Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Kĩ thuật thiết kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.06 KB, 7 trang )

Kĩ thuật thiết kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá
Thiết kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực hoá
PGS.TS Đặng Thành Hưng
Tạp chí giáo dục số 102 (chuyên đề), quý IV/2004, trang 10.
Thiết kế phương pháp dạy học (PPDH) là chức năng và công việc chuyên
môn của giáo viên (GV). Nhưng GV phải dựa vào lí luận phương pháp và những
quy tắc kĩ thuật nhất định để thiết kế mới đạt hiệu quả cao, mặc dù đương nhiên
phải vận dụng kinh nghiệm nghề nghiệp cá nhân nữa. Vấn đề thiết kế hay lựa chọn
PPDH cho đến nay chưa được làm rõ, nên GV gặp nhiều khó khăn trong việc đổi
mới PPDH dạy học của mình. Chúng tôi không tán thành quan niệm cho rằng để đổi
mới PPDH, GV phải biết lựa chọn PPDH phù hợp, theo những yêu cầu nào đó.
Điều này không chính xác, hơn nữa còn gây lạc hướng và hiểu sai nhiệm vụ. Nếu đã
có sẵn những PPDH mới để lựa chọn, thì GV không cần phải đổi mới, mà chỉ việc
áp dụng mẫu có sẵn mà mình thích hoặc thấy phù hợp, còn đổi mới PPDH là việc
của ai đó. Mặt khác, những PPDH mới này tư dưng ở đâu mà ra, nếu không phải do
chính giáo viên tạo ra ? Chúng tôi xin bàn về thiết kế PPDH, do GV thực hiện, sau
đó dựa vào chính thiết kế mới của mình mà tạo ra PPDH và tiến hành trong thực
tiễn giảng dạy, giáo dục của mình, chứ không phải PPDH của người khác.
Mục lục
I. Những nguyên tắc thiết kế PPDH
I.2. Thiết kế PPDH phải thích hợp, hài hòa với thiết kế tổng thể của bài học
I.3. Thiết kế PPDH phải dựa vào những phương thức học tập và các kiểu PPDH
chung
I.4. Thiết kế PPDH phải dựa vào kinh nghiệm sư phạm và trình độ phát triển KN
dạy học của GV
II.Quy trình thiết kế PPDH
III. Kết luận
I. Những nguyên tắc thiết kế PPDH
I.1. Thiết kế PPDH phải tuân thủ bản chất khái niệm PPDH
Từ sự thừa nhận PPDH là cách thức hoạt động của GV, được thực hiện trong
quá trình dạy học để tác động đến người học và việc học của họ nhằm hướng dẫn


họ học tập và giúp họ đạt mục tiêu học tập, đương nhiên phải thừa nhận PPDH tồn
tại hiện thực trên lớp học, trong quá trình dạy học thực tế, chứ không phải trên giấy,
trên sách báo và bài giảng ở trường sư phạm. Các PPDH xuất hiện ở mỗi bài học,
trong sự tương tác giữa GV và người học, giữa họ và các yếu tố của môi trường dạy
học lúc đó. Điều đó có nghĩa GV cùng người học của mình tạo ra và tiến hành
PPDH trên lớp, trong tiến trình bài học, trên cơ sở thiết kế của mình hoặc thiết kế
mượn của người khác. Cái có sẵn không phải là PPDH, mà là sự mô tả, lí thuyết,
mô hình và cùng lắm là thiết kế PPDH.
Mỗi PPDH luôn cấu thành từ 3 thành phần:
1) Phương pháp luận dạy học-tức là lí thuyết PPDH, mô hình lí thuyết của PPDH,
triết lí hay nguyên tắc lí luận nào đó, được mô tả, giải thích trong sách báo khoa
học, ví dụ: lí thuyết về các mô hình thảo luận, lí thuyết dạy học kiến tạo, lí thuyết
dạy học chương trình hóa,… Đây là mô hình lí luận của PPDH, nó xác định bản
chất của PPDH, làm cho PPDH này khác PPDH kia.
2) Hệ thống KN phù hợp để thực hiện phương pháp luận này trong bài học với nội
dung học vấn đặc trưng của lĩnh vực học tập đó (bài học Toán, Khoa học, Thể dục,
… khác nhau thì phương pháp luận đó đòi hỏi những KN khác nhau) – chúng xác
định với khả năng hành động thế nào và bằng cách nào GV có thể biến phương
pháp luận đã chọn thành phương thức tác động thật sự đến người học và quá trình
học tập. Đây là mô hình tâm lí của PPDH.
3) Những kĩ thuật, công cụ, phương tiện,… được sử dụng để thực hiện các KN
(thiếu chúng thì các KN không được thực thi) và được tổ chức theo phương pháp
luận đã chọn – PPDH có thực sự là PPDH hay không là do phần vật chất này quyết
định, vì chỉ có phần này của PPDH mới tác động đến người học và quá trình học
tập. Đây là hình thức vật chất của PPDH, chẳng hạn lời nói, chữ viết, tranh, ảnh,
dụng cụ thí nghiệm, tài liệu media, hành vi giao tiếp,...
Sự tổ chức thống nhất của 3 phần này trong tư duy và trong hoạt động vật chất mới
tạo nên một PPDH cụ thể. Riêng phần 1 chỉ là phương pháp luận, phần 2 chỉ là KN
dạy học, còn phần 3 chỉ là phương tiện và kĩ thuật dạy học. Gộp cả 3 lại một cách
tùy tiện thì không thành PPDH nào rõ ràng, mà phải tổ chức chúng theo một logic

nhất định, trước hết là logic trình bày nội dung bài học, môn học như Toán, Văn,
Đạo đức,… Nguyên tắc này tương tự như thiết kế nhà. Nhà có những phần nào thì
phải thiết kế những phần ấy. Đó là thiết kế kiến trúc và kiểu dáng, thiết kế công
trình và kết cấu, thiết kế cảnh quan và nội thất,…
I.2. Thiết kế PPDH phải thích hợp, hài hòa với thiết kế tổng thể của bài học
Các thành phần thiết kế bài học gồm: thiết kế mục tiêu, thiết kế nội dung, thiết kế
các hoạt động của người học, thiết kế nguồn lực và phương tiện, thiết kế môi trường
học tập, đặc biệt quan trọng là thiết kế hoạt động. Từ thiết kế bài học, GV mới thiết
kế PPDH một cách chi tiết và đây chính là thiết kế họat động của người dạy. Toàn
bộ thiết kế bài học cho thấy diện mạo chung của PPDH, bên cạnh mục tiêu, nội
dung, phương tiện, các yếu tố và tổ chức môi trường, chứ chưa phản ánh thiết kế chi
tiết của PPDH.
Cần đặc biệt lưu ý hoạt động của người học khi thiết kế PPDH. Khi đặt trong thiết
kế chung, có 4 loại hoạt động cơ bản mà người học phải thực hiện để hoàn thành
mỗi bài học (tương ứng với một khái niệm hoặc đơn vị giá trị như KN, chuẩn mực,
…).
1) Hoạt động phát hiện-tìm tòi, giúp người học sinh phát hiện sự kiện, vấn đề, tình
huống, nhiệm vụ học tập và tìm ra những liên hệ, xu thế, dữ liệu, thông tin giá trị,…
trong các tình huống, sự kiện,...
2) Hoạt động xử lí-biến đổi dữ liệu, thông tin và giá trị đã thu được, giúp người học
xây dựng ý tưởng, tạo dạng tri thức, hình thành KN, hiểu và phát biểu được những
định lí, quy tắc, khái niệm,…
3) Hoạt động áp dụng kết quả xử lí-biến đổi và phát triển khái niệm, giúp người học
hoàn thiện tri thức, KN môn học qua hành động thực tế, trong tình huống khác
trước và nhờ đó phát triển thêm các sự kiện, bổ sung thông tin, trải nghiệm giá trị.
4) Hoạt động đánh giá quá trình và kết quả, giúp người học điều chỉnh nội dung và
cách học, phát triển những ý tưởng mới.
Mỗi hoạt động có thể bao gồm một hoặc một số hoạt động cụ thể khác nhau tùy
theo nội dung và yêu cầu cụ thể của bài học.
Việc thiết kế PPDH phải bám sát từng loại hoạt động này, cũng như phương tiện,

môi trường của bài học. Tương ứng với loại hoạt động 1 của người học, có một
thiết kế PPDH và một phương án dự phòng. Giống như thế, thiết kế PPDH cho loại
hoạt động 2, 3 và 4 của người học. Sự vận hành chung của 4 loại thiết kế PPDH cho
mỗi loại hoạt động sẽ tạo nên thiết kế chi tiết PPDH cho toàn bộ bài học.
I.3. Thiết kế PPDH phải dựa vào những phương thức học tập và các kiểu PPDH
chung
Các phương thức học tập tổng quát của con người mà bất kì ai cũng trải qua trong
học tập là:
1) Học bằng cách bắt chước, sao chép mẫu-đó là cơ chế tự nhiên và phổ biến nhất
của học tập, giúp con người thu được hầu hết những bài học trực quan trong đời
mình.
2) Học bằng làm việc (bằng hành động có chủ định), đó là cách học chủ yếu bằng
tay chân, vận động thể chất và tập luyện, qua làm việc mà biết, hiểu và lĩnh hội giá
trị.
3) Học bằng trải nghiệm các quan hệ chia xẻ kinh nghiệm, đó là cách học chủ yếu
bằng rung cảm, xúc cảm, cảm nhận, có rất nhiều dạng kinh nghiệm xã hội như đạo
đức, thẩm mĩ, văn hóa, nghệ thuật phải học bằng cách này.
4) Học bằng suy nghĩ lí trí, tức là bằng ý thức lí luận, tư duy trừu tượng, suy ngẫm
trên cơ sở hoạt động trí tuệ để giải quyết vấn đề.
Dựa theo những phương thức học tập mà lựa chọn phương pháp luận dạy học hoặc
lí thuyết PPDH. Bởi vì, để thực hiện chức năng tích cực hóa, PPDH bắt buộc phải
dựa vào người học (khả năng, thiện chí) và hoạt động của người học.
Tương ứng với những phương thức học tập như vậy, có thể có những kiểu PPDH
được phân biệt với nhau về nguyên tắc lí luận. Đó là:
Kiểu PPDH thông báo-thu nhận
Kiểu PPDH làm mẫu-tái tạo
Kiểu PPDH kiến tạo-tìm tòi
Kiểu PPDH khuyến khích-tham gia
Kiểu PPDH tình huống (hay vấn đề)-nghiên cứu.
Cách gọi tên của kiểu PPDH chỉ rõ khuynh hướng và tính chất hành động của GV

và người học. Mỗi kiểu PPDH có nhiều KN, mỗi mô hình này lại có vô vàn hình
thức vật chất. Do đó trong hiện thực, các hiện tượng của PPDH là vô hạn, mặc dù
về lí luận (bản chất) chỉ có hữu hạn các kiểu PPDH. Khi thiết kế PPDH cần dựa vào
quan niệm hoặc lí thuyết khoa học mà mình tin cậy về các phương thức học tập và
kiểu PPDH, và nói chung là những lí thuyết học tập và giảng dạy.
I.4. Thiết kế PPDH phải dựa vào kinh nghiệm sư phạm và trình độ phát triển KN
dạy học của GV
Điều này là đương nhiên, vì chủ thể thiết kế và thực hiện PPDH chính là nhà giáo
trực tiếp dạy học. Những KN dạy học thiết yếu gồm 3 nhóm: nhóm kĩ năng thiết kế
giảng dạy; nhóm kĩ năng tiến hành giảng dạy; nhóm kĩ năng nghiên cứu học tập và
nghiên cứu người học.
Khi thiết kế PPDH, GV phải cân nhắc về chính mình và lớp học của mình để tạo ra
bản thiết kế khả quan nhất trong giới hạn khả năng của mình. Thiết kế tốt là thiết kế
mà không chỉ GV này thực hiện được, mà các đồng nghiệp cũng thực hiện được nếu
tuân thủ đúng nội dung thiết kế, song chính GV thiết kế là người thực hiện hiệu quả
nhất.
[Sửa]
II.Quy trình thiết kế PPDH
II.1. Thiết kế bài học và phân tích thiết kế đó
Kĩ thuật thiết kế bài học là việc phức tạp. Qua thiết kế này, GV đã xác định và thiết
kế mục tiêu, nội dung học tập, các hoạt động của người học, các nguồn lực và
phương tiện, môi trường học tập. Đây là chỗ dựa chủ yếu để thiết kế PPDH nhưng
chưa đủ để thiết kế thành công.
II.2. Lựa chọn kiểu PPDH và thiết kế phương án kết hợp các kiểu đã chọn
Dựa vào thiết kế bài học và nhận thức lí luận của mình về các kiểu PPDH (tức là
phương pháp luận cụ thể), GV lựa chọn các kiểu PPDH và thiết kế trình tự, cách
thức kết hợp chúng với nhau trong phạm vi bài học đó và có thể trong cả chuỗi bài
học kế tiếp nhau. Điều này có nghĩa là: kiểu PPDH phải được tổ chức thống nhất
với từng loại họat động của người học, theo các phương án thiết kế chính thức và
dự phòng.

Ví dụ: đối với loại hoạt động phát hiện-tìm tòi của người học, có thể chọn kiểu
PPDH kiến tạo-tìm tòi kết hợp với kiểu khuyến khích-tham gia trong 1 hoạt động.
Nếu dự cảm thấy có thể chưa thành công thì GV nên dự phòng phương án khác,
chẳng hạn kiểu PPDH làm mẫu-tái tạo kết hợp với kiểu kiến tạo-tìm tòi,... Trong
những loại hoạt động khác cũng thực hiện những bước tương tự.
II.3. Xác định những KN cần thiết của mỗi mô hình cụ thể thuộc kiểu PPDH đã
chọn và thiết kế chúng thành hệ thống
Mỗi kiểu PPDH có nhiều mô hình khác nhau.
Ví dụ 1: kiểu PPDH khuyến khích-tham gia có những mô hình phổ biến sau:
Đàm thoại
Heuristic hay tìm tòi từng phần
Làm sáng tỏ giá trị
Song đề
Tình huống quan hệ
Thảo luận tham gia
Ví dụ 2: kiểu PPDH kiến tạo-tìm tòi có những mô hình:
Tìm tòi thực nghiệm di chuyển
Tìm tòi thực nghiệm biến đổi
Tìm tòi bằng hành động theo giai đoạn
Thảo luận thực nghiệm
Động não...
Ví dụ 3: kiểu PPDH vấn đề-nghiên cứu có những mô hình:
Thảo luận giải quyết vấn đề
Tranh luận động não
Nghiên cứu ngẫu nhiên
Nghiên cứu tổng hợp hóa
Xử lí tình huống
Nghiên cứu độc lập...
Ví dụ 4: kiểu PPDH thông báo-thu nhận có những mô hình sau:
Giải thích-minh họa

Thuyết trình
Giảng giải
Trình bày tài liệu
Đọc-chép
Kể chuyện...
Ví dụ 5: kiểu PPDH làm mẫu-tái tạo có những mô hình:
Các trò chơi dạy học
Thị phạm trực quan
Trình diễn trực quan
Luyện tập hệ thống hóa
Ôn tập theo tín hiệu điểm tựa...
Những mô hình như thế vô cùng phong phú trong kinh nghiệm dạy học ở nhà
trường. Khi thiết kế KN, GV phải chọn một vài mô hình cho mỗi kiểu PPDH thích
hợp với mình bằng cách đối chiếu chúng với vốn KN mà mình có và khả năng hoạt
động của người học (nhất là KN học tập của họ).
Ví dụ: theo mô hình thảo luận lớp hoặc nhóm, GV cần có và phải tổ chức những
KN sau: sử dụng câu hỏi, ứng xử với hành vi tình thế của người học, quản lí thời
gian, đánh giá tiếp diễn kết quả họat động, tổ chức môi trường và chỗ ngồi trong

×