Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Bài 2 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.05 KB, 60 trang )

36

Bài 2
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN
CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
I. Thông tin về giảng viên
1. Giảng viên biên soạn và chỉnh sửa, bổ sung
a. Giảng viên biên soạn
Họ và tên: PGS. TS Trần Văn Phòng
PGS. TS Nguyễn Thế Kiệt
PGS. TS Nguyễn Tĩnh Gia
Chức danh khoa học, học vị:
Nơi làm việc: Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại, email:
Các hướng nghiên cứu chính:
b. Giảng viên chỉnh sửa, bổ sung
Họ và tên: Vũ Hồng Sơn
Chức danh khoa học, học vị: Phó Giáo sư, Tiến sĩ
Nơi làm việc: Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Địa chỉ liên hệ: 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội
Điện thoại: 093.635.3838
Email:
Các hướng nghiên cứu chính:
b. Dự kiến giảng viên tham gia giảng dạy
Họ và tên: Giảng viên trường chính trị
Chức danh khoa học, học vị:
Nơi làm việc:


37



Địa chỉ liên hệ:
Điện thoại, email:
Các hướng nghiên cứu chính:
II. Thông tin chung về bài
- Tên bài: Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Số tiết của bài: 12 tiết.
- Yêu cầu của bài: bắt buộc.
- Địa chỉ đơn vị phụ trách bài: Khoa Lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
III. Mục tiêu của bài
1. Về kiến thức
Trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
lịch sử.
2. Về kỹ năng
Giúp học viên biết vận dụng những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa duy
vật lịch sử vào hoạt động thực tiễn, nhất là trong công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
3. Về thái độ
Giúp học viên kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, rèn luyện
bản lĩnh chính trị, củng cố niềm tin vào thắng lợi công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
IV. Tóm tắt nội dung của bài
1. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội
2. Giai cấp - nhà nước - cách mạng xã hội
3. Ý thức xã hội
V. Nội dung chi tiết của bài


38


1. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Trong lịch sử tư tưởng có nhiều cách tiếp cận khác nhau giải thích về
sự vận động, phát triển của lịch sử nhân loại. Nhưng những cách tiếp cận đó
về cơ bản chưa giải thích đúng bản chất của sự vận động, phát triển của lịch
sử loài người, chỉ đến khi lý luận hình thái kinh tế - xã hội ra đời mới cho
chúng ta phương pháp hoàn bị, sâu sắc giải thích về sự vận động, phát triển
của lịch sử. Học thuyết đó vạch ra những quy luật chung của sự vận động lịch
sử xã hội, vạch ra phương pháp khoa học nhận thức và cải tạo xã hội. Ngày
nay thế giới đang có những biến đổi vô cùng to lớn sâu sắc, nhưng học thuyết
hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá trị.
1.1. Sản xuất vật chất - nền tảng của xã hội
Sản xuất là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và của xã hội
loài người. Đó là quá trình hoạt động có mục đích và không ngừng sáng tạo
của con người.
Khẳng định điều đó, Ph.Ăngghen viết: “Điểm khác biệt căn bản giữa xã
hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm
trong khi con người sản xuất”1.
Sự sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản
xuất bản thân con người. Xã hội loài người không thể tồn tại và phát triển
được nếu không có quá trình thường xuyên sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Trong sản xuất xã hội, sản xuất vật chất giữ vai trò nền tảng.
Sản xuất vật chất là quá trình lao động của con người. Trong quá trình
đó, con người sử dụng công cụ lao động tác động (trực tiếp hoặc gián tiếp)
vào tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu của mình.
Vai trò của sản xuất vật chất thể hiện ở mấy điểm sau:

1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1998), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.34, tr.241.



39

Lao động sản xuất vật chất là một trong những nguồn gốc dẫn đến sự
xuất hiện của loài người.
Hoạt động sản xuất vật chất là nguồn gốc của mọi của cải thỏa mãn nhu
cầu phong phú của con người. Hoạt động sản xuất vật chất tạo ra tư liệu sinh
hoạt nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển của con người nói chung, cũng như
từng cá thể con người nói riêng.
Con người thông qua việc sản xuất ra của cải vật chất đã gián tiếp sản
xuất ra chính đời sống vật chất và tinh thần của xã hội với tất cả tính phong
phú và phức tạp của nó. Nói cách khác, trong quá trình sản xuất vật chất, con
người đã tạo ra và biến đổi các quan hệ xã hội cũng như bản thân con người.
Như vậy, xã hội tồn tại và phát triển được trước hết là nhờ sản xuất vật
chất. Lịch sử của xã hội, do vậy trước hết là lịch sử phát triển của sản xuất vật
chất. Mọi quan hệ phức tạp của đời sống xã hội dù trong bất kỳ lĩnh vực nào:
chính trị hay pháp quyền, nghệ thuật hay đạo đức, tôn giáo hay khoa học, v.v.
hết thảy đều hình thành và biến đổi trên cơ sở vận động của đời sống sản xuất
vật chất.
1.2. Biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
1.2.1. Khái niệm
1.2.1.1. Phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản
xuất vật chất được trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Ở một giai đoạn
lịch sử, một hình thái kinh tế - xã hội nhất định có một phương thức sản xuất
riêng. Phương thức sản xuất bao gồm hai mặt có quan hệ mật thiết với nhau:
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
1.2.1.2. Lực lượng sản xuất



40

Trong quá trình thực hiện sản xuất vật chất, con người tác động vào
giới tự nhiên, chinh phục giới tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực
của mình, sức mạnh đó được khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là sự thống nhất hữu cơ giữa người lao động với tư
liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
Trong lực lượng sản xuất, chủ nghĩa duy vật lịch sử đánh giá cao vai trò
của người lao động và công cụ lao động. Con người với tính cách là chủ thể
của sản xuất vật chất, luôn sáng tạo ra công cụ tác động vào đối tượng lao
động để tạo ra của cải vật chất. Với ý nghĩa đó, người lao động là nhân tố
hàng đầu của lực lượng sản xuất. Khẳng định điều đó, V.I.Lênin viết: “Lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao
động”1.
Công cụ lao động là khí quan vật chất “nối dài’’, “nhân lên’’ sức mạnh
của con người trong quá trình biến đổi giới tự nhiên. Nó là yếu tố quyết định
trong tư liệu sản xuất. Trình độ phát triển của công cụ vừa là thước đo trình độ
chinh phục tự nhiên của con người, vừa là tiêu chuẩn phân biệt sự khác nhau
giữa các thời đại kinh tế - kỹ thuật trong lịch sử. C.Mác viết: “Những thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ
chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”2.
Khoa học, trước hết là khoa học kỹ thuật có vai trò to lớn trong việc
phát triển lực lượng sản xuất. Đặc biệt ngày nay khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, nó đã trở thành nguyên nhân trực tiếp của mọi biến
đổi to lớn trong sản xuất vật chất mà ở những thế kỷ trước không có được. Có
thể nói, chưa bao giờ tri thức khoa học được vật hoá, kết tinh, thâm nhập vào
các yếu tố của lực lượng sản xuất một cách nhanh chóng và có hiệu quả như
ngày nay.
1

2

V.I.Lênin (1997), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, t.38, tr.430.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr.269.


41

Lực lượng sản xuất do con người tạo ra nhưng nó luôn là yếu tố khách
quan. Hay nói cụ thể hơn, lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn
của con người, nhưng bản thân năng lực thực tiễn này bị quyết định bởi
những điều kiện khách quan trong đó con người sinh sống; bởi những lực
lượng sản xuất đã đạt được do thế hệ trước tạo ra.
Trình độ của lực lượng sản xuất dùng để chỉ năng lực, mức độ, hiệu quả
chinh phục giới tự nhiên thông qua việc sử dụng công cụ lao động tác động
vào giới tự nhiên để tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của con người.
1.2.1.3. Quan hệ sản xuất
Để tiến hành sản xuất vật chất, con người không chỉ có quan hệ với giới
tự nhiên (lực lượng sản xuất) mà còn phải quan hệ với nhau theo một cách
nào đó. Quan hệ đó được khái quát trong khái niệm quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật
chất. Quan hệ sản xuất được cấu thành từ các quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất, quan hệ tổ chức quản lý và trao đổi hoạt động với nhau, quan hệ phân
phối sản phẩm lao động, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai
trò quyết định. Quan hệ sản xuất được hình thành một cách khách quan trên
cơ sở một trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, quan hệ sở hữu giữ vai
trò quyết định đối với quan hệ quản lý, quan hệ phân phối. Ngược lại, quan hệ
quản lý, quan hệ phân phối cũng tác động trở lại to lớn đến quan hệ sở hữu.
1.2.2. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát

triển của lực lượng sản xuất
Đây là một quy luật cơ bản của sự vận động và phát triển của xã hội
loài người. Nội dung của quy luật được thể hiện trên ba điểm chủ yếu sau:
Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mối quan hệ
khách quan, vốn có của mọi quá trình sản xuất vật chất. Nói cách khác, để


42

tiến hành sản xuất vật chất, con người phải thực hiện mối quan hệ “đôi’’, quan
hệ “kép’’, quan hệ song trùng này. Thiếu một trong hai quan hệ đó, quá trình
sản xuất vật chất không được thực hiện.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đây ở nhiều nước,
trong đó có cả nước ta do nóng vội, chủ quan duy ý chí đã sớm thiết lập một
nền kinh tế thuần nhất dưới hai hình thức sở hữu tư liệu sản xuất (sở hữu nhà
nước và sở hữu tập thể), nên đã để lãng phí rất nhiều năng lực sản xuất trong
nước và trên thế giới.
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực
lượng sản xuất giữ vai trò quyết định. Khuynh hướng của sản xuất xã hội là
không ngừng biến đổi theo chiều tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét đến cùng, bao
giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết
là công cụ lao động. Trong một phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất bao
giờ cũng giữ vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển đến một mức
độ nhất định sẽ làm cho quan hệ sản xuất phải biến đổi theo phù hợp với nó.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát
triển” tất yếu của lực lượng sản xuất. Nghĩa là trạng thái mà ở đó quan hệ sản
xuất, các yếu tố cấu thành của nó “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất
phát triển.
Như vậy, trong trạng thái phù hợp, cả ba mặt của quan hệ sản xuất đạt

tới thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo điều kiện tối
ưu cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất. Sự phù hợp
đó biểu hiện rõ rệt ra kết quả lực lượng sản xuất phát triển, kinh tế phát triển,
phát huy được mọi năng lực sản xuất và năng suất lao động cao.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là sự phù hợp biện chứng, sự phù hợp bao hàm mâu thuẫn. Đây là sự


43

phù hợp giữa một yếu tố động (lực lượng sản xuất luôn luôn biến đổi) với một
yếu tố mang tính ổn định tương đối (quan hệ sản xuất ổn định hơn, ít biến đổi
hơn). Quan hệ sản xuất từ chỗ thích ứng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, nhưng do lực lượng sản xuất luôn luôn biến đổi, phát triển, lại trở thành
xiềng xích, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất (không phù hợp).
Con người phát hiện những yếu tố dẫn đến không phù hợp, tức là phát hiện
mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó đem lại sự thích ứng mới của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất. Sự vận động và phát triển của sản xuất xã hội
cứ tiếp diễn theo tiến trình đó.
Cho nên sự phù hợp - không phù hợp - phù hợp là biểu hiện khách quan
của quá trình tương tác giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của mọi
phương thức sản xuất trong lịch sử.
Trước đây, trong cải tạo và xây dựng nền kinh tế mới ở các nước xã hội
chủ nghĩa, chúng ta đã nhận thức về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực
lượng sản xuất một cách chủ quan, giản đơn, máy móc, cứng nhắc. Đó là
những quan niệm cho rằng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn diễn ra sự
không phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, vì ở đó quan hệ
sản xuất được xây dựng trên cơ sở chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất. Còn nền sản xuất xã hội chủ nghĩa thường xuyên có sự phù hợp
của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất, vì ở đây quan hệ sản xuất

được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Cả hai quan niệm trên đều trái với phép biện chứng khách quan của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội đều
tồn tại khách quan về sự phù hợp này. Nghĩa là trong chủ nghĩa tư bản hay
trong chủ nghĩa xã hội, nền sản xuất vật chất của xã hội đều chứa đựng từ
trong nó mâu thuẫn của sự phù hợp - không phù hợp - phù hợp, v.v. như là
yếu tố nội sinh. Vấn đề là ở chỗ, nhân tố chủ quan có phát hiện kịp thời và


44

giải quyết một cách có hiệu quả mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất hay không.
Giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cũng
không phải chỉ bằng cách duy nhất là xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập
quan hệ sản xuất mới. Giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất là một quá trình, mà biện pháp thường xuyên là đổi mới, cải cách
điều chỉnh quan hệ sản xuất trước mỗi sự phát triển của trình độ lực lượng sản
xuất. Dĩ nhiên cải cách, điều chỉnh quan hệ sản xuất bao giờ cũng có giới hạn
của nó. Khi mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã trở nên
gay gắt, không thể giải quyết thông qua biện pháp cải cách, điều chỉnh được
nữa, thì tất yếu phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, thiết lập quan hệ sản xuất
mới cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Ngày nay, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra một lực lượng sản
xuất đồ sộ, tính chất xã hội hoá ngày càng cao, dẫn đến mâu thuẫn ngày càng
gay gắt với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Biện pháp mà ở các nước tư bản đang cố giải quyết
mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là cải cách, điều chỉnh
quan hệ sản xuất tạo ra sự thích nghi nhất định. Biện pháp đó trước mắt vẫn
tạo ra được tiềm năng để phát triển kinh tế. Tuy nhiên, biện pháp đó không

giải quyết được triệt để mâu thuẫn, khủng hoảng chu kỳ vẫn đang tiếp tục
diễn ra đang đòi hỏi phải có thay đổi căn bản quan hệ sản xuất, thiết lập quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Dưới chủ nghĩa xã hội, sự phù hợp và không phù hợp, v.v. của quan hệ
sản xuất với lực lượng sản xuất cũng tồn tại khách quan, bên trong của nền
sản xuất vật chất như là yếu tố nội sinh của sự phát triển. Chính vì thế, chủ
nghĩa xã hội cũng phải thường xuyên phát hiện mâu thuẫn và giải quyết mâu
thuẫn một cách có hiệu quả tạo, ra sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình


45

độ phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,
kinh tế phát triển.
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển lực lượng
sản xuất.
Quan hệ sản xuất được xây dựng trên cơ sở trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, do lực lượng sản xuất quyết định. Nhưng sau khi được xác lập
nó có sự tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích xã hội của sản xuất, quy định hình
thức tổ chức, quản lý sản xuất, quy định khuynh hướng phát triển của các nhu
cầu về lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, từ đó hình thành hệ thống những
yếu tố tác động trở lại đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất, nó sẽ tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng sản xuất, trở thành một
trong những động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, nếu
quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ
kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tác động theo chiều hướng tiêu cực của quan hệ sản xuất đối với sự
phát triển lực lượng sản xuất chỉ có ý nghĩa tương đối. Quan hệ sản xuất

không phù hợp với lực lượng sản xuất, sớm muộn gì cuối cùng cũng được
thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ mới của lực
lượng sản xuất. Đó là xu thế tất yếu của sự phát triển sản xuất, sự phát triển
kinh tế, mà không một giai cấp nào, một chủ thể nào có thể cưỡng lại được.
1.2.3. Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với
trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam
Trước thời kỳ đổi mới, trong nhận thức và vận dụng quy luật này ở các
nước xã hội chủ nghĩa nói chung và ở những nước mà xuất phát điểm đi lên


46

chủ nghĩa xã hội thấp như nước ta nói riêng đã mắc phải những lệch lạc, sai
lầm chủ quan.
Chủ trương xây dựng sớm một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa thuần nhất
với hai hình thức sở hữu là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể trong khi trình
độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng đều là một chủ
trương nóng vội, chủ quan duy ý chí. Đó không phải là sự vận dụng một cách
sáng tạo quy luật - như có thời kỳ chúng ta vẫn lầm tưởng - mà là vi phạm
quy luật, làm trái quy luật khách quan.
Từ những sai lầm trong nhận thức đã dẫn tới những sai lầm trong chỉ
đạo thực tiễn. Cụ thể:
Một là, xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách ồ ạt,
trong khi chế độ đó đang tạo địa bàn cho sự phát triển lực lượng sản xuất.
Hai là, xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách tràn lan,
trong khi trình độ lực lượng sản xuất còn thấp kém và phát triển không đồng
đều.
Trên thực tế cho đến nay, tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa không phải từ những nước tư bản phát triển cao, mà từ những nước tư
bản ở trình độ phát triển trung bình và thấp hoặc chưa trải qua giai đoạn tư

bản chủ nghĩa của sự phát triển lịch sử. Trong tình trạng đó mà đã vội vàng
xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết lập một cách tràn lan
chế độ công hữu tức là áp đặt một quan hệ sản xuất cao hơn so với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất. Cảnh báo về sai lầm này, C.Mác viết:
“Không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng
sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa
phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất


47

hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa
chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ”1.
Trong xây dựng quan hệ sản xuất mới - quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, về thực chất chúng ta mới xác lập được chế độ sở hữu, còn hình thức tổ
chức quản lý và cách thức phân phối chưa được giải quyết một cách đúng
đắn. Sự tồn tại trong một thời gian khá dài quan hệ sản xuất thiếu đồng bộ đó
cũng là một hạn chế cần phải khắc phục.
Những sai lầm chủ quan đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng
trì trệ, khủng hoảng. Ý thức được điều đó, thời kỳ đổi mới Đảng ta đã chủ
trương chuyển từ một nền kinh tế thuần nhất xã hội chủ nghĩa sang nền kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là sự vận
dụng một cách đúng đắn và sáng tạo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển lực lượng sản xuất. Chủ trương đó trước hết bắt nguồn từ
thực trạng trình độ phát triển lực lượng sản xuất: còn thấp kém và phát triển
không đồng đều (đa dạng trình độ). Để khai thác, phát huy được mọi năng lực
lực lượng sản xuất, phải tạo lập nhiều loại hình quan hệ sản xuất thì mới phù
hợp.
Hiện nay nền kinh tế ở nước ta - như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XI đã chỉ ra có các thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là
lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh

1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.13, tr.15-16.


48

tế, tạo nên môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát
triển.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ đổi mới
đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt bậc. Nền kinh
tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tạo đà cho sự phát triển, tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất là quy luật cơ bản của mọi nền kinh tế. Việc nhận thức đúng và vận dụng
một cách sáng tạo quy luật này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các
nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
1.3. Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
1.3.1. Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu
kinh tế của một xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng hình thành một cách khách
quan trong quá trình sản xuất vật chất của xã hội.

Kết cấu của cơ sở hạ tầng của một xã hội thông thường được cấu thành
bởi quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ, quan hệ sản xuất thống trị trong xã
hội ấy và quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Cơ sở hạ tầng là
tổng hợp những quan hệ sản xuất đó, trong đó quan hệ sản xuất thống trị là
quan hệ sản xuất chi phối các quan hệ sản xuất khác. Tuy nhiên, những quan
hệ sản xuất khác cũng có vai trò nhất định.
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp luật,
triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật với những thể chế tương ứng (nhà
nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể, v.v.) được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.


49

Trong xã hội có giai cấp, nhà nước - cơ quan quyền lực của một giai
cấp - có vai trò đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng, tiêu biểu cho
chế độ chính trị hiện tồn. Chính nhờ có nhà nước mà giai cấp thống trị “gán”
được cho xã hội hệ tư tưởng của mình. Trong kiến trúc thượng tầng của xã hội
có đối kháng giai cấp, ngoài bộ phận chủ yếu đóng vai trò là công cụ của giai
cấp thống trị, còn có những yếu tố đối lập với bộ phận đó. Đó là những quan
điểm, tư tưởng, những tổ chức chính trị của các giai cấp bị trị.
1.3.2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng
tầng
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện
chứng trong một hình thái kinh tế - xã hội.
Trong sự tác động biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.
Các nhà triết học, xã hội học trước Mác cho rằng quan hệ nhà nước
pháp quyền quyết định quan hệ kinh tế, ý thức tư tưởng quyết định tiến trình
phát triển khách quan của xã hội. Vượt lên những quan điểm đó, chủ nghĩa

duy vật lịch sử khẳng định quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan hệ
vật chất quyết định các quan hệ chính trị, tinh thần và các quan hệ xã hội
khác.
C.Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ xã hội ấy họp thành cơ cấu kinh
tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng
tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng
với cơ sở hiện thực đó”1.
Cơ sở hạ tầng quy định tính chất của kiến trúc thượng tầng. Nói cách
khác, tính chất xã hội, giai cấp của kiến trúc thượng tầng phản ánh tính chất
xã hội, giai cấp của cơ sở hạ tầng. Bộ mặt kiến trúc thượng tầng trong đời
1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.13, tr.15.


50

sống xã hội luôn được biểu hiện ra một cách phong phú, phức tạp và đôi khi
dường như không trực tiếp gắn với cơ sở hạ tầng. Đó chỉ là biểu hiện bề
ngoài, còn thực chất, ngay cả những hiện tượng lạ lùng nhất của kiến trúc
thượng tầng cũng đều có nguyên nhân sâu xa từ cơ cấu kinh tế của xã hội.
Mâu thuẫn trong đời sống kinh tế quy định tính chất mâu thuẫn trong
lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế
thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống chính trị, tinh thần.
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn
thể hiện ở chỗ: sự biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn
đến sự biến đổi căn bản của kiến trúc thượng tầng. Quá trình đó không chỉ
diễn ra trong giai đoạn chuyển tiếp có tính chất cách mạng của các chế độ xã
hội, mà còn được thực hiện ngay trong bản thân một hình thái kinh tế - xã hội.

Kiến trúc thượng tầng cũng có tính độc lập tương đối, có quy luật vận
động riêng của nó trong sự phát triển. Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng
vào cơ sở hạ tầng không giản đơn và thụ động. Sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa các bộ phận của kiến trúc thượng tầng cũng có ảnh hưởng đến sự tồn tại,
vận động và phát triển của kiến trúc thượng tầng.
Hơn nữa, kiến trúc thượng tầng còn có sự tác động trở lại đối với cơ sở
hạ tầng. Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng đều có sự tác động trở lại đối
với cơ sở hạ tầng. Những bộ phận đó tác động đến cơ sở hạ tầng ở những mức
độ khác nhau bằng nhiều hình thức khác nhau, theo những cơ chế khác nhau.
Trong đó, nhà nước giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Tuy là một bộ phận của
kiến trúc thượng tầng, nhưng nhà nước là một lực lượng vật chất có sức mạnh
kinh tế. Nói về điều đó Ph.Ăngghen viết: “Bạo lực (tức là quyền lực nhà
nước) - cũng là một sức mạnh kinh tế”1.
1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.37, tr.683.


51

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo hai
hướng:
Một là, sự tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan sẽ thúc
đẩy kinh tế, cơ sở hạ tầng phát triển.
Hai là, ngược lại, sự tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, thậm chí đẩy nền kinh tế rơi vào
tình trạng khủng hoảng.
Như vậy, sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở
kinh tế rất to lớn, nhưng nếu tuyệt đối hoá vai trò của kiến trúc thượng tầng
một cách chủ quan, duy ý chí sẽ dẫn đến những sai lầm gây hậu quả đối với

sự phát triển kinh tế, sự tiến bộ xã hội.
1.3.3. Vận dụng vào mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng vào công cuộc đổi mới ở nước ta
Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa có sự tác động đặc biệt to lớn
đối với cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không
thể hình thành và phát triển một cách tự phát, mà được xây dựng một cách tự
giác nhờ sự tác động của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa. Không có
chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì không thể xây
dựng được cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, nói như vậy không có
nghĩa là kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa quyết định cơ sở hạ tầng xã
hội chủ nghĩa. Kiến trúc thượng tầng chỉ thực hiện một sự tất yếu về kinh tế.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng phải được tiến hành từng bước với những hình thức,
bước đi thích hợp.
Quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thực chất là quan
hệ giữa kinh tế và chính trị. Phép biện chứng giữa kinh tế và chính trị khẳng
định kinh tế quyết định chính trị, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế.


52

Vì vậy, khi vận dụng quan điểm biện chứng này phải xuất phát từ kinh tế, từ
những quy luật kinh tế khách quan, đồng thời phải coi trọng vai trò của chính
trị, tính năng động sáng tạo của chính trị trong việc vận dụng các quy luật
kinh tế khách quan. Tuyệt đối hoá một mặt nào đó đều dẫn đến sai lầm.
Một trong những lệch lạc, sai lầm mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa
trước đây thường mắc phải ở những mức độ khác nhau đó là cường điệu hoá
vai trò của kiến trúc thượng tầng, của chính trị, coi chính trị là thống soái,
chính trị thuần tuý dựa trên nguyện vọng và tình cảm chủ quan bất chấp kinh
tế. Từ đó dẫn đến sự phát triển kinh tế không bền vững hoặc trì trệ, khủng

hoảng.
Trong đổi mới, nước ta vận dụng một cách sáng tạo mối quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, đổi mới một cách đồng bộ
với những bước đi thích hợp giữa kinh tế và chính trị đã giành được nhiều
thành tựu to lớn: chủ nghĩa xã hội được giữ vững, kinh tế phát triển, tiến bộ
xã hội được biểu hiện một cách rõ rệt.
1.3.4. Sự hình thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ
nghĩa
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa không thể hình
thành và phát triển một cách tự phát, mà được xây dựng mọt cách tự giác nhờ
tác động một cách tích cực của kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa.
Cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên cơ sở từng bước
thiết lập quan hệ sản xuất xã hộ chủ nghĩa. Nó không ra đời trong chế độ tư
bản, mà sau khi giành được chính quyền, giai cấp công nhân sử dụng nhà
nước của mình chủ động, tự giác xây dựng nên, tạo thành cơ sở kinh tế của xã
hội mới.
Việc xây dụng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng xã hội chủ nghĩa phải
được tiến hành từng bước với những hình thức, bước đi thích hợp. Khi xây


53

dựng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phải tuân theo
quy luật, không lấy ý muốn chủ quan áp đặt, thay thế các quy luật khách
quan. Đồng thời phải phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của kiến trúc
thượng tầng trong việc vận dụng quy luật khách quan.
1.4. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và ý nghĩa của nó
1.4.1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội
Xã hội loài người luôn vận động, phát triển không ngừng, vận động
theo những quy luật khách quan vốn có của nó. Mỗi giai đoạn phát triển đều

có những nét đặc trưng riêng, được C.Mác phản ánh trong học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển nhất định, xã hội đều có những
kết cấu như một chỉnh thể, với những yếu tố cấu thành và những quy luật vận
động, phát triển vốn có của nó.
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù chỉ xã hội ở từng nấc thang
nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng thiết lập trên trình độ nhất
định của lực lượng sản xuất và với một kiểu kiến trúc thượng tầng tương ứng
được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó.
Một hình thái kinh tế - xã hội có ba yếu tố cấu thành cơ bản đó là quan
hệ sản xuất, lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng - trong đó lực lượng
sản xuất giữ vai trò quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất lại quyết
định kiến trúc thượng tầng và các quan hệ xã hội khác. Quan hệ sản xuất
thống trị là tiêu chuẩn khách quan, là dấu hiệu cơ bản để phân biệt sự khác
nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội.
Ngoài những yếu tố cơ bản trên, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn có
những yếu tố khác như: quan hệ dân tộc, quan hệ giai cấp, quan hệ gia đình,
v.v..


54

1.4.2. Quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh
tế - xã hội
Xã hội phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai
đoạn của sự phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội. Đứng trên lập trường
duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định “sự phát triển của những
hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”1. Khẳng định đó
dựa trên những căn cứ sau:
Một là, sản xuất vật chất là cơ sở, nền tảng của sự tồn tại, vận động và
phát triển các hình thái kinh tế - xã hội.

Con người làm ra lịch sử của mình, tạo ra các quan hệ xã hội của mình,
nhưng không phải một cách chủ quan tuỳ tiện mà trên nền tảng sản xuất vật
chất nhất định. Hay nói cách khác, con người không được tự do lựa chọn hình
thái kinh tế - xã hội của mình. Mỗi quốc gia đều phải dựa trên cơ sở nền tảng
sản xuất vật chất trong nước và trên thế giới mà xây dựng hình thái kinh tế xã hội phù hợp.
Hai là, sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, sự
chuyển biến từ hình thái này sang hình thái khác bị chi phối bởi các quy luật
khách quan.
Quy luật xã hội là quy luật hoạt động có ý thức, có mục đích của con
người, nhưng tồn tại và tác động một cách khách quan độc lập với ý thức và
mong muốn của con người. Con người không thể sáng tạo ra quy luật, cũng
không thể xoá bỏ quy luật. Vai trò của con người là nhận thức và vận dụng
quy luật khách quan.
Sự vận động, phát triển các hình thái kinh tế - xã hội chịu sự chi phối
của các quy luật xã hội, trong đó quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất

1

C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.23, tr.21


55

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng là những quy luật cơ bản nhất.
Loài người đã và đang trải qua các hình thái kinh tế - xã hội theo trật tự
từ thấp đến cao. Đó là quá trình phát triển tuần tự của sự phát triển lịch sử.
Song đối với mỗi nước cụ thể do điều kiện lịch sử khách quan có thể “bỏ
qua’’ những giai đoạn lịch sử nhất định, “bỏ qua’’ một hoặc vài hình thái kinh
tế - xã hội. Nhân loại đã chứng kiến nhiều nước do điều kiện lịch sử của mình

đã bỏ qua một hoặc hai hình thái kinh tế - xã hội nào đó tiến lên giai đoạn lịch
sử cao hơn dưới hình thức này hay hình thức khác.
Quá trình phát triển “bỏ qua’’ đó cũng là một quá trình lịch sử - tự
nhiên, cũng do nền tảng sản xuất vật chất quy định và phải tuân theo các quy
luật khách quan.
1.4.3. Ý nghĩa thời đại của học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
Ra đời đã hơn 160 năm, trước những biến đổi to lớn, sâu sắc của thời
đại, nhưng ngày nay học thuyết hình thái kinh tế - xã hội vẫn giữ nguyên giá
trị khoa học và thời đại của nó.
Nghiên cứu sự phát triển của lịch sử nhân loại, trong lịch sử tư tưởng
đã xuất hiện nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay có thể nói
cách tiếp cận thông qua lý luận hình thái kinh tế - xã hội là có ý nghĩa khoa
học nhất. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội không những chỉ ra được các
nấc thang của sự phát triển lịch sử xã hội với những chế độ xã hội tồn tại như
một chính thể, như một cơ thể sống, mà còn vạch ra những quy luật chi phối
sự tồn tại vận động của các hình thái kinh tế - xã hội. Do đó, học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội mang tính khoa học và có ý nghĩa thực tiễn to lớn mà
chưa có một học thuyết nào có thể vượt qua.
Vài thập kỷ gần đây xuất hiện cách tiếp cận mới của Alvin Tophlơ cách tiếp cận thông qua các nền văn minh, cách tiếp cận này có ý nghĩa nhất


56

định, nhưng vẫn không thể thay thế được cách tiếp cận thông qua lý luận hình
thái kinh tế - xã hội.
2. GIAI CẤP - NHÀ NƯỚC - CÁCH MẠNG XÃ HỘI
2.1. Giai cấp và đấu tranh giai cấp
Học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin
là một lý luận khoa học có ý nghĩa đặc biệt quan, là kim chỉ nam để các Đảng
Cộng sản và công nhân vạch ra đường lối chiến lược, sách lược của cách

mạng vô sản ở các giai đoạn lịch sử khác nhau. V.I.Lênin cũng đã từng coi lý
luận giai cấp và đấu tranh giai cấp là “một trong những thành tựu vĩ đại nhất
của khoa học xã hội”.
2.1.1. Khái niệm giai cấp
Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin định nghĩa: “Người ta gọi là
giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan
hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao
động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của
cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người,
mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác, do chỗ các
tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”1.
Như vậy, sự khác nhau giữa các giai cấp trong xã hội là do các giai cấp
có địa vị khác nhau trong hệ thống sản xuất. Sự ra đời, tồn tại của giai cấp gắn
với những hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của giai
cấp trong hệ thống sản xuất là do:
Thứ nhất, khác nhau về quan hệ giữa họ với việc sở hữu những tư liệu
sản xuất của xã hội.
1

V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva, t.39, tr.17-18.


57

Thứ hai, khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản xuất, tổ
chức quản lý lao động xã hội.
Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những sản
phẩm lao động của xã hội.

Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau của họ về sở hữu đối
với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định. Tập đoàn người nào nắm tư liệu
sản xuất sẽ trở thành giai cấp thống trị xã hội và tất yếu sẽ chiếm đoạt những
sản phẩm lao động của tập đoàn khác. Đó là bản chất của những xung đột giai
cấp trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Trong các xã hội có giai cấp đối
kháng, bao giờ cũng có hai giai cấp cơ bản. Một giai cấp nắm toàn bộ hoặc
phần lớn các tư liệu sản xuất, còn giai cấp khác không có hoặc chỉ có một
phần tư liệu sản xuất trong tay. Sự bất bình đẳng đó là cội nguồn của mọi sự
bất bình đẳng trong kinh tế cũng như trong xã hội. Giai cấp nào nắm các điều
kiện vật chất, các phương tiện vật chất giai cấp ấy sẽ chi phối toàn bộ quá
trình sản xuất dưới hình thức này hay hình thức khác. Các giai cấp không có
hoặc không đủ tư liệu sản xuất để bảo đảm các nhu cầu thiết yếu buộc phải lệ
thuộc vào giai cấp nắm tư liệu sản xuất, chi phối quá trình sản xuất. Vì vậy,
người nô lệ phải làm không công cho bọn chủ nô, người nông dân phải nộp
địa tô cho địa chủ và người công nhân phải làm thuê cho nhà tư bản. Do điều
kiện đó mà dẫn tới sự khác biệt về phương thức thu nhập và phần của cải thu
nhập. Giai cấp địa chủ dưới hình thức địa tô đã thu về phần lớn của cải từ
quần chúng nhân dân để làm giàu. Giai cấp tư sản có được tài sản kếch xù
nhờ lợi nhuận; còn người công nhân chỉ có thể thu lại một phần của cải do
chính mình làm ra dưới hình thức tiền công.
Như vậy, triết học Mác nói về sự phân chia giai cấp cũng là nói về quan
hệ hiện thực giữa người với người mà trong đó, do bất bình đẳng trong chiếm
hữu tư liệu sản xuất mà tập đoàn người này có thể chiếm đoạt lao động của


58

tập đoàn người khác, xem điều đó không phải là do đạo đức xấu, tốt mà là sản
phẩm tất yếu của vận động sản xuất. Thực chất quan hệ giai cấp là quan hệ
bóc lột, là tập đoàn này chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ có sự

khác nhau về địa vị trong hệ thống sản xuất nhất định.
Ngày nay, đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học công nghệ, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, các giai cấp, tầng lớp khác đều
đang có những biến đổi to lớn. Xu hướng xã hội hoá về sở hữu, quản lý và
phân phối đang là xu hướng hiện thực ở các nước tư bản phát triển, nó phát
triển như một tất yếu từ lôgíc khách quan của chính bản thân nền sản xuất tư
bản chủ nghĩa hiện đại. Nhưng, đặc trưng cơ bản của xã hội tư bản vẫn là tình
trạng bóc lột ngày càng mở rộng, nạn thất nghiệp vẫn là vấn đề nan giải, ngày
một tăng, tâm trạng bi quan, mất lòng tin trong các tầng lớp nhân dân càng
trầm trọng. Mặc dù cơ cấu giai cấp công nhân có thay đổi, công nhân có cổ
phần (tuy rất nhỏ), tham gia quản lý, có mức sống cao hơn trước, v.v. nhưng
thực quyền quyết định mọi vấn đề trong sản xuất, phân phối, lưu thông của
cải vật chất trong xã hội tư bản vẫn thuộc về các nhà tư bản. Thân phận người
công nhân - về thực chất - vẫn là những người làm thuê bán sức lao động cho
nhà tư bản. Họ bị bóc lột nhiều hơn trước, nhưng dưới hình thức tinh vi hơn
mà thôi.
2.1.2. Nguồn gốc hình thành giai cấp
Trong xã hội có nhiều nhóm xã hội khác nhau. Sự khác nhau ấy được
phân biệt bởi những đặc trưng khác nhau như giới tính, nghề nghiệp, chủng
tộc, dân tộc, v.v.. Những khác biệt ấy tự nó không tạo ra sự đối lập về mật xã
hội. Chỉ có những giai cấp xuất phát từ sự khác nhau căn bản về lợi ích mới
tạo ra những xung đột xã hội mang tính chất đối kháng. Mác chỉ ra rằng: Sự
tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất


59

định của sản xuất. Sự phân chia xã hội thành giai cấp trước hết là do nguyên
nhân kinh tế.
Căn cứ vào tài liệu khoa học, nhất là khoa học lịch sử và khảo cổ học,
chủ nghĩa Mác đã đi đến kết luận rằng, xã hội không phải bao giờ cũng phân

chia thành giai cấp. Đã có hàng triệu năm loài người sống trong xã hội cộng
sản nguyên thuỷ với “nền kinh tế gia đình được một loạt gia đình tiến hành
chung và theo nguyên tắc cộng sản; đất đai là tài sản của toàn thể bộ lạc, chỉ
có những mảnh vườn nhỏ bé mới tạm giao cho các gia đình sử dụng”1. Trong
xã hội ấy “tất cả đều bình đẳng và tự do, kể cả phụ nữ. Chưa có nô lệ và
thường thường còn chưa có sự nô dịch những bộ lạc khác”2. Sở dĩ có quan hệ
xã hội đó vì trình độ của lực lượng sản xuất lúc đó rất thấp kém. Với những
công cụ sản xuất thô sơ làm bằng đá, con người chỉ có thể tồn tại được trong
sự hợp tác chặt chẽ với nhau. Họ không thể tách rời cái “cuống nhau’ của
công xã. Mặt khác, với điều kiện lúc đó, họ cũng chỉ có thể tạo ra một năng
suất lao động thấp kém, giỏi lắm cũng chỉ đủ để nuôi sống các thành viên
thuộc công xã mình. Xã hội không có của dư, vì vậy cũng không có gì để
chiếm đoạt. Trong điều kiện ấy, giai cấp không thể xuất hiện.
Lực lượng sản xuất đã phát triển từng bước, con người đã tìm ra những
công cụ bằng kim loại thay cho đồ đá mặc dù đó là một quá trình lâu dài; cuối
cùng năng suất lao động đã được tăng lên, ở con người xuất hiện khả năng lao
động mới và những nhu cầu vật chất mới. Chế độ của riêng dần nảy sinh. Lúc
đầu, sự chênh lệch về sức lực và kinh nghiệm đã đẻ ra kẻ giàu và người
nghèo. Rồi của cải trở thành sự hấp dẫn. Làm giàu trở thành mục tiêu; mọi
biện pháp làm giàu được sử dụng. Một số người có chức, có quyền trong thị
tộc hay bộ lạc như tù trưởng, tộc trưởng, chỉ huy quân sự đã lợi dụng quyền
hành để chiếm hữu các tài sản chung của công xã làm của riêng. Những tù
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.21, tr.147.
C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t.21, tr.148.


60


binh bắt được trong chiến tranh giữa các bộ lạc, bộ tộc được sử dụng làm nô
lệ phục vụ cho công việc sản xuất. Những người nghèo đói ngày càng bị
khinh rẻ và cuối cùng vì nợ nần chồng chất, không trả được cũng rơi vào số
phận như các tù binh. Xã hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã dần và cuối cùng đã
xuất hiện các xã hội có giai cấp đối kháng.
Như vậy, nguồn gốc sâu xa của sự ra đời của các các giai cấp trong xã
hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất, còn nguồn gốc trực tiếp của nó là
chế độ tư hữu. Sự xuất hiện của chế độ tư hữu cũng là một yễu tố khách quan,
do mâu thuẫn giữa nhu cầu vật chất mỗi khi đã có của dư tương đối và khả
năng của nền sản xuất cuối thời đại công xã nguyên thuỷ không đủ đáp ứng
được nhu cầu ấy cho mọi thành viên của xã hội.
Vì vậy, chế độ tư hữu đã có vai trò nhất định trong lịch sử, đã tạo ra
bước ngoặt mới, đưa nền sản xuất xã hội lên một giai đoạn cao hơn. Chế độ
xã hội có giai cấp đối kháng đầu tiên là chế độ chiếm hữu nô lệ. Từ đầu xuất
hiện dưới hình thức chế độ nô lệ kiểu gia trưởng, chế độ chiếm hữu nô lệ đã
phát triển và trở thành một chế độ người bóc lột người dã man nhất trong lịch
sử. Người nô lệ coi như “công cụ biết nói” và bị buôn bán như súc vật. Tuy
nhiên, không phải ở nước nào cũng trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ. Có nơi,
chế độ có giai cấp đầu tiên là chế độ phong kiến. Điều đó là do hoàn cảnh lịch
sử cụ thể tạo nên. Như vậy, sự xuất hiện chế độ tư hữu là nguyên nhân quyết
định trực tiếp sự ra đời giai cấp. Sự tồn tại các giai cấp đối kháng gắn với chế
độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến và chế độ tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa
tư bản phát triển cao lại tạo tiền đề khiến cho sự thủ tiêu chế độ tư hữu, cái cơ
sở kinh tế của sự đối kháng giai cấp trở thành xu thế khách quan trong sự phát
triển xã hội. Đó là lôgíc khách quan của tiến trình phát triển lịch sử.
2.1.3. Đấu tranh giai cấp
2.1.3.1. Khái niệm đấu tranh giai cấp



×