Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Những đóng góp của tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền văn xuôi việt nam hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (23.79 MB, 177 trang )

BỌ GIAO DỤC VA ĐAO TẠO
ĐẠI HỌC QUÓC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNC ĐẠI HỌC KHOA HỌC XẢ HỘT VÀ NHÂN VẲN

TRỊNH Iĩồ KII0A

NHU NG ĐÓNG GÓP CỦA TỤ' Lực VĂN ĐOÀN
CHO VIỆC XÂY DựNG
MỘT NỀN VÃN XUÔI VIỆĨ NAM HIỆN ĐẠI
:i





I

I

I

I

I

CHUYÈN NGÀNH: Ván hoc Việt Nam
MÃ SỐ:

5 04. 33

LUẬN ÁN PHÓ TIẺN SỸ KHOA HỌC NGữ VĂN






NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GIÁO S ư PHAN C ự Đ È

Hà Nội - 1996


M Ụ C LỤC
Trang

A. MỞ ĐẦU

1

I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
III.Lịch sử vấn đề nghiên cứu
IV.Phương pháp nghiên cứu
V.
Đóng góp của luận án
VI.Ý nghĩa thực tiễn của luận án
VII. Kết cấu của luận án
B. NỘI DUNG

1
2
3

12
12
13
14
16

Chương /:

r Vai trò của Tự lực văn đoàn trong quá trình hiên đai
hóa nền văn học Việt Nam
»



I. Những yêu cầu của lịch sử, xã hôi đối với cuôc cách tân
văn hoc
II. Vai trò của Tự lực văn đoàn trong cuộc cách tân văn học

16
^

Chương II:

Những đóng góp về nội dung tư tưởng của văn xuôi
Tự lực văn đoàn
I. Đấu tranh nhằm giải phóng cái “Tôi“ cá nhân ra khỏi sự
ràng buộc của lễ giáo và đại gia đình phong kiến.
II. Những biểu hiện của một tinh thần dân tộc thầm kín

-ị


5\
55

Chương III:

Những cách tân trons nshệ thuật văn xuôi.
I. Một bước tổng hợp mới giữa những ảnh hưởng của văn
hóa Đống, Tây và truyền thống vãn học dân tộc.
II. Một bước tiến mới trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
và miêu tả thiên nhiên
1. Miêu tả vẻ đẹp thể chất
2. Miêu tả thế giới nội tàm
3. Miêu tá thiên nhiên trong mối quan hệ hài hòa vòi
con người
• III. Sự đổi mới cốt truyện và kết cấu trorm các thể lọai tiểu .
thuyết và truyện ngắn
IV. Sự đổi mới ngôn ngừ và ỉãọng điệu văn xuôi
C.KẾT LUẬN
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO

33

83

10 °
10 3
109
126


1 37
I ‘59
162
ị 66 "


A . MỞĐẦU

I - LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong lịch sử văn học Việt Nam, Tự lực văn đoàn là một hiện tượng
văn học phức tạp ,đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm trong dư luận.
Trong bản báo cáo "Chủ nghĩa Mác và vắn đề văn hóa Việt Nam "
đọc tại hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ II tháng 7 năm 1948, khi đề cập
đến trào lưu lãng mạn trước cách mạng tháng Tám, đồng chí Trường Chinh
đã nêu lên những mặt hạn chế của văn-đoàn này," nhưng đồng thời cũng
khẳng định rằng : "Dầu sao, hoạt động của nhóm Tự lực văn đoàn đã đẩy
mạnh phonơ trào văn nghệ nước ta tiến tới".
Mặc dầu vậy, suót bốn thập kỷ sau, một só nhà nghiên cửu của
chúng ta đã không quán triệt được tinh thần gạn đục khơi trong của đồng
chí Trường Chinh khi đánh giá hiện tượng văn học này: Quá chú ý vào
thái độ chính trị của Nhất Linh, Khái Hưng từ sau năm 1940 nên đã nhìn
nhận những nhân vật chủ chót của văn đoàn này với thái độ thành kiến mà
không chú ý đúng mức đến tiêu chí văn học trong đánh giá do đó không
nêu được đầy đủ những đóng góp của họ cho nền văn học nước nhà. Điều
này đã dẫn đến một số nhận
thức sai lệch
của nhiều thế hệ. học
sinh, sinh



.
J

%

7

viên khi học tập, nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn.
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI, với chính sách mổ cửa của Nhà
nước, chúng ta đã có cơ hội mỏ rộng giao lưu văn hóa với tất cả các nước,
được tiếp cận nhiều hơn với tư liệu và phương pháp nghiên cứu đa dạns
hơn. Nòi một cách khác, chúng ta có những điều kiện thuận lợi cho việc
thẩm định lại những tác phẩm văn chương quá khứ. Trons bối cảnh như
vậy việc nghiên’cứu hiện tượng văn chương Tự lực văn đoàn để đánh giá


một cách thỏa đáng vai trò của nó đôi với sự phát triển nền văn học dân tộc
một việc làm cần thiết và bổ ích.
Đe góp phẩn nhổ bé của mình vào phong trào nghiên cứu chung,
nhằm nêu lên nhừng giá trị nhân văn, giá trị nghệ thuật và làm sáng tỏ
công lao của Tự lực văn đoàn trong việc cách tân nền văn hóa dân tộc,
chúng tôi đẵ viết bản luận án với đề tài:
"Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây dựng một nền
văn xuôi Việt Nam hiện đại"

II - MỤC
ĐÍCH VÀ NHIỆM
v ụ• CỦA ĐE TÀI:



Tự lực văn đoàn là một hiện tượng văn học phức tạp - Các cây bút
chủ chốt của Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo thời
kỳ đầu có nhiều ý tưỏng tót, tư tưỏng tiến bộ. Điều này biểu hiện khá rõ ỏ
nhừng hoạt động xã hội và văn chương của họ. Khi Nhật vào Đông Dương
(1940), những người này dần đần từ bỏ con đường văn chương rẽ sang con
đường hoạt động chính trị thân Nhật, tham gia nhiều hoạt động, đảng phái
chống lại cách mạng. Sự kiện trên đã gây không ít khó khăn cho việc
đánh giá văn phẩm của họ.
Ngoài hiện tượng chính trị trên đây, còn có một hiện tượng phức tạp
trong văn chương: Cùng một tôn chỉ của văn đoàn nhưng nhân sinh quan,
quan điểm thẩm mỹ, phong cách nghệ thuật của các nhà văn không giổng
nhau, có trườns hợp củng một tác giả nhưng nhừng tác phẩm viết vào thời
kỳ Mặt trân Dân chủ gíá trị hơn hẳn nhừns cuổn viết về sau. Có nhiều tác
phẩm có thể xếp nsang hàng với văn học hiện thực. Nhưng cũng có vài ba
cuốn chỉ có giá trị nghệ thuật văn chương còn ý nghĩa xà hội rất yếu.


Tham khảo con người chính trị của nhà văn để hiểu rõ hơn tác phẩm
là cần thiết nhưng nhiệm vụ của đề tài là dựa chủ yếu vào tiêu chí của văn
học để xem xét và đánh giá nhằm nêu lên những

đóng góp của Tự lực văn

đoàn cho sự phát triển văn chương hiện đại nói chung, văn xuôi Việt Nam
hiện đại nói riêng.
Sự nghiệp văn chương Tự lực văn đoàn bao gồm nhiều thể loại: thơ,
văn xuôi, kịch và cả lý luận phê bình. Do yêu cầu của đề tài, chúng tôi chỉ
giói hạn nhiệm vụ nghiên cứu của mình trong phạm vi văn xuôi chủ yếu là
tiểu thuyết và phóng sự. truyện ngắn,
Văn chương Tự lực văn đoàn có nhiều ưu điểm đáng trân trọng

nhưng cũng còn có những mặt hạn chế và nhược điểm. Trong bản luận án
này, chúng tôi có lưu ý đến mặt yếu đó nhưng không đi sâu,- mà
chủ yếu

tập

trung

khai thác phần đóng góp của văn đoàn cho sự

phát triển của nền văn nghệ nước nhà trong những năm 30 của thế kỷ này
như có lần đồng chí Trường Chinh đã nhắc tới.

III - LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU:
Trong lịch sử văn học Việt Nam cận hiện đại, ít có một hiện tượng
văn học mà từ khi ra đời đến nay đã trỏ thành đề tài tranh luận sôi nổi trên
báo chí và thu hút sự chú ý của giới phê bình văn học như hiện tượng Tự
lực văn đoàn.
Trước năm 1945, Trương Chính đã viết cuốn "Dưới mắt tôi" (1939),
trong đó ông dành hơn một trăm trang nghiên cứu những tác phẩm chính
cáa Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam như Đọan tuyệt, 'Lạnh lùngì *rối
tăm (Nhất Linh ); 'Hồn bướm mơ tiêrì* *Nửa chừng xuân', ^Trống Mái* "Gia


đình* (Khái Hưng ) Gánh hàng hoa, Đời mua gió (Nhất Linh - Khái Hùng)
và tập truyện ngắn của Thạch Lam: Gió đầu mùa?
Những trang viết của ông cho đến nay vẫn còn có giá trị; tuy quá đề
cao nhưng ông cũng có nhiều ý kiến xác đáng. Chẳng hạn ông cho rằng
"Đoạn tuyệt" vẫn là một tuyệt tác trong văn chương Việt Nam vượt lên trên
tất cả những lời phê bình nông nổi không xác đáng vì người phê bình còn

mang tư tưỏng thành kiến bị chi phối bỏi giáo lý phong kiến. Ông khen
"Hồn bướm mơ tiên" của Khái Hưng là "quyển truyện thứ nhất cám dỗ lạ
lùng mà nhà phê bình sung sướng gặp đưộc trong khi khảo cứuvề văn học _
Việt Nam hiện đại" (4,35) - Ông chê "Nửa chừng xuân" kết cấu không chặt
chẽ và trong quá trình viết Khái Hưng sao nhãng chủ đề xung đột giữa cá
nhân và gia đình. Ông vạch ra nhiều lỗi trong cách hành văn của Thạch
Lam nhưng ông cũng không phủ nhận Thạch Lam là một văn tài và là "một
dấu hiệu riêng, không thể lầm lẫn được". "Tuy không sâu sắc bằng Khái
Hưng, không rắn rỏi bằng Hoàng Đạo, Thạch Lam có một tâm hồn dễ rung
động hơn. Phản ánh tư tưỏng và tâm lý, nhà văn ấy lại nhiều tình
cảm."(4,149).
Năm 1941, Dương Quảng Hàm cho xuất bản cuốn "Việt Nam văn
học sử yếu" làm sách giáo khoa cho bậc trung học - Ông dành bốn trang
cho Tự lực văn đoàn để trình bày tóm lược tổ chức, tôn chỉ, các văn gia và
tác phẩm chính, v ề các văn gia, ỏng cũng chỉ nêu có hai: Nhất Linh và
Khái Hưng, và chỉ nhận xét có bốn tác phẩm: "Đoạn tuyệt", "Lạnh lùng",
"Hồn bướm mơ tiên" và "Nửa chừng xuân". Ông cho rằng, hầu hết tác
phẩm của Nhất Linh là tiểu thuyết luận đề, còn Khái Hưng thì thiên về
khuynh hướng lý tưỏng. Theo ông, trong hai cuón của Nhất Linh, "ta nhận
thấv sự xung đột của quan niệm mới và tập tục cù, mà kết cục thì hoặc là


sự đắc thắng của quan niệm mới, hoặc là sự đắc thắng của tập tục cù". Hai
tác phẩm của Khái Hưng "tuy vẫn có khuynh hướng xà hội, nhưnơ lại thiên
về mặt lý tưỏng và có thi vị riêng... Khái Hưng có một cách tả người tả
cảnh tuy xác thực mà có một vẻ nhẹ nhàng, thanh thú khiến cho người đọc
thấy cảm" (38,453)
Năm 1942, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan cho ra công trình "Nhà văn
hiện đại" gồm bón cuốn dày tới gần 1400 trang, trong đó gần 100 trang
viết về Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam - Quan điểm đánh

giá của ông về các nhà văn này nhìn chung rất gần với sự đánh giá của giới
phê bình hiện nay.
Ông gọi Nhất Linh là tiểu thuyết gia có khuynh hướng về cải cách
... nhừng tiểu thuyết có giá trị của ông đều phô bày cho người ta thấy
những tình trạng xấu xa hoặc của gia đình hoặc của xẵ hội Việt Nam , và
trong các truyện của ỏng bao giờ cũng có những nhân vật kiên tâm, gắng
sức để đổi mới cho cuộc đời minh
Vũ Ngọc Phan cho rằng Nhất Linh không phải là một nhà tiểu
thuyết xã hội mà "phần nhiều tiểu thuyết của ông thuộc loại tiểu thuyết
luận đề, tuy ông đã đi từ tiểu thuyết tình cảm đến tiểu thuyết tâm lv"(l 14,
Q3,92)
v ề truyện ngắn, ông so sánh truyện của Nhất Linh với truyện của
Pierre Hamp ,.một nhà văn bình dân Pháp hay viết về cảnh lầm
than của thợ thuyền. Và ông nhận xét sự thương xót của Nhất Linh đổi với
ơiai cấp cần lao là sự thương xót của người ồ giai cấp khác. Hình như Vù
Nơọc Phan không thích Nhắt Linh bàng Khái Hùng; số trang dành cho
Khái Hưng cũng nhiều hơn (39/12) và lời khen Khái Hưng cũng "nặng càn
' hơn Nhất Linh:


6

"Hiện nay, nhà văn mà nam nừ thanh niên yêu chuộng, được họ coi
là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẽ chỉ có Khái Hưng ... Khái Hưng
là văn sỷ của thanh niên Việt Nam cũng như Alfred de Musset là thi sỹ của
thanh niên Pháp thủa xưa" ( 1 14,Q tư thượng, 13).
Sau cách mạng tháng tám (1945 - 1954) hiện tượng Tự lực văn đoàn
gần như rơi vào quên lãng trừ ý kiến của đồng chí Trường Chinh mà chúng
tồi đã nêu ỏ mục I.
Nhưng từ 1954 đến nay, vấn đề Tự lực văn đoàn lại thu hút sự chú ý

của các giới nghiên cứu văn học.

_____

_____

ở miền Nam,(trước 1975 )văn chương Tự lực văn đoàn được dành cho vị tr
tiên trong chương trình văn học hiện đại ỏ bậc trung học phổ thông.
Tác phẩm của Tự lực văn đoàn được tái bản liên tục. Những loại
sách kiểu luyện thi xuất hiện ngày càng nhiều. Sách được soạn theo lối
"kết hợp'’ giữa giảng văn và luận đề. Mỗi tác giả hoặc tác phẩm được xoay
quanh một số luận đề chính có thể giúp học sinh "trúng tủ" trong các kỳ
thi.
Sau cái chết của Nhất Linh (7 - 7 1963) xuất hiện một đợt viết về
Nhất Linh và các văn gia khác của văn đoàn này: "Hạnh phúc trong tác
phẩm Nhất Linh (Đặng Tiến), "Một vài nét về chân dung Nhất Linh "
(Nguyễn Tường Hùng); "Vĩnh quyết Nhất Linh "(Nguyễn Mạnh Côn);
" Triết lý tuyệt hảo trong cuộc đời của Nhất Linh (Trương Bảo Sơn);Người
bác "(Thế Ưyên).ổNhững kỷ niệm chia ngọt sẻ bùi cùns Thạch Lam (Đinh
Hung) ... Đây chỉ là những bài viết ngắn nhận xét

về tác giả hoặc tác

phẩm chưa đạt đến tầm cổ của nhung công trình nghiên cứ có tính qui mô.


Có vẻ bề thế hơn cả là mấy cuốn lịch sử văn học Việt Nam viết về
giai đoạn "Việt Nam mới" (1862 - 1951), trong đó Tự lực văn đoàn được
khảo cứu khá công phu:
1 - Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930 - 1945

(NXB Vàng Son 1974) của Thế Phong.
2 - Lịch sử văn học Việt Nam - Giản ước tân biên, tập 3 của Phạm
Thế Ngũ (NXB Phạm Thế s J 972).
3 - Bảng lược đồ văn học Việt Nam của Thanh Lãng (NXB Trình
bày, 1967).
Hai cuốn đầu có kết cấu gióng như công trình nghiên cứu của
Trương Chính trước cách mạng tháng Tám. Sau phần vào đề có tính khái
quát, ngưòi viết đi sâu vào từng tác giả của Tự lực văn đoàn và phê bình
một số tác phẩm tiêu biểu. Ý kiến đánh giá không có gì mới hơn ý kiến của
các nhà nghiên cứu tiền chiến.
Chẳng hạn, về Khái Hưng, Thế Phong khen Khái Hưng làm say mê
ngưòi đọc nhất là về truyện ngắn" (117 ,25); hai tác phẩm Hạnh* "Băn
khoăn "đi sâu vào tâm lý với một kỹ thuật viết trùỏng thành "
(117, 27); cuón "Bướm trắng" (Nhất Linh) chịu ảnh hưỏng rất trung thành
hơi văn của Dostoievski trong "Tội ác và Trừng phạt". Còn đối với Hoàng
Đạo thì "Con đường sáng'là truyện điển hình cho sự nghiệp của ông ...
truvện của ông có một phần sâu sắc trong vấn đề xây dựns xã hội ...
(117. 67).
Phạm Thế Ngũ khen tác giả "Bưỏm trắng" đã đùa ngòi bút phân
tích tâm 1Ý vào địa hạt nhân bản( 99 ,463) và cho rằng ồ truyện nơắn và
kịch Khái Hưng có cái cười dí dỏm đối với nhân tình thé thái"( 99, 463).


8

Nhìn chung sự khen chê chỉ nhằm vào cái chung chung mơ hồ hoặc
vụn vặt, lúc thì về kết cấu, tâm lý lúc thì về kỹ thuật, hình thức" (1,80).
Riêng cuốn của Thanh Lãng thì kết cáu kiểu khác - ông chia các tiểu
thuyết thế hệ 32 thành 8 ý hướng:
- Ý hướng đấu tranh

- Ý hướng tình cảm
- Ý hướng thi vị
- Ý hướng truyền kỳ
- Ý hướng hồi ký
- Ý hướng hài hước
- Y hướng phong tục
- Ý hướng tả thực.
Cách kết cấu này làm cho việc phân tích, đánh giá tác phẩm của Tự
lực văn đoàn tản mạn và không phân biệt được những nhà văn thuộc các
dòng văn học khác nhau. Ví dụ: ồ n g xếp tất cả các nhà văn sau đây vào ý
hướng hài biếm: Tam Lang, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nhất
Linh, Khái Hưng ...
Trong ý hướng tình cảm Thanh Lãng đưa Nhất Linh, Khái Hưng,
Thạch Lam vào lại có cả Lưu Trọng Lư, Lê văn Trương, Nhượng Tống, Vũ
Trọng Phụng, Đỗ Đức Thu nữa. Cách phân loại không giúp người đọc có
được định hướng rõ ràng, gây nên một sự lộn xộn trong tư duy.
Tuy vậy, Thanh Lảng cũng có một số V kiến xác đáng. Chẳng hạn
đánh ơiá về văn học lãng mạn ông viết: Để chóng đói cổ điển, thơ ca lãng
mạn đã cách mạng cả lói cảm nghĩ và viết, với nó, phôi thai ra nhiều tâm
tra.nơ mổi: Yêu thiên nhiên, băn khoăn về vô tận, thích đau thươnơ, thờ bản
nơă khao khát tình và mộng, tiếc nhớ dĩ vãng .... Trong tiểu thuyết họ tôn


9

thờ xác thịt, trong thi ca ái tình; và trong cả hai, một giọng vãn nhẹ nhàng,
não nuột, du dương ... (75, 749) Những công trình của ba ông Phạm Thế
Ngũ, Nguyễn Thế Phong, Thanh Làng đều có âm hưỏng chung là ngợi ca
nhưng chưa nghiên cứu toàn bộ văn xuôi Tự lực văn đoàn như là một chỉnh
thể để khẳng định những đóng góp của họ cho nền văn học.

ỏ miền Bắc tình hình nghiên cứu Tự lực văn đoàn từ 1955 trỏ lại
đây, có thể chia làm hai thời kỷ: trước đại hội Đảng lần thứ VI và từ đại hội
VI đến nay.
Từ 1955 đến 1985 có thể kể đến:cáccuón:Lược thảo lịch sử văn học Việt
NamTIII từ aiừa thêìíỷ 19 đén 1945 cuả nhóm Lê Quý Đôn (NXB Xây dựng
H 19575Văn học Việt Nam 1930-1945 của Bạch Năng Thi- Phan Cự Đệ
(NXB giáo dục H.1961). Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại’của Phan Cự Đệ
(NXB ĐH và THCN H .1974-1975),Ngoài ra còn có những bài Phê bình
của Nam Mộc, Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn.
Nhìn chung sự đánh giá có phần khắt khe, chặng hạn cho rằng văn học
lãng mạn Việt Nam 1930-1945 "căn bản là bạc nhược suy đồi..." (108,11)
“đối với đế quốc tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đầu hàng, thi vị hoá thái độ
lồ ả dài, chạy trốn” (104, 64) “Nội dung tièu cực ấy lại diễn tả bằng một
nghệ thuật ít nhiều có sự hấp dẫn nhất định đã tăng thêm nồng độ cho
những tố độc vốn đã có ở nội dung” (104,87).
Cực đoan hơn cả có lẽ là ý kiến của Vũ Đức Phúc. Ông phê phán khỏng
từ một thành vièn nào của Tự lực văn đoàn, thậm chí cả Thạch Lam, Xuân
Điệu. Ông cho rằng: "Triết lỷ an phận toát ra từ một số tác phẩm của
Thạch Lam cũng làm cho quan điếm nghệ thuật của Thạch Lam ít có tính
chất đấu tranh giai cấp”. Ồng còn "phè" Xuàn Diệu: "tán thành cá nghệ
thuật có nội dung độc địa" (115,112).

Bên cạnh những ỷ kiến cực đoan


trẻn đây cũng có ý kiến phê bình thoá đáng, tiêu biểu là V kiến của Bạch
Năng Thi:
"Sau 1930, người ta quyết liệt kêu gọi phá cái “cũ", lập cái "mới", cái
"mới" tư sản để thay thế cho cái “cũ” phong kiến. Thái độ của nhà văn
thường dứt khoát, hình tượng văn học có ý nghĩa lật đổ và cách tân rõ rệt

''Nhàn vật lãng mạn sau 1930 cũng buonj a u . tiêu cưc,>thoát ly. Buồn rầu
vì hạnh phúc chảng thành, tiêu cực trước nhiệm vụ cách mạng, thóat ly
vào tình ái. Nhưng khoảng 1930-1935, lòng ham sống khá rồ và người ta
còn chút ít đấu tranh để đươc sống như sở nguyên. Mai không phải là
không có nghị lực, Loan hướng về lý tưởng của mình, Dũng ôm cái mộng
làm cách mạng, và thực có đi hoạt động, dù phiêu lưu. Trong điều kiện xã
hội của nó, cái nhân văn tư sản dù sao cũng tiến bộ hơn là cái tư tưởng
phong kiến cổ hủ, hẹp hòi (123,97). Ý kiến đúng đắn của Bạch Năng Thi
đưa ra quá sớm nên không được hưởng ứng kịp thời.
Từ năm 1986 đến nay, trong bầu khồng khí đổi mới, nhiều hiện tượng
văn học quá khứ được đánh gía lại trong đó có Tự lực văn đoàn. Nhưng
nhà nghiên cứu lâu năm bắt đầu lên tiếng tuy có nêu những mặt hạn chế
nhưng đã khẳng định những đóng góp tích cực của Tự lực vãn đoàn cho sự
phát triển nén văn hoá dân tộc. Nhiều bài viết, chuyên luận mới của Phan
Cự Đệ, Hà Minh Đức, Trương Chính, Trần Đình Hươu.;ra đòLTrong bài:Tự
lực vãn đoàn” đăng trên báo Giáo viên nhân dân số đặc biệt 7/1989 GS
Trương Chính khảng định nhóm Tự lực vãn đoàn "có vai trò rất lớn trong
sự phát triển văn học của ta những năm ba mươi (5,5). Cũng trên số báo
ấy, trong bài "Hội thảo về văn chương Tự lực văn đoàn”, GS Hà Minh Đức
cho rằng "văn chương Tự lực văn đoàn mang tính chất phản phons khá
mạnh mẽ, nó đại diện gia đình phong kiến và đã tháng thè trong công
luân. Đó là điều mà các tác phẩm ở thâp kỷ trước chưa làm được "và theo
GS "về n^hệ thuật cũng cán phàn tích rỏ những đóng góp quan trọn£ cua
Tự lực vãn đoàn với văn chương dân tộc đặc biệt ở bước ngoặt, chuvển từ
thời kỳ cận đại sang quỹ đạo của thời kỳ hiện đại”. (5,9)


Với bài "Tự lực văn đoàn, nhìn từ góc độ tính liên tục của lịch sử, qua
bước ngoặt hiện đại hóa trong lịch sử văn học phương Đông", GS Trần
Đình Hươu chú ý đến màu sắc dân tộc trong tác phẩm Tự lực văn đoàn:"

Tự lực văn đoàn đô thị hóa, Âu hoá, có mới mẻ, xa lạ nhưng khòng phải
không dân tộc. Cái đẹp trong văn chương Tự lực văn đoàn là Việt Nam
chứ không phải Tàu, không phải Tây (63,63)
Đáng chú ý hơn cả là cuốn " Tự lực văn đoàn - Con người và văn chương"
của GS Phan Cự Đệ. Ở đây tác giả đã trình bày một cách toàn diện về Tự
lực văn đoàn và nêu lên những đóng góp và hạn chế của tổ chức văn học
này: "Tự lực văn đoàn đã có cống lớn trong việc đổi mới nền văn học vào
nhừng năm 30 của thế kỷ, đổi mới từ những quan niệm xã hồi như mối
quan hệ giữa cá nhận với cộng đổng xã hội cho đến viêc đẩ^nhanh, các
thể loại văn hoc trẽn con dường hiện đại hoá, Jarr^cho ngôn ngữ văn học
trở nèn trong sáng và giàu có hơn - Công cuộc đổi mơí đó dưới những ảnh
hưởng của các trào lưu văn học, triết học của phương Đông và phương
Tây, nhất là của văn học Pháp"(22,37)
... “Tuy nhiên, ở những tác phẩm thời kỳ cuối, Khái Hưng, Nhất Linh
không những khồng đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, đòi nhân quyền mà
còn có xu hướng đẩy con người vào chủ nghĩa duy tâm và

định

mệnh“(22,19).
Đặc biệt, nhà thơ Tú Mỡ nguyẻn là thành viên của tổ chức này đã trình
bày những điều "Trong bếp núc Tự lực văn đoàn" giúp bạn đọc hiểu rõ
hơn vãn đoàn này cũng như người chủ soái của nó. Ngoài ra còn có một
số cây bút trẻ cùng tham gia viết về Tự lực văn đoàn c Lê Thị Đức Hạnh
với bài "Thêm mấy ý kiến về Tự lực văn đoàn', Lê Thị Due Tú: "Quan
niệm con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn qua ba tác giả Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo."
Nhìn chung những bài viết từ 1985 trở lại đây đà quán triệt tinh thần đổi
mới nèu lên được nhiều ưu điểm của văn đoàn này. Tuy nhiẽn chưa có



công trình nào đi sâu nghiên cứu những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho
văn học nước nhà như là một đề tài độc lập.
Luận án của chúng tôi nhằm khảng định vấn đề trên - Trong quá trình
thực hiện, chúng tôi đã tiếp thu kết quả nghiên của những người đi trước
đổng thời cũng nêu lên ý kiến của riêng mình xem như là phần đóng góp
nhỏ bé vào sự đánh giá chung về hiện tượng văn học rất phức tạp này .

IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứ u
Hệ thống lý luận triết học Mác * Lê nin bao gồm chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ sở phương pháp luận chung của

Trong quá trình triển khai để tài, khi tiếp cận với nội dung cụ thể, chúng
tôi đã sử dụng một số phương pháp khác nhau như phương pháp so sánh
loại hình, phương pháp lịch sử, phương pháp hệ thống đê từ đó rút ra
những nét đặc trưng về cảm quan và tư duy nghệ thuật của các nhà văn Tự
lực văn đoàn so với thế hệ nhà văn lớp trước cũng như các nhà văn cùng
thời. Nói cách khác, chúng tồi nghiên cứu hiện tượng Tự lực văn đoàn
trong mối tương quan giữa lịch đại và đồng đại để thấy được phần đóng
góp cũng như mặt hạn chế có tính lịch sử.
Ngoài ra chúng tôi còn vận dụng những phương pháp truyền thống khác
như: phân tích, tổng hợp, chứng minh để lý giải vấn đề và xác lập luận
điểm, luận cứ.

V. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Mục đích nghiên cứu của chúng tôi là, trên tinh thần gạn đục khơi trong,
cố ơắng nêu lên một cách toàn diện những đóng góp của Tự lực vãn đoàn
cho nền văn học nưủc nhà trong vòng mười năm hoạt
những mặt sau đây:


độns. Cụ thể ở


13

1. Tập hợp được một đội ngũ văn nghệ sĩ tài năng trong một tổ chức văn
học chặt chẽ có tôn chỉ, tuyenjigon rõ ràng, phát động sáng tác và trao
giải thưởng để khích lệ phong trào, phát hiện, cổ vũ, nuôi dưỡng những
mầm non văn học, đấu tranh cho phong trào thơ mới, đưa ra được một số
quan điểm sáng tác tiến bộ rất gần với quan điểm của chúng ta ngày nay.
.2í Bằng thực tiễn sáng tác, Tự lực văn đoàn đã thực sự khép lại một thế
hệ nghệ thuật, mở ra một thế hệ khác với một hệ thống thi pháp hoàn toàn
đổi mới theo hướng hiên đại.

3 . Chống Ịẻ giao p h ong kiến trọng -lĩnh vực hòn Tihàn gia đình là quan
điểm đã được các nhà nghiên cứu trước đây đề cập và hoàn toàn nhất trí.
Luận án sẽ trình bày thêm ý kiến của Lênin về nhiệm vụ của những người
cộng sản ở các nước phương Đông nhằm khảng định ỷ nghĩa của nội
dung tư tưởng này trong một số tác phẩm Tự lực vãn đoàn.
4. Một số tác phẩm tiêu biểu của văn đoàn đã
ca ngợi vẻ đep thiên---nhiên của nhiều miền đất
nước,
——
%

những nét đẹp của văn hoá truyền thống, phong vị đậm đà của quê hương,
những con người Việt Nam nhất là những thiếu nữ không những có hình
thức duyên dáng quyến rũ mà còn rất đẹp về tâm hồn. Ngoài ra luận án sẽ
cố gắng trình bày một số luận chứng nhằm khẳng định một luận điểm mà
trước đây ít người thừa nhận: Một sô'tác phẩm Tự lực văn đoàn đã toát lên

một tinh thần dân tộc thăm kín.

VI. Ý NGHĨA THỰC TIẺN CỦA LƯẬN ÁN
-Luận án có thể trở thành một chuyên đé giảng dạy cho sinh viên ngành
văn học.


-Những tư liệu được khai thác từ bốn mươi tác phẩm của Tự lực văn đoàn
và những luận điểm mà luận án đưa ra có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việcbiên soạn giáo trình vãn học ở bậc phổ thông cũng như ở bậc đại
học.


14

-Luận án cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên ngữ văn
làm luận văn tốt nghiệp.

VII. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
Luận án được bố cục như sau:
A.

Mở đầu.

Phần này bao gồm các mục: Lý do chọn đề tài, mục đích và nhiệm vụ của
đề tài, lịch sử vấn đề nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, đóng góp của
luận án, ỷ nghĩa thực tiễn của luận án.
B.

Nội dung.


Phần này gồm ba chương:
Chương I: Vai_trp của Tự lực văn đoàn trong quá trình hiện đại hóa nền
văn học Việt Nam.
I/

Nhừng yêu cầu của lich sử, xã hội đối với cuộc cách tàn văn học.

II/ Vai trò của Tự lực văn đòan trong cuộc cách tàn văn học.
Chương II: Những đóng góp về nội dung tư tưởng của văn xuôi Tự lực
vãn đoàn.
I/

Đấu tranh nhằm giải phóng cái "Tôi" cá nhàn ra khỏi sự ràng buộc

của lễ giáo và đại gia đình phong kiến
n / Những biểu hiện của một tinh thần dân tộc thầm kín.
Chương III:
I/

Nhữna . cách tân trong nghệ thuật văn xuôi.

Một bước tổng hợp mới giữa những ảnh hưởng của nền văn hóa đông,

tây và truyền thống văn học dân tộc.


II/

Một bước tiến mới trong nghệ thuật xây dựn& nhârLvật và miêu tả


thièn nhiên,
1/ Miêu tả v ẻ đ ẹ p th ể chất
2/ Miêu tả thêLgiối-ữội-tàm
3/ Miêu tả thiên nhiên trong mối quan hệ hài hòa với con người
ĨTT/ Sự đổi mởi cốt truyện và kết cấu trong các thể loại tiểu thuyết và
truyện ngắn
IV/ Sự đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu vãn xuôi.

c.

Kết luận.

D.

Tài liệu tham khảo.

E.

Phụ lục : Những bài viết đã công bố của nghiên cứu sinh.


B-NỘI DUNG LUẬN ÁN
*



Chưong I:

VÀI TRÒ CỦA T ự L ự c VĂN ĐOÀN TRONG QUÁ TRÌNH

HIỆN ĐẠI HOÁ NỂN VĂN HỌC VIỆT NAM.
I/NHỮNG YÊU CẦU CỦA LỊCH sử, XÃ HỘI Đ ố i VỚI c u ộ c
CÁCH TÂN VÃN HỌC
Hiện thực đời sống xã hội không chỉ là đối tượng phản ánh của một
nền văn học nhất định mà còn là nhân tố làm nảy sinh chính nền vãn học
ấy. Trong mối quan hệ biện chứng này, vào đầu thế kỷ XX ở nước ta đã
xuất hiện đầy đủ tiền để cho một nền vãn học hiện đại ra đời.
Cho đến đầu thập kỷ 30 của thế kỷ nàv, thực dân Pháp đà thực hiện ở Việt
Nam hai cuộc khai thác thuộc địa để bù đấp vào lỗ hổng kinh tế trong nước do
cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất gảy ra. Xã hội Việt Nam do đó cũng biến đổi
theo. Giai cấp tư sản Việt Nam tuy cỏn yếu ớt đã hình thành từ đợt khai thác kinh
tế lần thứ nhất đến giữa thập kỷ ...

30 đã hoạt động khá mạnh. Một số đơn vị

kinh doanh nổi tiếng đã xuất hiện ở ba miển Bắc Trung Nam.( 1)

l)Cônw ty nước mắm Bắc kỳ (Vũ Văn An) nảm 1925, xưởng ch ế xà p h ò n í Trương Văn
Bển ử Sài Gòn (1925), cồng ty Tiên Lonii rhương doàn ở Huế (1926), công ty sản xuất diện của
phan T ù n ử Lonư vù Lê Phát An (1926) ở Nam Bỏ, dồn điền cao su của Lẻ Phát Vĩnh và N íuyén
Hữu Hào ơ Gia. Định và Bà Rịa (38K Mâu l a v ) ....( 19,17)


17

Các đỏ thị mọc lên rất nhanh theo đà phát triển của nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa. Việc buôn bán cũng bắt đầu sôi động ở các thành phố lớn.
Bộ máy viên chức của thực dân và phong kiến đã có một qui mô hoàn
chỉnh Một tầng lớp tiểu tư sản được hình thành từ cuộc khai thác thuộc địa
lần thứ nhất đến đầu thập ki; 30 đã phát triển đông đảo và chiếm một tỉ lệ

khônơ nhỏ trong dân số các đô thị. Tầng lớp này bao gồm những tiểu
thươnơo * tiểu chủ, viên chức, giáo viên, hoc sinh sinh viên, những người làm
nahề
ữ tư do (bác sĩ, luât sư, nhà vãn, nhà báo...). Tronơw đó, theo thông kê
niên ơiárn cuẳ Đông Dương, năm 1932, 1933 số trí thức tân hoc bao gồm
hoc sinh

yiên và viên chức đã lên tới trên 35 vạn người.

Háu hết các tầng lớp và giai cấp trên đây đều sống ở các đô thị. Một
lối sốnơ

sản hóa đươc 201 là "văn minh thành thi" lan tràn tronơ giai cấp

tư sản va tầng lớp tiểu tư sản lớp trên. Người ta ở nhà lầu đi ô tô, dùng đèn
điện quai điện, đi nghe hoà nhạc tây, hoặc đi xem chiếu bóng. Các thành
phố lớn 'lua nhau tổ chức hội chợ, thi sác đẹp. Trên các đường phố đã xuất
hiên các m ỹ viện trang điểm cho phụ nữ. Lối sống đô thị hoá cũng thể hiện
ở cách

ÍJ mặc của thanh niên nam nữ. Cô gái Bắc Ki trước kia đội nón

thúnơ quíii thao, bỏ tóc đuôi gà, dép sơn cong cớn, quần áo thâm lượt thượt,
bô xà ú( 'n bạc bên hông với hàng tá chìa khóa. Sau đó các cồ bỏ dép bỏ
nón áùí-'í giày mõm nhái, ô đen.. Cuối thập ki 30 người ta đã thấy xuất
hiên nhi ; J cô thiếu nữ Hà thành mặt đánh phấn, đôi mày vong nguyệt kẻ
b'\n^ nỏ

rnư c t à u ’ m ô i S0IÌ ^


c h ó t ’ áo m ^ u> ểiày cao

nhũng cô "tàn

tiến" nh ' c° n đi "xe lếch", chơi ping pòng, ten Iiit— Nam thanh nièn thành
thi

Ưi'i

sang

cũng

đua

nhau

ăn

mặc

không

kém

thiếu

nữ.



18

Nhữnư đổi mới trong sinh họat trên đây sẽ dẫn đến sư thav đổi suv nghĩ
cảm xúc. Góp phần vào sự thay đổi đỏ còn do sự riếp xúc với văn hoá
phương Tây, đặc biệt là văn học lãng mạn Pháp.
Năm 1915 thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt buộc phai bài
bỏ thi-Hương ở Bắc kỳ, năm 1919 khoa thi-Hội cuối cùng ở Huế đã kết thúc
một chê độ khoa cử nặng nề và thôi nát. Từ đâv, tronụ, các trường học, học
sinh bắt đầu say sưa với văn học Pháp đặc biệt là văn học lãng mạn. Người
ta ca ngợi thơ lãng mạn của Hugo, Lamartine, Musset. Vigny. Nhiều nsười
thích thú bài thơ "Cái hổ" (Le Lac) của Lamartine, mê nhàn vật Atala trong
tác phẩm cùn 2 tên của Qiateaubriand....
Sự tiếp xúc vãn hoá trên đây đã đem đến cho tầng lớp thanh niên tiểu
tư sản thành thị nhữnơ năm 30 của thè kỷ những tình cảm mới, runti độnơ
mới. Họ yêu đương mơ mộng, vui buồn không giống các cụ ngày xưa nữa.
Điều này đã được Lưu Trọns Lư nêu lên côns khai trons buổi diễn thuyết ở
nhà Học hội Quy Nhơn hồi tháng 6 năm 1934:
"Các cụ ta ưa những màu đỏ choét, ta lại ưa nhữnơ màu xanh nhạt.
Các cụ bâng khuâng vì tiếng trùng đêm khuya, ta lại nao nao vì tiếng gà lúc
đúnơ ngó. Nhìn một cô gái xinh xắn ngây thơ, các cụ coi như làm một điều
tôi lỗi ta thì cho là mát me như đứng trước một cánh đổng xanh. Cái ái tình
của các cụ thì chỉ là sự hôn nhân, nhưng đối với ta thì trăm hình muôn
tran^o * cái tình say đắm, củi tình thoáng qua, cái tinh gần gũi, cái tinh xa
xôi....cái tình trong giâv phút, cái tình ngàn thu" (19,21)
Sự tiếp xúc với văn hỏa plnrơim Tày và lối sống dô*thị hóa cũnư làm
cho V thức cá nhân nay nư và phát triển rãt nhanh lân ál V thức cộ nu đonu


IV


xưa cũ. Họ muốn khảng định cái tỏi cá nhân trong gia đình, Hiỉoài xã hội và
muôn điều đó được thể hiện trong vãn học. Một quan niệm mới về van
chương đồng thời xuất hiện.
Trong xã hội phong kiến.đẩng cấp càng cao thì càng lắm nghi lễ
phức tạp. Cuộc sống càng lắm nghi ìễ thì văn chương càne nhiều luật lệ
phép tắc. Các trí giả thời ấy quan niệm rằng tác phẩm nào tuân thủ nghiêm
ngặt các luật lệ phép tắc đó mới xứng đáng là tuyệt tác. Thị hiếu thẩm mỹ
bao giờ cũng mang tính lịch sử, thời đại. Thời ấy người ta trọng cổ mà bạc
kim, cáirchung được trọng hơn cái riêng, Nghiêu, Thuấn được xem là khuôn
vàng thước ngọc trong đối nhân xử thế. Văn chương thì coi Đườne ,Tống là
điển phạm không thời nào vượt nổi. Sáng tác văn chương nhất thiết là phải
dùng văn liệu cũ, điển tích xưa. Nhà thơ có tuân theo thi pháp, thi luật đã
định sẵn của cổ nhân mới được ơọi là bậc tao nhân mặc khách.
Xã hội phong kiến là xã hội mà trons đó quý, tiện, sans, hèn được
phân biệt rạch ròi. Trong văn chương cũng thế: văn kinh sử đạo lý được
trọng hơn văn nghệ thuật. Trons văn nghệ thuật,văn Hán được trọng hơn
vãn Nôm, thơ được chú ý hơn vãn xuôi, văn trào phúng bị coi là thấp kém,
thể loại tiểu thuyết bị khinh rẻ,thậm chí khồng được xem là vãn chương
chân chính. Thế nhưng dù ở thời nào, những tác phẩm văn chương có siá trị
thực sự bao giò cũng là CÔI12, trình sáng tạo mang đậm dấu ấn cá nhân. Ớ
thời kv phong kiến vẫn có những tác phẩm chons cons thức dập khuôn,
ơhốnơ phi ngã hoá, giàu tính nhàn vãn. Tuy vậy những tác phẩm này vẫn
khôna thể vượt ra khỏi hệ thống quy phạm chung vốn bát nguổn từ V thức
thắm mỹ của thời đại.


20

Đến thế kỷ XIX, với sự xuất hiện của Hồ Xuân Hương, Nguyen
Công Trứ, Tú Xương, hệ thống thi pháp cổ tưởng chừng sáp kins lav sup

đổ. Tuy vậy cơ sở xã hội, mỏi trường văn hoá tư tưởng hồi bày giờ không
cho phép các bậc tài hoa trên phát triển đầy đủ bản sác cá nhân để có thê
thả sức tung hoành ngòi bút một cách tự do thoải mái.
Phải đến thế kỷ XX, với sự xuất hiện tầng lớp thị dân đông đảo và lối
sốns đô thị hóa, với ảnh hưởns của văn học phương Tây,ý thức cá nhân
mới nảy sinh và phát triển mạnh mê' trong tầng lớp thị dân,trước hết ở bộ
phận trí thức tân học. Họ có quan điểm hoàn toàn khác với thế hệ trưởc vẻ
cái đẹp, về đạo đức, nhân sinh đặc biệt là về văn học nghệ thuật. Họ cho
rằns những quy phạm chặt chẽ của thi pháp cổ đã trở thành vật cản trên
chặng đườns tự do dân chủ hoá nền văn học nước nhà. Họ lên tiếng chống
lại sự trói buộc trái tự nhiên của thi pháp cổ mang tính phi ngã đã một thời
là mẫu mực cho sáng tác vãn chương nghệ thuật. Họ đòi hỏi một sự cách
tân để thoả mãn một nhu cáu tham mv mới và để kích thích cá tính sáng tạo
tronơ lĩnh vực nghệ thuật văn chương.

Góp phần thúc đẩy sự đổi mới vãn học còn phải kể đến vai trò của
báo chí. Năm 1865 tờ Gia Định báo là tờ báo đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam
do chính phủ Sài Gòn lập ra nhằm mục đích đãng các công lệnh của nhà
nước. Từ đó về sau báo chí đua nhau ra đời nhưng cũng chỉ là công cu của
chính quyền để đăng công văn và tin tức vắn tắt. Giá trị tư tưởns khônơ có
gìríáng chú ý.
Từ 1913 báo chí

bát đầu đổi mới và có khuynh hướng,

chương trình rõ rêt hơn. Hình thức cũng được cái tiến. Báo chí thời kỳ nẩy


21


thường được xuất bản bằng các thứ tiếng:Tàu, Pháp, quốc ngữ có khi còn
có cả chử'nôm nữa. Vể sau trí thức tân học của ta đã cổ động cho chừ quốc
ngữ và dùng nó làm phương tiện đấu tranh phố biến vãn hoá khoa học tiến
bộ góp phần thúc đẩy bánh xe lịch sử tiến lên. Giính báo chí đã hoạt động
sôi nổi khiến chính quyền thực dân và chính phủ Nam triều phải bãi bỏ chế
độ thi cử lỗi thời làm cho nền Hán học ở Việt Nam sụp đổ hoàn toàn và chữ
quốc ngữ trở thành thứ chữ thống nhất trong toàn quốc.
Báo chí còn là nơi để các cây bút trẻ luvện tập ngòi bút và các văn
gia thi sĩ đăng các tác phẩm cuả mình trước khi được xuất bản thành sách.
Báo chí cũng là diễn đàn để các nhà nghiên cứu phê bình văn học trao đổi ý
kiến đánh giá tác phẩm, phổ biến lý luận kinh nghiệm sáng tác.... Tóm lại
báo chí tiến bộ là những cơ quan ngôn luận đã tác động lắm khi sâu xa
mạnh mẽ vào tư tưởng tình cảm và hành động của nhân dân ta đặc biệt đã
góp phần đấu tranh cho sự thắns lợi của văn hoá tiến bộ, cho sự toàn thắng
của chữ quốc ngữ tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự đổi mới văn học.
I

Tham gia vào công cuộc đối mới có mặt một số trí thức Hán học chịu
ảnh hưởng của sinh hoạt đô thị tư sản hoá và của văn hoá phương Tây
thông qua tân thư Trung quốc như Tản Đà, Nguyễn Bá Học,Hoàng Ngọc
Phách , Phan Khôi, Ngô Tất Tố, nhưng chủ yếu là tầng lớp trí thức tân hoc.
Những cây bút mới nàv đã tạo nên trên văn đàn công khai ở Việt Nam trontỉ
nhữnìỉ năm 30 của thế kỷ hai trào lưu vãn học hiện thực và lãng mạn chủ
nưhĩa. Cá hai đều đấu tranh để thoát khỏi hệ thống thi pháp cổ trun£ đại và
đã đónư góp có hiệu quả vào tiến trình hiện đai hoá nền văn học Việt Nam.
Tuy nhiên công đẩu thuộc vé Tự lưc văn đoàn, bơi lẽ ho đã đốim loạt ra
quân có tôn chỉ mục đíclì rõ ràng nen đã dẩy nhanh quá trinh hiện đai hoá


22


mơ ra một thời kỳ phát triển mới của văn học ở thập kv 40 với hệ thống thi
pháp mới trong văn xuôi cũng như trons thơ ca mà đến nay vẫn còn ìỉiá trị.


II - VAI T R Ò C Ủ A Tự L ự c V Ă N Đ O À N T R O N G c u ộ c
*

*

C ÁC H TÂ N VĂN HỌC
Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học ra đòi năm 1933 và
tồn tại cho đến trước cách mạng tháng Tám. Trụ sỏ đặt tại 80 đường Quán
Thánh, Hà Nội.

só thành viên không nhiều, có thể đếm trên đầu ngón
tay:Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh; Bảo Sơn: truyện ngắn; Đông Sơn: vẽ;
Tân Việt: thơ), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo, Tứ Ly), Nguyễn Tường
Lân (Thạch Lam ), Trần Khánh Dư (Khái Hùng , Nhị Linh), Hồ Trọng
Hiếu (Tú Mờ), Nguyễn Thứ Lễ (Thế Lu, Lê Ta) về sau thêm Ngô Xuân
Diệu (Xuân Diệu) và Trần Tiêu .
Ngoài só thành viên ấy ra, văn đoàn còn được sự cộng tác rất
chặt chẽ của nhiều văn nghệ sỷ khác nổi tiếng hồi bấy giờ như Đoàn Phú
Tứ, Trần Thanh Tịnh (Thanh Tịnh) ,CÙ Huy Cận (Huy Cận) và các họa sỹ
bậc thầy như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường (Cát
Tường - Lơ Muya, người đã có công trong việc cải tiến kiểu áo dài của phụ
nu từ chiếc áo truyền thống).



×