Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM NGUYỄN VIẾT CƯỜNG

NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM NGUYỄN VIẾT CƯỜNG

NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên nghành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH THẾ HƯNG

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu trích
dẫn theo nguồn đã công bố. Kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa
được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Phạm Nguyễn Viết Cường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP

LUẬT VỀ NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI ...................................... 6
1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội .................. 6
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và một số nguyên tắc
khác trong tố tụng hình sự. .............................................................................. 17
1.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật quốc tế và một số quốc gia
trên thế giới ..................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2. SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ
TỘI TRONG BỘ LUẬT TTHS 2015 VÀ THỰC TIẾN ÁP DỤNG ...... 26
2.1. Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về các
quyền của người bị buộc tội ............................................................................ 26
2.2. Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định chứng minh
và chứng cứ trong tố tụng hình sự................................................................... 27
2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định các biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự ..................................................................................................... 30

2.4. Nguyên tắc suy đoán vô tội trong các giai đoạn của tố tụng hình sự ...... 34
2.5. Thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội ........................................ 42
CHƯƠNG 3.

MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM

THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI .............................. 54
3.1. Một số yêu cầu bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội .............. 54
3.2. Một số giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong
thực tiễn ........................................................................................................... 56
3.3. Một số giải pháp khác .............................................................................. 63
KẾT LUẬN ................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HĐXX

: Hội đồng xét xử

SĐVT


: Suy đoán vô tội

TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao

TTHS

: Tố tụng hình sự

THTT

: Tiến hành tố tụng

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chúng ta đang Cải cách tư pháp trong bối cảnh xây xựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân - một Nhà nước mà ở đó quyền
con người trong đó có quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự được tôn
trọng và bảo vệ. Một trong những yêu cầu của nhà nước pháp quyền là phải xây
dựng cho được hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ và đồng bộ. Pháp luật tố
tụng hình sự với tư cách là cơ sở pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm nhằm phát hiện xử lý tội phạm, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người cũng
cần đáp ứng yêu cầu đó.
Pháp luật tố tụng hình sự đáp ứng các đòi hỏi của nhà nước pháp quyền,
trước hết thể hiện ở chỗ hệ thống nguyên tắc của nó với tư cách là những quan điểm
chỉ đạo làm nền tảng và xuyên suốt các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, hoạt
động tố tụng hình sự cần được thể hiện đầy đủ, toàn diện và đồng bộ. Là các nguyên
tắc cơ bản, cốt lõi và quan trọng của tố tụng hình sự. Trong hệ thống các nguyên tắc
của tố tụng hình sự, nguyên tắc suy đoán vô tội đóng vai trò hết sức quan trọng và
có thể nói đây là một trong những nguyên tắc cơ bản và là trụ cột chính kiến tạo nên
hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Việc nghiên cứu nguyên tắc này trên cả
ba phương diện: lý luận, lập pháp và thực tiễn có vai trò rất lớn trong việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự cũng như hoạt động áp dụng nó nhằm đạt được mục
đích của tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự của các nước trên thế giới đã
mặc nhiên thừa nhận nguyên tắc SĐVT và coi nó là một trong những nguyên tắc
của tố tụng hình sự của quốc gia mình. Không loại trừ nước ta, Nguyên tắc suy đoán
vô tội được pháp luật Việt Nam ghi nhận một cách đầy đủ trong Bộ luật TTHS Việt

nam 2015 với tư cách là một nguyên tắc cơ bản.
Với tầm quan trong như vậy, nguyên tắc suy đoán vô tội đã được quan tâm
nghiên cứu trong khoa học pháp luật trong và ngoài nước từ lâu. Tuy nhiên, để
nguyên tắc này được thể hiện đầy đủ, toàn diện và đồng bộ trong pháp luật TTHS

1


và đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế cần tiếp tục có những nghiên cứu
về mặt lý luận nhằm nhận thức đúng đắn, đầy đủ nội dung của nguyên tắc này trong
hệ thống thống các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt Nam, đánh giá sự thể hiện
nguyên tắc này trong pháp luật tố tụng hình sự hiện hành và thực tiễn áp dụng nó,
đặc biệt là thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội kể từ khi nó được chính
thức ghi nhận đày đủ là một nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam trong Bộ luật
TTHS 2015. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy vẫn còn tình trạng không nhận thức
đúng đắn, đày đủ nguyên tắc suy đoán vô tội dẫn đến vi phạm nguyên tắc suy đoán
vô tội của các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến tình trạng chẳng những bỏ lọt tội
phạm mà còn làm oan người vô tội. Thực tiễn đó đòi hỏi có những giải pháp về
pháp luật cũng như tổ chức thực hiện đúng đắn để đảm bảo cho nguyên tắc suy
đoán vô tội được thực hiện nghiêm chỉnh trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền con
người trong TTHS cũng như đảm bảo được mục đích của TTHS Việt nam là: Bảo
đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, phòng
ngừa, ngăn chặn tội phạm, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội; góp
phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm. Do đó, việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về nguyên tắc
SĐVT; những điểm mới tích cực, hạn chế trong thực tiễn áp dụng các quy định liên
quan đến SĐVT trong BLTTHS 2015. Từ đó làm cơ sở đánh giá sự hoàn thiện của
nguyên tắc SĐVT thể hiện trong BLTTHS 2015. Bên cạnh đó, đề xuất, đưa ra một

số giải pháp bảo đảm thực hiện các quy định về SĐVT trong thực tiễn là rất cần
thiết hiện nay.
Nhận thức như vậy, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong
tố tụng hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở Việt Nam, hiện nay các công trình, bài viết của các nhà khoa học về
nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật TTHS vẫn còn hạn chế. Các bài viết này

2


được nghiên cứu dưới nhiều góc độ và phạm vi khác nhau nhưng về cơ bản vẫn
cùng một nội dung, mục đích chung là tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền
công dân, quyền của người bị buộc tội. Bảo đảm các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thực hiện đúng quy định BLTTHS trong quá trình tố tụng.
Một số bài viết, công trình nỗi bật cụ thể, như: Luận án tiến sĩ “Bảo vệ quyền
con người bằng pháp luật hình sự và tố tụng hình sự” của Nguyễn Quang Hiền; Bài
viết “Nguyên tắc suy đoán vô tội” trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 11/2006
của PGS TS Nguyễn Thái Phúc; Bài viết “Các nguyên tắc của tố tụng hình sự Việt
Nam” của GS TSKH Đào Trí Úc; Bài viết “Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô
tội trong chế định về xét xử của Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” của Ts Đinh Thế
Hưng; Bài viết “Nguyên tắc suy đoán vô tội – nguyên tắc hiến định quan trọng
trong BLTTHS năm 2015” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, Tạp chí Kiểm sát số 02 (2017); “Bình luận về nguyên tắc tranh tụng
trong BLTTHS năm 2015 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi" (2015), Tạp chí Kiểm
sát, số 09, của PGS.TS Nguyễn Thái Phúc; Bài viết “Bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự - Khái quát các tiêu chuẩn quốc tế và quy định pháp luật Việt
Nam” Tác giả: PGS. TS. Trần Văn Độ Viện Nhà nước và pháp luật; "Bảo đảm
nguyên tắc "suy đoán vô tội" và tính thống nhất giữa Hiến pháp với Bộ luật hình sự,
Bộ luật tố tụng hình sự" (2013) của Trịnh Tiến Việt…Tác giả Nguyễn Văn Hiện có

bài viết “ Tòa án và việc bảo vệ quyền và lợi ích của cá nhân và tổ chức” – Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, tháng 8/1999. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà nội xuất
bản cuốn “Quyền con người” (năm 2011) do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên…vv
Các công trình khoa học, các bài viết của các tác giả trên đã nghiên cứu các
vấn đề về nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự nhưng chủ yếu thực hiện
trước khi Bộ luật TTHs 2015 được ban hành. Những công trình trên rất có ý nghĩa để
thực thi được đề tài “Nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt Nam”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về lý luận và thực

3


tiễn, luận văn khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nguyên tắc SĐVT là nguyên
tắc cơ bản trong TTHS Việt Nam. Từ đó, đưa ra kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện
pháp luật TTHS cũng như các giải pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vô
tội trong thực tiễn tố tụng hình sự Việt nam .
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về SĐVT; các biện
pháp bảo đảm quyền SĐVT của người bị buộc tội
Phân tích, đánh giá sự thể hiện của nguyên tắc SĐVT trong TTHS Việt Nam
Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện nguyên tắc SĐVT trong quá trình giải
quyết các vụ án hình sự
Đề xuất giải pháp đảm bảo thực hiện nguyên tắc SĐVT trong thực tiễn
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quan điểm lý luận về SĐVT. Pháp luật thực định về
nguyên tắc SĐVT trong giải quyết vụ án hình sự (điều tra, truy tố, xét xử). Các

phương thức, giải pháp bảo đảm quyền nguyên tắc SĐVT trong quá trình tố tụng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật thực định về SĐVT; Những tài
liệu, bài viết, công trình đã được nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực SĐVT.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là Những quan điểm của Mác-Lênin,
tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước về xây dựng Nhà nước
pháp quyền và Cải cách tư pháp
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu như: phương pháp hệ
thống, so sánh, phân tích, tổng hợp,...;Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, các Hiến
pháp, BLTTHS, các văn bản pháp luật có liên quan, tham khảo các công trình

4


nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước về các vấn đề liên quan. Trong đó, hai
phương pháp nghiên cứu và phân tích là hai phương pháp chủ đạo của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc SĐVT,
những yêu cầu đặt ra đối với cơ quan THTT, chủ thể THTT trong hoạt động điều
tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đưa ra các giải pháp cụ thể trong từng giai đoạn, kiến nghị hoàn thiện quy
định pháp luật tố tụng trong giai đoạn cải cách tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và pháp luật về nguyên tắc suy đoán

vô tội.
Chương 2: Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong Bộ luật tố tụng
hình sự 2015 và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số yêu cầu và giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy
đoán vô tội trong thực tiễn.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ
NGUYÊN TẮC SUY ĐOÁN VÔ TỘI
1.1. Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội
Trong tiếng Anh, thuật ngữ suy đoán vô tội được dịch từ “presumption of
innocence” trong các tài liệu khoa học hay cụm từ “the right to be presumed
innocent” trong các văn kiện quốc tế về quyền con người. Chẳng hạn, Tuyên ngôn
phổ quát về quyền con người 1948 nêu “Everyone charged with a penal offence has
the right to be presumed innocent until proved guilty” (khoản 1, Điều 11), và tương
tự, Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị 1966 nêu “Everyone charged
with a criminal offence shall have the right to be presumed innocent until proved
guilty” (khoản 2 Điều 14).[10]
Nguồn gốc của thuật ngữ “suy đoán” bắt nguồn từ tiếng La tinh
“praesumptino” hay trong tiếng anh “presump” được hiểu là coi vấn đề, hiện tượng
nào đó là đúng đắn cho đến khi chưa có lý do bác bỏ vấn đề, hiện tượng đó. Luật
học không sử dụng “presump” theo nghĩa suy đoán, theo từ điển Longman nêu rõ
trong lĩnh vực luật, “presump” được hiểu là ‘chấp nhận một điều gì đó là đúng cho
đến khi nó được chứng minh là không đúng’. Đây chính là khái niệm giả định, giả
thiết trong tiếng Việt [10]. Như vậy với cách sử dụng thuật ngữ “presump” đã xuất
hiện đến hai ý kiến với ý nghĩa khác nhau, “suy đoán” hoặc “giả định”. Dưới góc

ngữ nghĩa tiếng Việt thì đây là hai thuật ngữ hoàn toàn khác nhau. Việc “Suy đoán"
đòi hỏi phải có thông tin, dữ kiện, tài liệu, chứng cứ để khiến con người tin vào một
điều gì đó. Còn Giả định được hiểu là “cho một cái gì đó là có thật để làm căn cứ để
tiến hành làm cái gì đó”.
Theo ngôn ngữ đời thường, suy đoán là dựa vào cái này mà đoán ra cái khác.
Trong pháp luật, suy đoán là một trong những kỹ thuật lập pháp, là suy đoán pháp
lý nên phải chịu sự ràng buộc của pháp luật.
6


Cội nguồn của nguyên tắc suy đoán vô tội có từ thời La-mã cổ đại khi người
ta cho rằng trách nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo và chỉ áp dụng trong tố
tụng dân sự.[13] Tư tưởng này chỉ trở thành nguyên tắc pháp luật khi khi cách Cách
mạng tư sản Pháp thắng lợi cùng với đó là đòi hỏi ngày càng gay gắt của xã hội:
Cần phải có biện pháp hạn chế, chống lại sự chuyên quyền, độc đoán xâm phạm thô
bạo quyền con người trong tố tụng hình hình sự từ phía nhà nước. Suy đoán vô tội
được ví như là nguyên tắc “vàng” trong TTHS, một thành tựu vĩ đại của văn minh
nhân loại trong việc bảo vệ quyền con người và chứng minh trong TTHS đã được
thể hiện trong Tuyên ngôn Nhân quyền 1948, Công ước quốc tế về Quyền chính trị,
dân sự năm 1966 của Liên hợp quốc. Luật TTHS của nhiều nhà nước văn minh
cũng đã ghi nhận suy đoán vô tội là nguyên tắc cơ bản trong luật TTHS. Nguyên tắc
này có những nội dung sau đây:
- Người bị tình nghi, bị can, bị cáo luôn vô tội cho đến khi có bản án kết tội
có hiệu lực pháp luật của toà án.
- Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, người bị tình nghi, bị can, bị
cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh sự vô tội của mình.
- Mọi nghi ngờ về pháp luật và chứng cứ đều phải được giải thích có lợi cho
người bị tình nghi, bị can, bị cáo.
- Bản án không được dựa trên những chứng cứ giả định.
Hoạt động phát hiện, xử lý mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm,

không làm oan người vô tội trong tố tụng hình sự là một dạng của hoạt động nhận
thức. Chính vì vậy những quan điểm triết học về nhận thức nói chung cũng ảnh
hưởng rất nhiều đến nhận thức trong tố tụng hình sự. Lịch sử triết học đã cho thấy,
xuất phát từ quan điểm cho rằng ý thức là nguồn gốc của mọi tồn tại, ý thức quyết
định vật chất…, các nhà triết học duy tâm cho rằng: Không phải thế giới vật chất
mà chính các ý niệm tinh thần mới là đối tượng của nhận thức. Nhận thức là hoạt
động của linh hồn nhằm hồi tưởng lại những ý niệm tuyệt đối nằm ngoài thế giới
vật chất. Con người không nhận thức được bản chất mà chỉ nhận thức được những
đặc tính bề ngoài của của sự vật hiện tượng, sự vật. Chính những quan niệm duy

7


tâm về nhận thức này ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh, thu thập chứng cứ và
xử lý tội phạm của luật TTHS trong các nhà nước chiếm hữu nô lệ hay nhà nước
phong kiến. Luật TTHS trong nhà nước này cho phép quan toà xử theo quan niệm,
ý chí chủ quan của mình. Từ đó, việc kết luận có tội hay không có tội tuỳ thuộc vào
quan tòa với những thủ tục tố tụng phản khoa học, những cách đối xử với người bị
tình nghi phi nhân tính. Ví dụ: Quan niệm hòa đồng giữa công lý và thượng đế cho
rằng nếu người phạm tội chịu được những nhục hình tra tấn như căng nọc, nhúng
nước sôi, phơi nắng, đóng dấu bằng lửa…mà vẫn sống thì quan toà cho đó là ý chí
của Thượng đế chứng nhận người này không phạm tội nên tha bổng. Với kiểu tố
tụng như vậy tất yếu sẽ dẫn đến công lý bị xuyên tạc bởi sự vu cáo và thiên vị.
Khác với quan điểm duy tâm về nhận thức, lý luận nhận thức Mác-xít khẳng
định: Nhận thức là hoạt động của con người thông qua sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa con người và thế giới xung quanh. Con người hoàn toàn có thể nhận thức được
thế giới. Nhận thức của con người không chỉ dừng lại ở những hiện tượng bề ngoài
của đối tượng nhận thức mà có thể nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Đồng thời, lý luận nhận thức Mác-xít cũng chỉ rõ: Con người không thể ngay tức
khắc nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng. Nhận thức là một quá trình từ

thấp lên cao, từ chưa biết đến biết, từ biết chưa đầy đủ đến biết đầy đủ, từ hiện
tượng đến bản chất…. Lê-nin đã tổng kết: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - Đó là con đường biện chứng của sự
nhận thức chân lý. Trong quá trình nhận thức, con người luôn phải giải quyết các
mâu thuẫn và mục đích cuối cùng là đạt đến chân lý. Chân lý là tri thức có nội dung
phù hợp với thực tiễn khách quan mà nó phản ánh. Lê-Nin đã khái quát lý luận nhận
thức Mác-xít như sau: Trong lý luận nhận thức cũng như trong tất cả các lĩnh vực
khác của khoa học, cần suy luận một cách biện chứng, nghĩa là đừng giả định rằng
nhận thức của chúng ta là bất di bất dịch có sẵn, mà phải phân tích xem sự hiểu
biết nảy sinh từ không hiểu biết như thế nào, sự hiểu biết không đầy đủ và không
chính xác trở thành đầy đủ hơn và chính xác hơn như thế nào”.
Cũng giống như hoạt động nhận thức khác, nhận thức trong tố tụng hình sự

8


phải được bắt đầu bằng những giả thiết chứ không phải là những định kiến sẵn có.
Khi có sự kiện pháp lý đem đến sự suy đoán về dấu hiệu tội phạm các cơ quan tiến
hành tố tụng phải đặt giả thiết có thể có hoặc không có tội phạm và người phạm tội.
“Có thể” chứ không phải là “chắc chắn” phạm tội hay vô tội. Ngay cả khi một
nhân viên điều tra hay thẩm phán trực tiếp chứng kiến sự việc phạm tội đi chăng
nữa thì vẫn không thể vì thế mà không bắt đầu quá trình chứng minh trong tố tụng
hình sự bằng sự suy đoán. Bởi vì, nhận thức của nhân viên điều tra hoặc thẩm phán
trên là nhận thức của cá nhân anh ta về vụ án chứ không phải nhận thức của cơ quan
tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng. Mặt khác, nếu cá nhân điều tra
viên, thẩm phán trực tiếp chứng kiến vụ việc thì địa vị pháp lý của anh ta trong vụ
án phải là người làm chứng chứ không được là người tiến hành tố tụng.
Từ phân tích trên, có thể khẳng định nhận thức trong TTHS trước hết phải
bắt đầu bằng sự suy đoán: Suy đoán có tội và suy đoán vô tội chứ không phải là
những định kiến có sẵn là có tội hay vô tội.

Chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân và vì dân một nhà nước mà ở đó, quyền con người được thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Điều
đó đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật TTHS nói riêng cần
phải được hoàn thiện. Trong đó, những tư tưởng pháp lý tiến bộ được quốc tế thừa
nhận như giá trị chung của văn minh nhân loại phải được nghiên cứu và ghi nhận về
mặt lập pháp. Vì thế, việc ghi nhận cụ thể, đầy đủ nguyên tắc suy đoán vô tội như là
nguyên tắc cơ bản là đòi hỏi cấp thiết của luật TTHS trong nhà nước pháp quyền.
Với tư cách là nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam, nguyên tắc SĐVT là
các quan điểm làm nền tảng, định hướng và chi phối toàn bộ tố tụng hình sự trong
đó khẳng định một người luôn vô tội cho đến khi họ được chứng minh là có tội
bằng bản có hiệu lực pháp luật của tòa án bằng thủ tục tố tụng công bằng do luật
định.
Suy đoán vô tội được coi là một trong những thành tựu lớn của khoa học
pháp lý thế giới và được một số nước coi là nguyên tắc trong pháp luật tố tụng hình
sự. Tuy nhiên hiện vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau của các nhà luật học về Suy

9


đoán vô tội, song tựu lại có thể thấy 02 nhóm qua điểm:
Một là, nhóm quan điểm không thừa nhận: Nhóm này cho rằng nếu không có
lỗi cá nhận cụ thể trong những sự việc cụ thể thì không thể có điều tra và xét xử.
Việc suy đoán lúc này mang tính chất có tội, vì nếu không có lỗi thì đã không có
việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, người bị buộc tội bị suy đoán là
có phạm tội và do vậy, luật cần quy định cho họ có nghĩa vụ chứng minh sự không
phạm tội của mình giống như các cơ quan tiến hành tố tụng chỉ cần xác định sự thật
khách quan của vụ án đúng như những gì xảy ra trong thực tế là đủ mà không cần
đến nguyên tắc suy đoán vô tội.
Hai là, nhóm quan điểm thừa nhận: Hoạt động tố tụng hính sự khác với các
hoạt động khác của con người, nơi mà hoạt động nhận thức có thể kết thúc bằng
một kết quả nhận thức mới hoặc có thể chưa đem lại kết quả gì. Hoạt động tố tụng

hình sự không thể kết thúc mà không có kết quả pháp lý cụ thể. Cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự không thể kết thúc hoạt động tụng mà vấn đề có phạm tội hay không
phạm tội vẫn chưa thể kết luận được. Nhiệm vụ của tố tụng hình sự là khi kết thúc
hoạt động tố tụng hình sự phải xác định rõ ràng hoặc người bị buộc tội là có tội hay
không phạm tội. Như vậy, các cơ quan tiến hành tố tụng phải xuất phát từ chỗ hoặc
là người bị buộc tội được áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội cho đến khi chứng
minh được có phạm tội hoặc là người bị buộc tội bị áp dụng nguyên tắc suy đoán vô
tội cho đến khi chứng minh được là không phạm tội. Lịch sử phát triển tố tụng hình
sự trên thế giới đã không chấp nhận nguyên tắc suy đoán có phạm tội và đã phát
triển theo hướng nhân đạo và ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội. [19]
Từ những quan điểm khoa học pháp lý đó, pháp luật TTHS Việt Nam đã tiếp
thu tư tưởng tiến bộ và ghi nhận SĐVT là một trong những nguyên tắc cơ bản của
luật TTHS để bảo đảm quyền con người và hoạt động TTHS.
Trước khi BLTTHS 2015 ra đời thì thuật ngữ “suy đoán vô tội” chưa được
quy định chính thức trong bất cứ điều luật điều luật nào. Tuy nhiên một phần của
nội dung và tư tưởng của nguyên tắc cũng đã được xuất hiện ở một số văn bản quy
phạm pháp luật cũ. Trước tiên tại thông tư số 2252/HCTP ngày 29/10/1953 cho

10


rằng “Không nên có định kiến rằng, hễ người bị truy tố là nhất định có tội mà đối
xử như người có tội; bị can trước khi tuyên án được coi như vô tội để toà án có thái
độ hoàn toàn khách quan”. BLTTHS năm 1988 ra đời đã quy định rõ hơn nội dung
này tại điều 10: “Không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt, khi chưa có
bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Hiến pháp 1992 kế thừa và
khẳng định lại tinh thần SĐVT một lần nữa tại Điều 72: “Không ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp
luật.[36]
Trong Hiến pháp sửa đổi bổ sung năm 2001 nội dung của nguyên tắc SĐVT

được quan tâm hơn và được quy định tại Điều 72 Chương V của Hiến pháp với tên
gọi của chương là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. BLTTHS năm 2003
ra đời và cũng tiếp tục kế thừa phát huy những thành tựu của các Bộ luật trước, quy
định rõ ràng hơn tại Điều 9, theo đó "Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật". Tại Điều 10
BLTTHS 2003 “Xác định sự thật của vụ án” cũng quy định rõ trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không
buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Bản Hiến pháp 2013 mở ra một trang mới quyền con người khi đặt ra quy
định tại Chương II – Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Theo đó “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Đây là một trong những nội dung chính là thể hiện đầy đủ của một nguyên tắc pháp
lý quan trọng, Nguyên tắc SĐVT. Nếu như khoản 1 Điều 72 Hiến pháp cũ quy định
chỉ cần một điều kiện là có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì một
người bị coi là có tội và chịu hình phạt thì tại Hiến pháp 2013 đã nhấn mạnh và chỉ
rõ, một người bị kết tội phải có 02 điều kiện: Một là, phải tuân theo một trình tự luật
định và hai là có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Để cụ thể hóa Hiến pháp 2013, Bộ luật TTHS 2015 được ban hành và ghi
nhận một nguyên tắc hoàn toàn mới có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động TTHS

11


và góp phần bảo đảm quyền còn người, đó là “nguyên tắc suy đoán vô tội”.
Nguyên tắc mở ra một định hướng tích cực hơn và được coi là nguyên tắc
“vàng” trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử hiện nay. Bên cạnh đó, Bộ luật
TTHS 2015 đã có sự tiến bộ khi thay đổi chủ từ nhân xưng “Không ai” thành
“Người bị buộc tội”. Cách diễn đạt như vậy, không chỉ đơn thuần là thay đổi thuật
ngữ mà sự thay đổi trên đã lột tả hết bản chất của SĐVT. Theo đó, các chủ thể

SĐVT được xác định rõ gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Khắc
phục được những hạn chế của BLTTHS 2003 khi không xác đinh rõ ai là người
được SĐVT. Ngoài những chủ thể đầu tiên được SĐVT là bị can, bị cáo, Bộ luật
hiện hành đã bổ sung người bị tạm giữ và người bị bắt cũng là hai chủ thể được
SĐVT. (điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS). Người bị tạm giữ, người bị bắt là người
tại thời điểm tạm giữ hay bị bắt họ chưa có bất cứ lời buộc tội nào từ phía cơ quan
tố tụng, chỉ được biết như là tình nghi và có các căn cứ liên quan đến việc phạm tội.
Việc ra các lệnh, quyết định bắt, tạm giữ như là một lời buộc tội gián tiếp đối với
họ. Do đó, việc quy định thêm hai chủ thể này được SĐVT là phù hợp. Về cơ bản,
Bộ luật hiện hành đã thể hiện đầy đủ phạm vi của các chủ thể cũng như thời gian
được SĐVT
1.1.2. Nội dung nguyên tắc suy đoán vô tội.
Suy đoán vô tội là nguyên tắc có tính nền tảng của tố tụng văn minh, vì thiếu
nó chúng ta không thể đến được tư pháp công bằng và nhân đạo. BLTTHS 2015
quy định nguyên tắc SĐVT rất ngắn gọn (có 90 từ), nhưng hiểu như thế nào là đúng
để thực hiện mới là vấn đề mà cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố
tụng cần quan tâm. Vì đến nay, chưa có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền hướng dẫn thực hiện nguyên tắc này. Theo nhận thức của chúng tôi, nguyên
tắc “Suy đoán vô tội” có các nội dung chính sau đây:
1.1.2.1. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng
minh theo trình tự, thủ tục do Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 và có bản án kết tội
của Tòa án có hiệu luật pháp luật.
Một là, yêu cầu về lỗi phải được chứng minh theo trình tự thủ tục. Đây là yêu

12


cầu đầu tiên của nguyên tắc suy đoán vô tội. Theo GS.TSKH Đào Trí Úc, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội thì việc điều tra, truy tố và xét xử một người phải
được tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định [41]. Bộ luật TTHS

năm 2015 đã quy định rõ ràng về trình tự, thủ tục TTHS và ghi nhận là một nguyên
tắc cơ bản của TTHS tại Điều 7, “Mọi hoạt động tố tụng hình sự phải được thực
hiện theo quy định của Bộ luật này…”.
Để đáp ứng được điều kiện về trình tự thủ tục, BLTTHS 2015 đã quy định và
tổng hợp một chương riêng về một số biện pháp điều tra đặc biệt như: Ghi âm bí
mật, ghi hình bí mật; nghe điện thoại bí mật; thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều
233). Pháp luật tố tụng hình sự đã xác định chặt chẽ những căn cứ để đảm bảo cho
việc giữ bí mật nhằm bảo đảm quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp
quy định (Điều 21 Hiến pháp năm 2013). Những yêu cầu pháp lý chặt chẽ liên quan
đến các lý do hạn chế quyền con người, quyền công dân trong TTHS được cụ thể
hóa trong BLTTHS năm 2015 liên quan đến 3 yếu tố; Một là về loại tội; Hai là về
thẩm quyền, Bà là về thời hạn áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt; Bộ luật Tố
tụng hình sự cũng quy định nghiêm ngặt việc sử dụng các thông tin, tài liệu thu thập
từ các biện pháp này. Mục đích nhằm bảo đảm vụ án được giải quyết một cách
khách quan, toàn diện, làm rõ các căn cứ xác định có tội và những căn cứ xác định
vô tội. Từ những phân tích trên có thể thấy yêu cầu về trình tự thủ tục đảm bảo việc
khởi tố, điều tra, truy tố xét xử là đúng quy định pháp luật. [41]
Hai là, yêu cầu phải có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Đây
là hợp phần thứ hai của khái niệm nguyên tắc suy đoán vô tội.
Bộ luật thay cụm từ “người phạm tội” bằng các cụm từ “người thực hiện
hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm” (Điều 179, 180, 280…) nhằm
nhấn mạnh, tạo sự nhận thức rõ ràng cho người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là
chừng nào chưa có bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì người bị buộc tội
vẫn chưa bị coi là có tội; những người có thẩm quyền THTT không được đối xử với
người bị buộc tội như người có tội.
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định Tòa án nhân

13



dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Tòa án thực hiện quyền tư pháp thông qua
hoạt động xét xử để giải quyết các tranh chấp trong xã hội. Tòa án chính là cơ quan
duy nhất trong bộ máy nhà nước có quyền ra bản án kết tội khi có các căn cứ theo
quy định pháp luật. Tính duy nhất của Tòa án thể hiện ở chỗ ngoài Tòa án ra, không
có bất cứ cơ quan nào khác có thể ra quyết định đó, kể cả Quốc hội, chính phủ..vv
Như vậy chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền phán quyết, xác định một người có tội
bằng bản án kết tội có hiệu lực pháp luật.
Bản án là một văn bản pháp lý ghi nhận phán quyết của Tòa án đánh dấu sự
kết thúc toàn bộ quá trình điều tra, truy tố, xét xử, và phản ánh những kết quả của
phiên tòa, ý kiến phân tích, kết quả tranh tụng và đánh giá của hội đồng xét xử. Bản
án quyết định bị cáo là người có tội hoặc không có tội.
1.1.2.2. Trách nhiệm chứng minh lỗi của người bị buộc tội thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng hình sự. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh mình là vô tội
Trách nhiệm chứng minh tội phạm được quy định tại Điều 15 BLTTHS 2015
theo đó “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là
mình vô tội”..vv
Có thể thấy, quy định trên không chỉ thuộc nội dung nguyên tắc xác định sự
thật của vụ án mà thuộc về nội dung của nguyên tắc SĐVT. Bởi vì, cùng với việc
khẳng định người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh
theo trình tự, thủ tục do BLTTHS năm 2015 quy định và có bản án kết tội của tòa
án đã có hiệu lực pháp luật thì cũng có nghĩa thừa nhận người bị buộc tội không có
nghĩa vụ phải chứng minh sự vô tội của mình. Trách nhiệm chứng minh này thuộc
về bên buộc tội. Như vậy, để có thể ra một trong các quyết định khởi tố, điều tra,
truy tố…đòi hỏi các cơ quan THTT phải có trách nhiệm chứng minh và xác định rõ
ràng các căn cứ là có tội được quy định trong BLHS. Trường hợp nếu xác minh
không đủ các căn cứ để ra một trong các quyết định trên thì cơ quan tố tụng phải ra
quyết định trả tự do hoặc tuyên bố người bị buộc tội không phạm tội.


14


Về vấn đề quyền chứng minh của người bị buộc tội. Người bị buộc tội có
quyền được chứng minh sự vô tội của mình. Người bị buộc tội có thể trực tiếp bào
chủa để bảo vệ mình hoặc gián tiếp thông qua người khác làm người bào chữa.
Quyền chứng minh của người bị buộc tội thể hiện tính công bằng và khách quan của
TTHS nhằm bảo đảm sự bình đẳng và bảo vệ công lý. BLTTHS năm 2015 cho phép
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều có quyền đưa ra chứng cứ mà không
chỉ là đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu. Họ có quyền trình bày ý kiến của mình về
chứng cứ do các chủ thể tố tụng khác đưa ra, yêu cầu người có thẩm quyền THTT
kiểm tra, đánh giá chứng cứ đó.
Bên cạnh đó, người bào chữa còn có quyền thu thập chứng cứ, đưa ra chứng
cứ, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài
sản. Đây là một trong những điểm mới rất quan trọng và có ý nghĩa lớn trong việc
giúp người bị buộc tội tự bảo vệ và thực hiện quyền suy đoán vô tội.
1.1.2.3. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội
theo quy định của BLTTHS thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
kết luận người bị buộc tội không có tội
Nguyên tắc SĐVT đã đưa ra một phương án tốt nhất để đảm bảo quyền và
lợi ích cho người bị buộc tội. Tức là nếu không đủ chứng cứ chứng minh bị cáo
phạm tội thì tòa án phải tuyên bố người đó không phạm tội. Một thực trạng thường
hay xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng hay cụ thể
là chủ thể tiến hành tố tụng thường bắt gặp những trường hợp chứng cứ còn mập
mờ, không rõ ràng. Dù đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng vẫn không thể
xác định và thu thập chứng cứ để ra quyết định. Sau một thời gian các cơ quan
THTT vẫn không thể làm rõ, dẫn đến sự hoài nghi, có mâu thuẫn giữa các chứng
cứ, hướng giải quyết. Để chống khuynh hướng buộc tội theo kiểu tư duy: “thà làm

oan còn hơn bỏ lọt”, BLTTHS năm 2015 mở ra một hướng mới cho những trường
hợp còn tồn tại những hoài nghi.

15


Người đã thực hiện một hành vi phạm tội trên thực tế vẫn có thể được tuyên
bố là người không phạm tội nếu các cơ quan THTT không thể chứng minh bằng các
chứng cứ xác thực theo đúng trình tự thủ tục do pháp luật quy định người đó đã
thực hiện hành vi phạm tội. Người được tòa án tuyên bố không phạm tội có thể vẫn
là người đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng do không thể chứng minh người đó
đã phạm tội nên tòa án buộc phải tuyên bố người đó không có tội
1.1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội
1.1.3.1. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chứng minh.
Nguyên tắc suy đoán vô tội có vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng trong
quá trình giải quyết vụ án nói chung và quá trình chứng minh nói riêng. Nguyên tắc
SĐVT giúp hoạt động chứng minh được thực hiện đúng quy định pháp luật, theo
trình tự thủ nhất đinh và loại trừ những yếu tố, vấn đề còn nghi ngờ về hành vi
phạm tội. Bởi mọi sai lầm trong chứng minh nhiều đều ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích đến người bị buộc tội, một số trường hợp có thể phải trả giá bằng sinh mệnh của
con người. Việc định kiến đối với người bị buộc tội là người có tội là hết sức nguy
hiểm. Nó đồng nhất người bị buộc tội là người có tội kéo theo đó là việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế tố tụng tràn lan, thiếu căn cứ, chà đạp lên quyền con người
mà nhiều trường hợp khi vụ án được xem xét lại thì họ hoàn toàn vô tội. Lúc đó, có
bồi thường oan sai đi chăng nữa thì hậu quả đối với họ không thể nói là đã bù đắp
được toàn bộ.
1.1.3.2. Ý nghĩa nguyên tắc suy đoán vô tội trong việc bảo vệ quyền con
người
Dưới góc độ Quyền con người, nguyên tắc SĐVT có ý nghĩa quan trọng.
Một là thể chế hóa được các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước

trong công tác cải cách tư pháp, cụ thể hóa các Công ước quốc tế nhằm bảo vệ
quyền con người. Hai là, Nguyên tắc SĐVT bảo vệ quyền con người của người bị
buộc tội. Trong nguyên tắc SĐVT, việc ghi nhận quyền chứng minh của người bị
buộc tội sẽ đảm bảo sự cân bằng trong hoạt động TTHS giữa một bên là nhà nước
với bộ máy điều tra, truy tố xét xử hùng mạnh được thực hiện bằng quyền lực nhà

16


nước với một bên yếu thế hơn là người bị buộc tội. Đảm bảo người bị buộc tội
không bị phân biệt đối xử khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa
án.
1.1.3.3. Ý nghĩa nguyên tắc suy đoán vô tội trong xây dựng và thực hiện
pháp luật.
Nguyên tắc SĐVT mang ý nghĩa định hướng cho việc xây dựng và thực hiện
pháp luật TTHS. Nguyên tắc này thể chế hóa, đường lối chủ trương của Đảng Nhà
nước trong việc cải cách tư pháp, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, đề cao
quyền con người. Nguyên tắc SĐVT được Hiến pháp 2013 ghi nhận là một trong
những nguyên tắc hiến định, Bộ luật TTHS 2015 thể chế tinh thần đó và quy định
SĐVT cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS. Việc ghi nhận chính
thức tên điều luật “Suy đoán vô tội” cho thấy được sự quan tâm và thừa nhận tầm
quan trọng của nguyên tắc này trong pháp luật TTHS. Tạo ra một hành lang pháp lý
trong việc điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể tố tụng, duy trì trật tự và tạo điều
kiện cho việc phát huy, bảo đảm các quyền cá nhân. Đảm bảo được sự công bằng,
được tôn trọng, thực hiện đầy đủ, nghiêm minh.
Nguyên tắc SĐVT được quy định tại một điều luật nhất định nhưng tinh thần
và nội dung liên quan đến nguyên tắc luôn được lồng ghép và thể hiện trong suốt
quá trình tố tụng. Thể chế hóa điều luật trên phạm vi rộng về chủ thể và thời gian.
Bên cạnh đó, việc quy định nguyên tắc cũng mang đến sự chờ đợi của nhiều chủ thể
bị buộc tội, được dư luận quan tâm và coi như là một điều luật bảo vệ bên yếu thế.

Bảo đảm mọi người được sự tôn trọng, công bằng, khách quan và tính nhân đạo của
pháp luật TTHS và hình sự Việt Nam.
1.2. Mối quan hệ giữa nguyên tắc suy đoán vô tội và một số nguyên tắc
khác trong tố tụng hình sự.
1.2.1. Nguyên tắc suy đoán vô tội với nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa.
Nguyên tắc SĐVT có quan hệ mật thiết với nguyên tắc đảm bảo quyền bào
chữa. Quyền bào chữa là một trong những quyền quan trọng và thiết yếu đối với
người bị buộc tội. Đây là quyền mà pháp luật tố tụng hình sự trao cho họ để có thể

17


tự bảo vệ, tự biện hộ những lời cáo buộc tự phía các cơ quan điều tra, Viện kiện
sát…Nguyên tắc SĐVT sẽ không có ý nghĩa khi không có nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa. Bên cạnh đó, sự tham gia của người bào chữa (đặc biệt là của Luật
sư bào chữa) vào các giai đoạn của TTHS là điều kiện cần thiết để bảo đảm sự bình
đẳng trên thực tế giữa bên buộc tội và bên bào chữa trong các giai đoạn của quá
trình TTHS nói chung và tại phiên tòa nói riêng. Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử
các vụ án hình sự ở nước ta những năm gần đây cho thấy nhìn chung việc đảm bảo
quyền bảo chữa của người bị buộc tội đã được chú trọng hơn (như cho phép người
bào chữa có mặt ngay từ khi tạm giữ người bị tình nghi). Tuy nhiên, trên thực tế
người bào chữa gặp rất nhiều trở ngại từ phía CQĐT ở giai đoạn khởi tố, điều tra vụ
án. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng mớm cung, ép cung,
dùng nhục hình dẫn đến làm oan người vô tội đã và đang gây nhiều bất bình và bức
xúc trong dư luận xã hội. Mặt khác, theo quy định của BLTTHS thì người bào chữa
không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền thu thập đồ vật, tài liệu… và
các đồ vật, tài liệu này có được coi là chứng cứ hay không lại phụ thuộc vào sự
đánh giá của các chủ thể tiến hành tố tụng. Do đó, sự ra đời của nguyên tắc SĐVT
đã góp phần thống nhất và bổ sung cho ngyên tắc bảo đảm quyền bào chữa, khẳng
định người bị buộc tội có quyền được chứng minh mình vô tội.

1.2.2. Nguyên tắc suy đoán vô tội với nguyên tắc tranh tụng
Nguyên tắc SĐVT khẳng định người bị buộc tội được coi là vô tội khi mà tội
phạm của họ chưa được chứng minh theo một trình tự do luật quy định và chưa
được Tòa án xác định bằng một bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc
này một mặt khẳng định trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về bên buộc tội;
người bị buộc tội có quyền mà không có nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội của
mình; Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình và các hình thức trái pháp
luật khác trong quá trình thu thập chứng cứ và thực hiện các hoạt động tố tụng khác.
Mặt khác, nguyên tắc SĐVT cũng xác định Tòa án là chủ thể duy nhất thực hiện
quyền tư pháp (xét xử) và có thẩm quyền đưa ra phán quyết (bản án) nhân danh Nhà
nước kết luận người bị buộc tội là có tội hay vô tội. Tuy nhiên, nguyên tắc này sẽ

18


không thể khả thi trên thực tiễn nếu vắng thiếu nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong
xét xử với các lý do sau:
Thứ nhất, tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của TTHS giữ vai trò cốt lõi và là
tiền đề khách quan cần thiết để TTHS đạt được mục tiêu là xác định sự thật khách
quan về vụ án.
Thứ hai, nguyên tắc tranh tụng phân định rõ ràng, tách bạch các chức năng
cơ bản (buộc tội, bào chữa và xét xử) trong TTHS giữa bên buộc tội, bên bào chữa
và Tòa án, theo đó mỗi nhóm chủ thể này chỉ được thực hiện một chức năng này mà
không được phép vừa buộc tội vừa bào chữa hoặc ngược lại, vừa xét xử vừa buộc
tội hay vừa xét xử vừa bào chữa.
Thứ ba, nguyên tắc tranh tụng phân định hai nhóm chủ thể buộc tội và gỡ tội.
Đồng thời, các bên hoàn toàn bình đẳng với nhau về mặt pháp lý. Vì vậy, các chủ
thể của bên buộc tội và bên gỡ tội phải được bảo đảm các khả năng pháp lý như
nhau để bảo vệ các lợi ích của mình trong suốt quá trình giải quyết vụ án.
Thứ tư, nguyên tắc tranh tụng xác định địa vị độc lập, khách quan và vô tư

của Tòa án với tư cách là chủ thể duy nhất thực hiện quyền tư pháp (xét xử). Tòa án
hay cụ thể là HĐXX chỉ có nhiệm điều hành phiên tòa và bảo đảm các bên buộc tội,
gỡ tội được thực hiện đầy đủ các quyền của mình từ đó đưa ra quyết định, Bản án
dựa trên các chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên Tòa.
Vì vậy, có thể nói nguyên tắc tranh tụng chính là cơ sở pháp lý không chỉ tạo
sự bình đẳng về thế và lực giữa bên buộc và bên bị buộc tội mà còn đề cao vai trò
trọng tài của Tòa án. Nếu không có nguyên tắc này thì sẽ không có sự bình đẳng
giữa bên buộc tội và bên gỡ tội trên thực tế, và khi đó nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ
không thể phát huy được hiệu quả của mình.
1.2.3. Nguyên tắc suy đoán vô tội với nguyên tắc xác định sự thật vụ án
Nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tăc xác định sự thật có quan hệ bổ
sung cho nhau. Xác đính sự thât của vụ án là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng
hình sự Việt Nam được quy định tại Điều 15, theo đó: “Trách nhiệm chứng minh tội
phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng…”.Quy định nguyên tắc

19


xác định sự thật nhằm mục đích không để lọt tội phạm, trừng phạt thích đáng những
người có hành vi phạm tội đồng thời không làm oan người vô tội.
Tuy nhiên, hiện nay cũng có nhiều quan điểm trái chiều về mối quan hệ giữa
hai nguyên tắc này, cụ thể: Nếu có nguyên tắc SĐVT thì không phải quy định
nguyên tắc xác định sự thật vụ án. Bởi hai nguyên tắc này mang hai nội dung, ý
nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, theo tác giả vẫn giữ nguyên quan điểm về mối quan hệ
bổ sung cho nhau của hai nguyên tắc này bởi mô hình tố tụng hình sự của Nước ta
là mô hình thẩm vấn và đề cao tranh tụng trong xét xử. Ngoài việc ghi nhận quyền
được im lặng, quyền bào chữa, quyền được coi là không có tội khi các cơ quan
THTT không thể kết tội,…, thì pháp luật nước ta còn quy định về trách nhiệm của
các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
1.2.4. Nguyên tắc suy đoán vô tội với nguyên tắc bảo đảm pháp chế

Suy đoán vô tội là sự thể hiện quan điểm của Nhà nước trong việc tôn trọng
các giá trị cao quý của con người (nhân phẩm, danh dự) trong xã hội và coi một
người có đủ tư cách công dân với các quyền, nghĩa vụ do Hiến pháp và pháp luật
quy định, khi người đó chưa bị Tòa án (cơ quan có thẩm quyền xét xử) kết tội bằng
một bản án có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, để loại trừ, ngăn ngừa sự tùy tiện, lộng
quyền, áp đặt hay vi phạm pháp luật từ phía cơ quan THTT, người THTT mà Hiến
pháp và Bộ luật TTHS Việt Nam đã quy định rõ các hoạt động TTHS phải tuân thủ
nghiêm chỉnh nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa "Mọi hoạt động TTHS của cơ
quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy
định của Bộ luật này". Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc
cơ bản được ghi nhận xuyên suốt quá trình hoạt động cũng như giải quyết vụ án của
cơ quan THTT. Nguyên tắc này không chỉ định hướng cho hoạt động TTHS mà còn
định hướng cho việc xây dựng pháp luật trong thực tiễn.
Nguyên tắc SĐVT có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa. Ngay trong nội dung đầu tiên của nguyên tắc SĐVT đã đề cập đến
yêu cầu về trình tự thủ tục. Có thể thấy rằng mọi quyết hoạt động của cơ quan
THTT, người THTT phải tuân theo những trình tự thủ tục do BLTTHS 2015 quy

20


×