếu liên quan tới những
căn bệnh của thiết chế tổ chức, của bộ máy và người có chức quyền trong bộ
máy đó khi thoái hóa, biến chất. Với nghĩa đó, chúng liên quan đến chính trị,
căn bệnh này chỉ là tạm thời.
Việc giải quyết mâu thuẫn giữa đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
với tình trạng quan liêu của hệ thống chính trị được thực hiện bằng con đường
đổi mới hệ thống đó để nó thực sự là cơ chế đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống.
Đề đảm bảo quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực chính trị phải giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng. Quyền lãnh đạo phải bằng sự tiên phong gương
mẫu của Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng trong sự nghiệp phấn đấu vì lợi ích
của nhân dân mà Đảng được nhân dân tính nhiệm giao nhiệm vụ cách mạnh.
Muốn giữ được vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là Đảng phải
tang cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa đảng và nhân dân chăm
lo đời sống của người dân, thực sự phát huy quyền làm chủ của họ.
Quyền làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn đòi hỏi nhà
nước chúng ta phải được xây dựng theo nguyên tắc nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
2.3.2. Một số phương hướng chủ yếu giải quyết mâu thuẫn cơ bản
trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng tinh thần
Trước hết cần phải khẳng định việc tập trung xây dựng phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc có tầm quan trọng đặc biệt.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa yêu nước, tiến bộ có nội dung cốt

lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hơn nữa tiên tiến không chỉ trong nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải
12


nội dung. Nói tóm lại nền văn hóa tiên tiến phải kết hợp được cái gì là tiến bộ,
là chân thiện mỹ của dân tộc, của thời đại và của loài người.
Chủ nghĩa Mác cho rằng con người trong khi cải tạo hoàn cảnh, cải tạo
thế giới thì cải tạo chính cả bản thân mình, rằng hoàn cảnh tạo ra con người
trong chừng mực mà con người tạo ra hoàn cảnh. Hoàn cảnh tốt tạo ra con
người tốt, nhưng chính hoàn cảnh ấy là do con người tạo ra trước khi ảnh
hưởng trở lại con người. Thông qua thực tiễn cải tạo xã hội con người tự “miễn
dịch” trước những tác động, những mặt trái thuộc cơ chế thị trường cũng như
toàn cầu hóa dưới sự chi phối của chủ nghĩa tư bản hiện nay trên mọi lĩnh vực
trong đó có lĩnh vực văn hóa.

KẾT LUẬN
Tất cả các sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau,
tức những mặt đối lập trong sự tồn tại của nó. Các mặt đối lập của sự vật vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau tạo thành nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển của sự vật. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các
khái niệm: mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất của các mặt đối
lập, đấu tranh của các mặt đối lập để diễn đạt mối quan hệ giữa thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật – tạo thành nguồn gốc,
động lực của sự vận động và phát triển của sự vật.
Xã hội phát triển là một quy luật khách quan và tất yếu. Những gì trình
bày trong bài tiểu luận này là những mâu thuẫn mà tất yếu một xã hội trong
13



thời kì quá độ phải trải qua. Việc giải quyết nó không chỉ phụ thuộc vào một
người, một cơ quan nào mà là của toàn xã hội, dưới sự chỉ đạo của Đảng và
Nhà nước.

14



×