Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đổi mới quan điểm của đảng về nguồn lực con người để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (963.08 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

LÃ THỊ KIM OANH

ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

LÃ THỊ KIM OANH
ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Đình Xây



Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả số
liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, chính xác của các cơ
quan chức năng đã công bố. Đồng thời tôi xin chịu trách nhiệm về toàn bộ
những kết luận đưa ra trong luận văn.
Tác giả luận văn

Lã Thị Kim Oanh


LỜI CẢM ƠN
Lời cảm ơn đầu tiên và sâu sắc tôi xin được dành gửi tới thầy giáo PGS.
TS Ngô Đình Xây – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn. Nhờ
sự quan tâm, chỉ dẫn tận tình và những lời động viên của thầy đã giúp tôi hoàn
thành bài nghiên cứu của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo khoa Triết học, Trường
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Hà Nội, đã quan
tâm tạo điều kiện thuận lợi, dành nhiều công sức giảng dạy, hướng dẫn tôi
trong suốt quá trình nghiên cứu và học tập tại nhà trường.
Tác giả luận văn

Lã Thị Kim Oanh


MỤC LỤC


1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 70 của thế kỷ trước trở lại đây đã diễn ra những thay đổi
lớn trong chiến lược phát triển của các quốc gia. Thế giới đang chuyển từ nền
kinh tế chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên hạn hẹp sang nền kinh tế tri thức,
trong đó, đầu tư phát triển nguồn lực con người (hay nguồn nhân lực) được
coi là quan trọng hơn các nguồn đầu tư khác. Kinh nghiệm thế giới và nước ta
cho thấy, sự cất cánh và phát triển thành công của một nước gắn chặt với
chính sách và chiến lược phát triển vai trò nguồn lực con người. Có thể nói,
toàn bộ bí quyết thành công của các quốc gia phát triển đều nằm trong chân lý
đơn giản là chiến lược trồng người.
Cùng với việc biến khoa học, kỹ thuật và công nghệ - những sản phẩm
đã được vật thể hóa của trí tuệ con người thành lực lượng sản xuất trực tiếp,
nền kinh tế thế giới đồng thời diễn ra quá trình chuyển đối tượng khai thác
vào chính bản thân con người. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có
những chương trình mang tính chiến lược về đầu tư và phát triển con người
của riêng mình, nhưng họ đều hướng theo một nguyên tắc chung là đặt con
người vào vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Việc thừa nhận
vai trò quyết định của nguồn lực con người trong phát triển kinh tế xã hội vừa
mang ý nghĩa là bước ngoặt của tư duy nhân loại, vừa mở ra một triển vọng
mới cho tất cả các nước. Sự thành bại cho chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội ở mỗi nước đang tùy thuộc vào những “bí quyết” về đào tạo, sử dụng và
phát huy nguồn lực con người.
Khi bước vào thế kỷ XXI thì tầm cao của tư duy, trí tuệ của Đảng ta
không chỉ thể hiện ở việc xác định cương lĩnh, đường lối chiến lược, sách
lược đúng đắn, sáng tạo mà còn thể hiện ở khả năng dự báo xu hướng phát
triển của thế giới và khu vực nhất là về địa chính trị, địa kinh tế, địa chiến


2


lược, về sự vận động biện chứng của trật tự thế giới mới, về chiến tranh hòa
bình và nhất là vấn đề toàn cầu hóa hiện nay. Nhận thức được vai trò quan
trọng đó và từ thực tiễn của sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và nhà nước ta
đã luôn đặt ra vấn đề cần thiết phải đổi mới tư duy, nhất là tư duy về vai trò
nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng
và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay, thế giới đang diễn ra xu thế toàn cầu hóa trên tất cả các lĩnh
vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh. Trong quá trình
đó vừa diễn ra sự hợp tác, liên kết vừa diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia, dân tộc và Việt Nam không thể nằm ngoài lề cuộc phấn đấu vì một
xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trước tình hình
đó, Đảng ta xác định phải tiếp tục đổi mới tư duy mà trước hết là đổi mới tư
duy lý luận về yếu tố nguồn lực quan trọng nhất, tức vai trò của nguồn lực
con người trong nền kinh tế hiện nay. Vấn đề này đã được Đại hội lần thứ VI
của Đảng cộng sản Việt Nam đề ra và khẳng định đó là tiền đề để giải quyết
những khó khăn trước mắt và lâu dài.
Thế giới loài người đang sống trong thời đại của những giá trị nhân văn
và năng lực trí tuệ của con người. Con người đã và đang sáng tạo ra cuộc
sống văn hóa ngày càng phong phú đa dạng, nhưng họ cũng đang tạo ra
không biết bao nhiêu hiểm họa cho chính bản thân mình với hàng loạt các câu
hỏi đang được đặt ra là: Thế giới sẽ đi về đâu? Tương lai loài người sẽ như
thế nào? Những câu hỏi đó không ai khác ngoài con người phải tự trả lời và
giải quyết. Bởi vậy, hơn lúc nào hết, vấn đề đổi mới quan điểm của Đảng về
nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay cần phải được xây dựng trên cơ sở
một thế giới quan tiến bộ, một cách nhìn nhận phức hợp về con người và
nguồn lực con người.


3


Với lý do trên, học viên đã chọn “Đổi mới quan điểm của Đảng về nguồn
lực con người để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững” [8, tr. 85]. Nhưng đó vẫn còn là một vấn đề cần phải được nghiên
cứu sâu hơn nữa trên cả phương diện lý luận nhận thức lẫn hoạt động thực
tiễn. Nguồn lực con người Việt Nam hiện nay bên cạnh những điểm mạnh,
vẫn còn những hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa cũng như của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Sự chuyển đổi sang nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế đã mang cả những mặt tích cực, lẫn mặt tiêu cực vào
quá trình chuyển biến tâm lý, tư tưởng, đạo đức của con người Việt Nam.
Trong khi đó vẫn còn những cách hiểu, cách làm khác nhau, không nhất quán
và thiếu đồng bộ về viêc quản lý, đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn lực con
người. Chính vì vậy, một đòi hỏi tất yếu đang đặt ra ở nước ta là cần phải có
những công trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống không chỉ về mặt lý luận mà
còn có cả sự tổng kết những bài học thực tiễn ở trong và ngoài nước về vấn đề
nguồn lực con người, nhằm tìm ra những giải pháp phù hợp với Việt Nam để
xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Từ những đòi hỏi cấp bách trên, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
đề cập đến vấn đề này. Hơn nữa, việc nghiên cứu nguồn lực con người còn trở
thành một trong những đề tài thu hút sự chú ý của các nhà lãnh đạo, quản lý
và đặc biệt là các nhà nghiên cứu lý luận.


4


Cuốn “Con người - những ý kiến mới về một đề tài cũ” do An Mạnh
Toàn dịch, Nxb Sự thật, năm 1986. Đây là một công trình phối hợp nghiên
cứu của một số nhà khoa học Liên Xô và cộng hòa dân chủ Đức, xuất phát từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, căn cứ vào những thành tựu mới nhất
của nhiều ngành khoa học nghiên cứu về con người, cố gắng bằng con đường
khái quát triết học những vấn đề cơ bản về con người, quá trình phát triển của
con người từ thời đại xa xưa đến nay. Trên cơ sở nội dung của cuốn sách,
chúng ta có thể dựa vào đó để nghiên cứu, vận dụng những quan điểm của
chủ nghĩa Mác về con người nhằm thực hiện tốt sự nghiệp xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa hiện nay.
Cuốn “Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta” của Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
năm 1996. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn lực con
người trong nền kinh tế đổi mới và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở
khía cạnh phát triển giáo dục ở một số nước trên thế giới. Tác giả còn đưa ra
một số khuyến nghị nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta
để tạo động lực thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển.
Cuốn “Trở lại với con người” của Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia, Viện nghiên cứu con người, Nxb Khoa học xã hội, năm 2001 đã
tập hợp các bài viết về con người, nguồn lực con người của nhiều nhà nghiên
cứu nổi tiếng trên thế giới để giúp cho người đọc có những cách tiếp cận mới
và có cái nhìn toàn diện hơn về vấn đề này.
Cuốn “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam” của Đỗ
Minh Cương, Nguyễn Thị Doan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001.
Cuốn sách đã đề cập đến một số nội dung về giáo dục đại học, đồng thời đề

xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực giáo dục

5


đại học, bộ phận nhân lực có trình độ cao trong nguồn nhân lực nước ta, để
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cuốn “Tìm hiểu vai trò quản lý Nhà nước đối với việc phát huy nhân
tố con người trong phát triển kinh tế” của Nguyễn Thị Phi Yến, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 2001 đã nói lên mối quan hệ giữa thực trạng quản lý
của nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong nền kinh tế thị
trường. Đồng thời tác giả cũng kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước để phát huy tốt nguồn lực quan trọng này.
Cuốn “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước” của Nguyễn Thanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2002. Cuốn sách góp phần làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn, quan
điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, qua đó đưa ra những giải pháp phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
nước ta hiện nay. Cuốn sách tập trung trình bày chủ yếu những vấn đề sau:
Thứ nhất, trình bày một cách khái quát quan niệm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về phát triển con
người, phát triển nguồn lực con người; phân tích và làm rõ quyết định của
việc phát triển nguồn nhân lực đối với sự thành công của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, chỉ rõ thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay và phân
tích một số định hướng chủ yếu trong việc phát triển nguồn lực con người có
chất lượng nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, trên cơ sở làm rõ giáo dục và đào tạo với tư cách là yếu tố trực
tiếp, là “điều kiện tiên quyết” đóng vai trò quyết định trong chiến lược phát

triển con người, phân tích vai trò quốc sách hàng đầu của việc phát triển giáo
dục và đào tạo đối với việc phát triển nguồn lực có chất lượng cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
6


Cuốn “Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam. Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân, Nxb Khoa học xã hội,
năm 2004. Cuốn sách là sự tập hợp những bài nghiên cứu, bài viết, bài tham
luận với các vấn đề lý luận, kinh nghiệm và những khuyến nghị chính yếu
trong quản lý nguồn nhân lực Việt Nam. Công trình có ý nghĩa quan trọng để
Đảng và Nhà nước ta quản lý hiệu quả nguồn lực con người, góp phần đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thực hiện công cuộc đổi mới đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cuốn “Triết học Mác về lịch sử” của Phạm Văn Chung, Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 2007 là chuyên đề tư tưởng triết học được tiếp cận theo
phương pháp logic – lịch sử, đã cung cấp nhiều tư liệu quan trọng cho người
đọc về lịch sử triết học nói chung và lịch sử hình thành tư tưởng của Mác và
Ph. Ăngghen về con người nói riêng.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài báo, bài tham luận và những công trình
nghiên cứu về nguồn lực con người được đăng trên các tạp chí như:
- Nguyễn Đình Hòa (1993), “Phát huy nhân tố con người trong lực
lượng sản xuất”, Tạp chí triết học, số 1.
- Nguyễn Thế Kiệt (2008), “Xây dựng và phát triển con người, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực con người trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 6 (205).
- Nguyễn Văn Tài (2004), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
phát huy nhân tố con người”, Tạp chí triết học, số 2 (153).
- Đào Duy Cận, “Vai trò của Đảng trong việc phát huy nhân tố con
người”, Tạp chí Cộng sản, năm 1987, số 4.

- Lê Thi, “Bàn về quan điểm nghiên cứu con người Việt Nam hiện
nay”, Tạp chí triết học, năm 1992, số 3.

7


- Nguyễn Thế Kiệt, “Phát huy nhân tố con người trong công cuộc đổi
mới hiện nay”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, năm 1996, số 17.
- Phạm Minh Hạc, “Lấy việc phát huy nhân tố con người làm nhân tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”, Tạp chí Xây dựng Đảng, năm
1995, số 7.
- Lê Văn Quang (2009), “Phát triển toàn diện chất lượng con người để
nâng cao trách nhiệm cá nhân trong điều kiện kinh tế thị trường”, Tạp chí
Triết học, số 4 (215).
- Lương Đình Hải (2009), “Trách nhiệm đào tạo nguồn nhân lực trong điều
kiện kinh tế thị tường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 6 (217).
Những bài viết này đề cập đến nhiều vấn đề về con người, phát triển
nguồn lực con người, những đòi hỏi, những bất cập về nguồn lực con người
trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của quá trình xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
những vấn đề quan tâm bồi dưỡng, phát huy nguồn lực con người dưới những
góc độ khác nhau.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Mục đích của luận văn là làm rõ quá trình đổi mới quan điểm của
Đảng về nguồn lực con người trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn cần phải thực hiện những nhiệm
vụ sau:
+ Làm rõ các khái niệm: đổi mới, con người, nguồn lực con người
+ Chỉ ra tính tất yếu và tính định hướng trong việc đổi mới quan điểm của

Đảng về nguồn lực con người
+ Làm rõ quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về nguồn lực con người.
+ Đưa ra một số nhận xét và kiến nghị nhằm xây dựng và đổi mới quan
điểm của Đảng về nguồn lực con người.
8


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng: quá trình đổi mới quan điểm của Đảng về nguồn lực con
người trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu của Luận văn tập trung chủ yếu trong các Văn
kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, nguồn lực
con người.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa vào các phương pháp mác xít
trong việc nghiên cứu các vấn đề về con người như phương pháp phân tích
tổng hợp, phương pháp lịch sử và logic, phương pháp so sánh…
6. Kết cấu bài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn còn gồm 2 chương 6 tiết.
7. Ý nghĩa
Luận văn góp phần tìm hiểu thêm về vấn đề nguồn lực con người trong
giai đoạn hiện nay và làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm về vấn đề
này.

9



NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ TÍNH TẤT YẾU PHẢI
ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
ĐỂ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1 . Nguồn lực con người và đổi mới quan điểm của Đảng về nguồn
lực con người
1.1.1. Quan niệm về con người và nguồn lực con người
Quan niệm về con người
Trong ý nghĩa chung nhất, vấn đề con người là vấn đề trung tâm của
triết học ở mọi thời kỳ lịch sử. Ngay từ thời cổ đại, Xôcrat đã nâng con người
lên vị trí cao bằng mệnh đề “Triết học là sự tự ý thức của con người về chính
bản thân mình”. Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và sản xuất, các học
thuyết triết học đã chứng minh được sức mạnh vĩ đại của con người, chính vì
vậy, một số nước đã đưa ra khẩu hiệu: con người hãy thờ phụng chính bản
thân mình, chiêm ngưỡng cái đẹp của chính mình. Tuy nhiên, các nhà triết
học đã chưa đưa ra được một khái niệm đúng đắn về con người “Protago cho
rằng “Con người là thước đo của vạn vật”, Aristote quan niệm “Bẩm sinh,
con người là một động vật chính trị” hay Pascal cho rằng “Con người là cây
sậy biết suy nghĩ”, theo B.Franklin thì “Con người – động vật biết chế tạo công
cụ lao động” và phải đến khi tác phẩm Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 của
Mác ra đời chúng ta mới có một khái niệm đầy đủ về con người” [26, tr. 83 –
84].
Trong Bản thảo kinh tế triết học năm 1844 Mác đã khẳng định “con
người là thực thể tự nhiên có tính chất người” [44, tr. 234]. Thực chất, quan niệm
xem con người là một thực thể tự nhiên xuất phát từ tư tưởng của Feuerbach –
người được Mác đánh giá là đã có công “làm cho quan hệ xã hội của con người

10



với con người trở thành nguyên tắc cơ bản của lý luận” [44, tr. 220]. Feuerbach
cho rằng, con người là một thực thể đặc biệt của tự nhiên vì nó là thực thể duy
nhất có ý thức. Tuy vậy, việc xác định bản chất của nó cũng cần phải được tiến
hành tương tự như đối với mọi sự vật khác, tức là phải xác định bằng tính chất của
các đối tượng bên ngoài như không khí, nước, ánh sáng…
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc và phát triển những lý di sản lý
luận mácxít trước đó và dựa vào những thành tựu của khoa học tự nhiên, triết
học Mác khẳng định rằng giới tự nhiên là cái có trước, con người là sản phẩm
của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên. Con người bước vào lịch sử với
những điều kiện tồn tại không có sẵn như động vật mà phải lao động để tạo ra
những điều kiện phục vụ cho nhu cầu sống của bản thân mình. Đóng góp lớn
nhất của Mác là không những chỉ cho ta thấy rằng bản chất của con người là
do hoàn cảnh xã hội thực tiễn quy định, mà còn ở chỗ nhận thấy tính tích cực
và tính sáng tạo của con người với tư cách là chủ thể hoạt động. Con người
luôn là chủ thể của lịch sử xã hội, “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng
con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục cái học thuyết
quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà
giáo cũng cần phải được giáo dục” [39, tr. 10]. Hoạt động sáng tạo ra lịch sử
chân chính của con người đã khiến con người từ chỗ phụ thuộc tự nhiên sang
làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội của chính mình. Nhờ những hoạt động đó
mà những mối quan hệ xã hội của con người mới được phát triển đầy đủ, tạo
thành bản chất riêng của con người. Như vậy, Mác là người đầu tiên phát hiện
ra lao động là cơ sở để tạo nên các quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa
con người với con người và với chính bản thân mình; đồng thời phát hiện ra
vai trò của các mối quan hệ xã hội trong việc hình thành nên bản chất con
người. Do đó, trong Luận cương về Feuerbach, Mác đã viết “Trong tính hiện
thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã hội” [39, tr. 11].


11


Nói đến quan hệ xã hội, trước hết là nói đến quan hệ giữa người với
người trong quá trình lao động sản xuất nhằm sản sinh và tái sản sinh ra chính
bản thân con người. Đó là một tất yếu khách quan mà nếu không có nó thì con
người không thể sản xuất và tồn tại được. Trong quá trình sản xuất, họ không
ngừng tác động vào tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau, con người không thể
sống tách riêng như một cá nhân riêng lẻ vì sống như thế họ sẽ không thể trở
thành con người. Điều này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong quan
điểm cơ bản của lịch sử triết học về bản chất con người. Tính hiện thực của
bản chất con người cần phải đặt trong hoạt động sản xuất vật chất vì nó là
hoạt động đầu tiên, căn bản và quyết định các hoạt động khác. Thông qua
hoạt động sản xuất của cải vật chất mà con người hình thành nên các quan hệ
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa…
Như vậy, bản chất của con người là sự thống nhất giữa mặt tự nhiên và
mặt xã hội. Bản chất đó chỉ được hình thành và phát triển trong lòng xã hội,
thông qua các quan hệ xã hội. Quan niệm của Mác về bản chất con người đã
khắc phục những hạn chế của các quan niệm trước đây tạo nên bước ngoặt
lớn trong lịch sử nhận thức triết học về con người và nâng nó lên một tầm cao
mới. Công lao to lớn của ông là ở chỗ, lần đầu tiên trong lịch sử, những vấn
đề về bản chất và tồn tại của con người, về sự phát triển nhân cách toàn diện
của cá nhân, về vị trí, vai trò của con người trong đời sống xã hội đã được giải
quyết một cách khoa học, được gắn liền với đời sống xã hội với thực tiễn lịch
sử và phong trào cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động trên
toàn thế giới, gắn liền với sự phát triển của cách mạng khoa học – kỹ thuật
hiện đại.
Nhưng bản chất con người không chỉ là sự thống nhất giữa các yếu tố
tự nhiên và các yếu tố xã hội, mà con người còn là chủ thể làm nên lịch sử.
Đó là lịch sử phát triển của giới tự nhiên và xã hội trong việc hình thành con


12


người. Dựa trên quan điểm duy vật lịch sử, Mác khẳng định tiến trình phát
triển lịch sử của xã hội loài người là quá trình lịch sử tự nhiên, là sự thay thế
lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, của các nền văn minh, văn hóa gắn
liền với quá trình tiến hóa, phát triển của con người, của xã hội loài người.
Bằng hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới của mình, con người không chỉ phát
triển, hoàn thiện bản thân của mình mà còn sáng tạo ra lịch sử của chính
mình. Mác viết “Lịch sử xã hội của con người luôn chỉ là lịch sử của sự phát
triển cá nhân của những con người” [43, tr. 658]. Trong quá trình hoạt động
sản xuất vật chất, hoạt động thực tiễn của mình, con người đã tác động vào tự
nhiên, từ đó không ngừng in dấu ấn vào tự nhiên, cải tạo hoàn cảnh, phát triển
lực lượng sản xuất. Vì thế, trong con người luôn tồn tại với hai tư cách – con
người vừa là chủ thể vừa là đối tượng của quá trình phát triển lịch sử.
Con người là sản phẩm của tự nhiên song chính con người lại là nguyên
nhân của tất cả những biến đổi trong tự nhiên. Bằng hoạt động lao động con
người đã tạo ra những tiền đề, điều kiện sinh sống và xã hội của mình. Theo
Mác thì hoàn cảnh cũng chỉ tạo ra con người trong chừng mực con người tạo
ra hoàn cảnh. Đó là biểu hiện của mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Như
vậy, con người đã tạo ra hoàn cảnh phù hợp với tính người để phát triển bản
chất của mình và hoàn thiện nhân cách. Con người là sản phẩm của tự nhiên,
nhưng đến lượt mình con người lại cải thiện chính tự nhiên đó vì mục đích
sinh tồn và phát triển của mình. Trong khi chinh phục tự nhiên, con người
thực hiện với tư cách là một thành viên của một cộng đồng xã hội. Với tư
cách đó, con người luôn có quan hệ với nhau và với tự nhiên. Vì thế, khi xem
xét đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người, theo triết học Mác
phải xuất phát từ cơ sở tự nhiên và những thay đổi của chúng do hoạt động
của con người gây ra trong quá trình lịch sử.

Tóm lại, bản chất con người trong triết học Mác là sự gắn bó chặt chẽ, hòa
quyện và xâm nhập vào nhau tạo thành một thể thống nhất giữa các yếu tố tự

13


nhiên, xã hội. Nếu như yếu tố tự nhiên là cơ sở để phát triển yếu tố xã hội trong
con người thì yếu tố xã hội là cái quyết định làm nên bản chất con người.
Theo quan điểm mácxit, xã hội dưới bất kỳ hình thức nào cũng là sản
phẩm của sự tác động qua lại giữa người và người. Do vậy, xã hội chỉ tồn tại
khi có các cá nhân sống và sự tác động qua lại giữa họ. Cá nhân càng phát
triển về thể lực và trí lực thì càng có điều kiện thúc đẩy xã hội phát triển. Vai
trò của cá nhân có ảnh hưởng tới xã hội tùy thuộc vào trình độ phát triển nhân
cách. Những cá nhân có nhân cách lớn, có tài năng, phẩm chất kinh nghiệm,
có trách nhiệm cao với xã hội sẽ góp phần thúc đẩy xã hội càng phát triển
hơn. Những cá nhân bị thoái hóa, biến chất sẽ gây hậu quả xấu đến xã hội,
cản trở sự phát triển của xã hội. Trong khi không xem nhẹ vai trò của cá nhân,
triết học mácxit dành sự chú ý đặc biệt cho vai trò của quần chúng trong việc
sáng tạo lịch sử. Họ là những người góp phần giải quyết những nhiệm vụ do
lịch sử đặt ra để thúc đẩy xã hội phát triển, trong đó những người lao động sản
xuất ra của cải vật chất được xem là hạt nhân cơ bản.
Từ sự phân tích trên, ta có thể rút ra một số kết luận về con người trong
quan niệm của triết học Mác – Lênin như sau:
Thứ nhất, con người trong triết học Mác – Lênin không phải là con
người chung chung, trừu tượng, phi lịch sử, phi giai cấp mà là con người hiện
thực, là một chỉnh thể sinh học – xã hội, bản chất xã hội của con người được
hình thành, phát triển và hiện thực hóa trong hoạt động thực tiễn.
Thứ hai, bức tranh khoa học về thế giới con người trong triết học Mác –
Lênin luôn được đặt trong mối quan hệ qua lại chặt chẽ với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Con người trong triết học Mác

– Lênin luôn phải được xem xét như là sản phẩm, đồng thời lại là chủ thể của
quá trình phát triển lịch sử xã hội.

14


Thứ ba, triết học xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin là triết học nhân
văn gồm lý thuyết về quá trình phát triển lịch sử xã hội và vấn đề con người
mà trong đó tổng hợp một cách đầy đủ cơ sở khoa học của xu hướng tiến bộ
xã hội theo con đường tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa trên cơ sở chủ nghĩa
nhân đạo hiện thực vì sự phát triển hài hòa, toàn diện của tất cả mọi thành
viên trong xã hội. Vì lẽ đó, con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự
phát triển.
Quan niệm về nguồn lực con người
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải phát huy tối đa và sử dụng có
hiệu quả sức mạnh tổng hợp của tất cả các nguồn lực. Nguồn lực chính là
toàn bộ các yếu tố cả vật chất lẫn tinh thần đã, đang và sẽ thúc đẩy quá trình
chuyển biến xã hội của một quốc gia, dân tộc. Nguồn lực bao gồm không chỉ
những yếu tố đã và đang tạo ra sức mạnh trên thực tế, mà cả những yếu tố
mới ở dạng sức mạnh tiềm năng, không chỉ nói lên sức mạnh mà còn chỉ ra
nơi cung cấp sức mạnh đó, phản ánh cả mặt số lượng và chất lượng đồng thời
nói lên sự biến đổi không ngừng của các yếu tố đó.
Trong các nguồn lực như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học công
nghệ, con người… thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất
quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến
nay. Một quốc gia cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú tới đâu, máy
móc kỹ thuật có hiện đại tới cỡ nào nhưng không có những con người có trình
độ thì khó có khả năng đạt được sự phát triển như mong muốn.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và trong công cuộc
hội nhập nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn

minh” Đảng ta luôn xác định: nước ta có nguồn lao động dồi dào, yêu nước,
cần cù, sáng tạo, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học, công nghệ và là nguồn
lực quan trọng nhất – nguồn lực nội sinh. Vậy nguồn nhân lực là gì?

15


Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực. Theo Liên
hợp quốc, nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm,
năng lực, tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá
nhân và của đất nước.
Ngân hàng thế giới cho rằng nguồn nhân lực là toàn bộ vốn người (thể
lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp…) mà mỗi cá nhân sở hữu. Theo quan niệm
này, nguồn nhân lực được coi là một nguồn vốn bên cạnh các nguồn vốn khác
như tài chính, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên.
Theo Begg, Fircher và Dorn busch, khác với nguồn lực vật chất khác,
nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích
lũy được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương lai.
Giống như nguồn lực vật chất, nguồn lực con người là kết quả đầu tư trong
quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Tuy nhiên, điểm khác là
ở chỗ nguồn lực con người là con người lao động có nhân cách (có tri thức,
kỹ năng, nghề nghiệp và hoạt động xã hội, có các phẩm chất tâm lý như động
cơ, thái độ ứng xử với các tình huống trong cuôc sống), có khả năng tích lũy
kinh nghiệm, nghề nghiệp và vốn sống. Trong quá trình hoạt động xã hội,
người lao động có khả năng phát triển về mọi mặt, khả năng linh hoạt, thích
ứng nhanh với cuộc sống, môi trường kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật và
công nghệ luôn thay đổi. Nguồn nhân lực là một loại nguồn lực linh hoạt và
sôi động nhất, mang nhiều đặc trưng mà các nguồn lực khác không thể có
được, đặc biệt là đặc trưng về tính linh hoạt của con người. Ngày nay, xã hội
và các nhà quản lý đã nhận thức được tiềm lực tài chính chưa phải là yếu tố

quyết định tất cả, tính năng động và sáng tạo của con người và bản thân con
người mới là nguồn nhân lực không gì thay thế được. Tuy nhiên, tiềm năng,
trong đó đặc biệt là tiềm năng sáng tạo của con người chưa được khai thác và
phát huy một cách đầy đủ, con người chưa có cơ hội để thể hiện hết giá trị của
mình [21, tr. 15-16].

16


Một số nhà khoa học Việt Nam tham gia chương trình KX-07 cho rằng
nguồn nhân lực “được hiểu là số dân và chất lượng con người bao gồm cả thể
chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực phẩm chất và đạo đức của
người lao động. Nó là tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng
được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia hay một địa phương nào đó” [17, tr. 323].
Như vậy, đa số các tài liệu đều cho rằng nguồn nhân lực là một nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội, là tổng
hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động và cả
những lực lượng được chuẩn bị để sẵn sàng tham gia lao động. Đồng thời là
tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được bản thân con người và xã hội
huy động vào quá trình lao động và sáng tạo vì sự phát triển của xã hội.
Nguồn nhân lực của một đất nước được đánh giá trên hai mặt chủ yếu
là số lượng và chất lượng. Số lượng nguồn nhân lực được đánh giá chủ yếu
bằng các chỉ tiêu: tỉ lệ lực lượng lao động trong dân số, tỉ lệ tham gia lực
lượng lao động của con người trong độ tuổi lao động, tỉ lệ lao động có việc
làm trong lực lượng lao động…Chất lượng nguồn nhân lực bao gồm thể lực,
trí lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức…trong đó yếu tố quan trọng
ngày càng phát huy vai trò to lớn tạo nên chất lượng đó là trí lực. Trí lực là
yếu tố tinh thần, trí tuệ của con người, đó là yếu tố quyết định phần lớn năng
lực lao động và sáng tạo của con người. Muốn nâng cao chất lượng nguồn lực

con người thì phải nâng cao trình độ trí tuệ, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực
lao động vì như C. Mác đã chỉ ra rằng “Năng suất lao động phụ thuộc nhiều
vào trình độ khéo léo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của
khoa học và trình độ, tác dụng của khoa học vào quy trình công nghệ, sự kết
hợp xã hội của quá trình sản xuất, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và
các điều kiện tự nhiên”[42, tr. 69]. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn

17


cần phải nâng cao thể lực của người lao động. Thể lực chính là trạng thái sức
khỏe của con người, biểu hiện ở ngoại hình, tầm vóc, ở khả năng lao động.
Mặt khác, khi nói tới nguồn lực con người, phẩm chất đạo đức và nhân cách
cũng là yếu tố không thể bỏ qua. Nó là những giá trị, chuẩn mực của xã hội,
được cá nhân hướng đến, biểu hiện ở suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, còn
phải giáo dục người lao động Việt Nam nâng cao lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết dân tộc, độc lập, tự cường của dân tộc,… trong bối cảnh toàn cầu
hóa kinh tế chứa đựng nhiều mâu thuẫn như hiện nay.
Như vậy, có thể hiểu rằng nguồn nhân lực là tổng hòa của thể lực và trí
lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó
kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong
lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho
nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất
kỹ thuật, khoa học công nghệ… có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng
nguồn lực con người luôn được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn
lực khác trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. So với
các nguồn lực khác, nguồn lực con người với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất
xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai
thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là

yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực
một cách có hiệu quả. Vì vậy, nguồn lực con người với tư cách là chủ thể
sáng tạo, là yếu tố bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là
nguồn lực chính quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nguồn lực con người là tổng hợp toàn bộ các yếu tố, các quá trình (vật
chất hay tinh thần) đã, đang và sẽ tạo ra năng lực, sức mạnh thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội. Như vậy, khái niệm nguồn nhân lực bao chứa trong đó

18


không chỉ năng lực, sức lao động của con người đã qua, được thể hiện ra mà
còn cả những năng lực, sức mạnh ở dạng tiềm năng tạo thành những thế hệ
nối tiếp nhau. Dưới dạng khái quát, khái niệm nguồn lực con người có phạm
vi bao quát rộng, nó không chỉ phản ánh số lượng, cơ cấu dân cư, lực lượng
lao động mà còn phản ánh chủ yếu chất lượng người lao động trong hiện tại
và trong tương lai gần (dạng tiềm năng) thể hiện qua hàng loạt các yếu tố
sau: trình độ giáo dục và đào tạo, văn hóa chuyên môn và nghề nghiệp, trình
độ học vấn, khả năng sáng tạo, kỹ năng lao động, văn hóa lao động, sức
khỏe, mức sống, tâm – sinh lý, tư tưởng, tình cảm, tính cách. Trong đó, trí lực
và thể lực là hai yếu tố quan trọng nhất.
Theo các nhà mácxít, khi nghiên cứu nguồn lực con người, chúng ta
cần thấy được những đặc điểm sau:
Thứ nhất, nguồn lực con người tồn tại với tư cách là một chủ thể có khả
năng lao động sáng tạo. Đó là khả năng không ngừng vươn tới cái tốt đẹp
hơn, nó chi phối sự tồn tại, phát triển hay diệt vong của con người, Mác từng
viết rằng: con vật chỉ sản xuất vì bị chi phối bởi nhu cầu thể xác trực tiếp, còn
con người thì sản xuất ngay cả khi không bị nhu cầu thể xác ràng buộc; con
vật chỉ sản xuất ra bản thân nó còn con người thì đối diện một cách tự do với
sản phẩm của mình; con vật chỉ xây dựng theo kích thước và nhu cầu của loài

của nó, còn con người thì sản xuất theo kích thước của bất cứ loài nào và ở
đâu cũng biết vận dụng bản chất cố hữu của mình vào đối tượng, do đó con
người luôn xây dựng theo quy luật của cái đẹp, cái chân – thiện – mỹ. Có thể
nói, chính sự sáng tạo trong các hoạt động lao động của con người đã làm cho
nguồn lực con người trở thành một loại nguồn lực đặc biệt. Hoạt động lao
động của con người trên một ý nghĩa nào đó không chỉ tạo ra mọi của cải xã
hội mà còn góp phần cải tạo chính bản thân con người. Lao động và bản thân
con người vì vậy trở thành nguồn lực quan trọng bậc nhất của mọi nền sản
xuất xã hội.
19


Thứ hai, nguồn lực con người là một loại nguồn lực đặc biệt được tạo
bởi những con người có tính tự chủ, có khả năng làm chủ trong mọi hành
động, mọi mối quan hệ của bản thân con người với tư cách là chủ thể hành
động của nguồn lực, được thể hiện trong ba mối quan hệ chính là: quan hệ với
tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với bản thân. Quan hệ với tự nhiên là
quan hệ hàng đầu, gắn liền với sự tồn tại của con người. Đó là quá trình vận
dụng không ngừng của sự tác động qua lại giữa con người với tự nhiên. Trình
độ văn minh càng cao thì con người càng làm chủ trong quan hệ với tự nhiên.
Các mối quan hệ đó suy cho cùng là vì con người, phục vụ chính bản thân con
người và đồng thời cũng là để con người có điều kiện tận dụng khả năng sáng
tạo của mình tốt hơn. Con người không chỉ quan hệ với tự nhiên mà còn quan
hệ với nhau trong xã hội. Chính trong các quan hệ xã hội mà mỗi cá nhân ý
thức được vị trí, mối quan hệ cũng như nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong
xã hội, do đó có khả năng điều chỉnh và làm chủ được hành vi của mình tiến
đến làm chủ bản thân mình.
Khi sử dụng và phát huy nguồn lực con người với tư cách là một nguồn
tài nguyên đặc biệt – tài nguyên con người thì hiệu quả sử dụng phụ thuộc vào
cả hai mặt: số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Mặt số lượng nguồn nhân

lực được hiểu là tổng số các cá nhân tham gia vào hệ thống nguồn nhân lực.
Mặt chất lượng của nguồn nhân lực là một khái niệm tổng hợp bao gồm
những nét đặc trưng về thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức, trong đó, trình độ
năng lực và phẩm chất đạo đức đóng vai trò quan trọng nhất.
Tóm lại, khi nói tới nguồn lực con người, các nhà triết học mácxit cho
rằng: một là không thể tuyệt đối hóa mặt tư tưởng, tinh thần của họ; hai là khi
nói tới nguồn lực con người trong sự phát triển xã hội không thể dừng lại chỉ
ở con người cá nhân mà phải thấy hết sức mạnh của con người trong tính
cộng đồng của nó. Nguồn lực con người không phải là con người nói chung

20


mà là những năng lực thể chất và tinh thần của con người được vận dụng để
phát triển xã hội. Nói đến nguồn lực con người phải bao gồm các yếu tố:
phẩm chất chính trị, đạo đức, nhân cách, sức khỏe, trình độ học vấn, năng lực
sáng tạo, khả năng thích nghi… Trong đó, trí lực, thể lực và phẩm chất chính
trị là quan trọng nhất.
Khi đề cập đến nguồn lực con người với tư cách là động lực của sự
phát triển, chúng ta cần tính đến các vấn đề sau: Thứ nhất, quy mô, cơ cấu
dân số, lao động và sức trẻ của lực lượng lao động.Thứ hai, trình độ học vấn
của lực lượng lao động. Hiện nay, trình độ dân trí của nguồn lực con người ở
Việt Nam được nâng lên nhờ sự phát triển mạnh mẽ của nền giáo dục quốc
dân bởi giáo dục luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng và được xem như là
quốc sách hàng đầu. Đó chính là chìa khóa quan trọng để tiếp thu khoa học,
kỹ thuật và công nghệ, khoa học quản lý tiên tiến của thế giới, tạo ra đầu tàu
cho tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước. Thứ ba, tính năng động và sức
sáng tạo của người lao động. Thứ tư, nhóm các yếu tố cấu thành nguồn lực
con người có tác động tích cực đến phát huy nguồn lực con người đó là truyền
thống lịch sử, nền văn hóa của dân tộc đã bồi đắp và kết tinh trong mỗi con

người và cả cộng đồng hun đúc nên bản lĩnh, ý chí, tác phong của người lao
động Việt Nam.
1.1.2. Đổi mới và ý nghĩa của việc đổi mới quan điểm của Đảng về
nguồn lực con người
Khái niệm đổi mới
Ngay từ năm 1949, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng khái niệm “đổi
mới” trong sự vận dụng cụ thể vào đổi mới đất nước. Người viết: “Công cuộc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”. Khi nhấn mạnh sự cần thiết phải
không ngừng đổi mới nhận thức để phản ánh đúng tình hình thế giới và trong
nước vốn không ngừng biến đổi, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng: thế gới

21


×