Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHỐI hợp các lực LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC CHUẨN bị tâm lý CHO TRẺ vào lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.6 KB, 64 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC
LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC CHUẨN
BỊ TÂM LÝ CHO TRẺ VÀO LỚP 1


-Tổng quan nghiên cứu về phối hợp với các lực lượng
cộng đồng trong việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1
Ở nước ngoài
Chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1 là một vấn đề có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cuộc sống con người, nhưng
trong giáo dục và phát triển cộng đồng vấn đề này chỉ mới
được nghiên cứu một cách toàn diện trong những năm gần
đây. Mặc dù vậy, trong các công trình nghiên cứu đã có không
ít tài liệu đề cập đến vấn đề này.
Có rất nhiều những quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Trong đó có một số tác giả như sau:
Tác giả Bianka Zazzo cùng 12 cộng sự ở Trung tâm
Nghiên cứu tâm lý trẻ em thuộc Đại học Paris 10 đã chỉ ra
khó khăn tâm lý lớn nhất mà trẻ gặp phải là “ Sự thay đổi môi
trường hoạt động một cách triệt để, gọi là chuyển dạng hoạt
động chủ đạo, vừa học vừa chơi sang việc theo sự chỉ đạo
chặt chẽ của giáo viên, theo nội quy, quy định của lớp học,
của trường đặt ra. Bước sang lớp 1, trẻ phải làm quen với nề
nếp, thói quen mới. Đồng thời, bà càng làm rõ hơn những vấn


đề khó khăn của học sinh lớp 1 ở nước Pháp. Công trình của
bà ít giải quyết các vấn đề lý luận mà nhằm vào giải quyết các
mặt thực tiễn của vấn đề.[1]
A.V.Petrovxki đã cho rằng những biến đổi trong hoạt
động học tập khi trẻ bước vào lớp 1 đã làm cho trẻ gặp phải


những khó khăn tâm lý: làm quen với chế độ học tập mới; trẻ
phải đối mặt với những thay dổi về tính chất của cấc mối quan
hệ với cô giáo, với gia đình và bạn bè; trẻ mất dần hứng thú
học tập ban đầu và uể oải, thờ ơ với việc học.[6]
Những nguyên nhân dẫn đến khó khăn ở trẻ lớp 1 phải
kể đến A.V. Petrovxki với cuốn sách “Tâm lý học lứa tuổi và
tâm lý học sư phạm” [6]. Theo tác giả, những thói quen cần
thiết để đáp ứng những yêu cầu học tập mới: thức dậy đúng
giờ, không bỏ học, trong giờ phải ngồi yên lặng…
Những công trình nghiên cứu về tâm lý của trẻ trước khi
vào lớp 1 có một ý nghĩa quan trọng với việc đi sâu vào bản
chất của “phối hợp các lực lượng cộng đồng nhằm chuẩn bị
tâm lý cho trẻ vào lớp 1”.
Nói đến việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1, chúng ta
phải kể đến M.I. Đatrencô và L.A.Kenđubôvic với cuốn sách:


“Những vấn đề tâm lý của sự sẵn sàng đối với hoạt động”
xuất bản năm 1976. Trong cuốn sách này, hai ông đã trình bày
khá toàn diện và đầy đủ những quan điểm lý luận về sự sẵn
sàng tâm lý đối với hoạt động và quá trình hình thành nó.
Tóm lại, các tác giả nước ngoài chỉ mới nghiên cứu về
khó khăn tâm lý của trẻ và họ đã chỉ ra những vấn đề trong
bản chất của khó khăn tâm lý, nguyên nhân dẫn tới những khó
khăn tâm lý, ảnh hưởng của nó tới các hoạt động khác trong
đời sống… Tuy nhiên, nghiên cứu về sự phối hợp các lực
lượng cộng đồng trong việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1
chưa được quan tâm. Vì lẽ đó cần phải được nghiên cứu sâu
và tìm hiểu cụ thể hơn để tìm ra những biện pháp giúp cho trẻ
có tâm lý vững vàng trước khi vào lớp 1.

- Ở Việt Nam
Có một số tác giả đã nghiên cứu đến vấn đề này trong
khoảng 20 năm gần đây và chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu quá
trình chuẩn bị cho trẻ đến trường ở tuổi Mẫu giáo lớn. Cụ thể:
Bài viết “ Chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1” của tác giả Mạc
Văn Trang[30], đã lưu ý tới các bậc cha mẹ giúp các con


chuẩn bị hành trang tới lớp, chuẩn bị tâm lý sẵn sàng học tập
cho con.
Theo tác giả Phạm Thị Đức, khó khăn trước khi vào lớp 1
đối với trẻ là nhút nhát, mất bình tĩnh trước hoàn cảnh mới,
chưa có động cơ học tập đúng đắn. Theo tác giả “Cần chuẩn bị
những gì cần thiết để giúp trẻ bước vào lớp 1”. Điều đó được
thể hiện qua bài viết “ Chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1 ” [6].
Năm 1998, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết đã dành nhiều
thời gian để nghiên cứu những quan điểm khoa học, cũng như
vấn đề cơ bản trong hoạt động của học sinh Tiểu học từ đó
đưa ra những mặt cần chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào lớp 1 thông
qua tài liệu tổng hợp “Chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào trường phổ
thông” [29].
Năm 1992, tác giả Nguyễn Kế Hào đã kết luận chuẩn bị
cho trẻ đến trường là việc làm nghiêm túc của các bậc phụ
huynh (cha mẹ, gia đình), cô giáo, nhà trường [10].
Tác giả Phạm Ngọc Định đã chỉ rõ việc hình thành hành
vi nề nếp và hành vi giao tiếp cho HS lớp 1 [5], [6].


Tác giả Nguyễn Thị Nhất và Nguyễn Khắc Việt cho biết
những lo âu của các em khi bước vào môi trường mới lạ với

phương thức khác hẳn, là điều không dễ gì vượt qua [19].
Đối với tác giả Vũ Thị Nho, giáo dục trước tuổi học tạo
điều kiện thuận lợi giúp trẻ có khả năng thích ứng nhanh hơn
với hoạt động học tập [18].
Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Ánh Tuyết - Nguyễn Thị
Như Mai còn nghiên cứu về đặc điểm tâm lý của trẻ Mầm
non, khi nghiên cứu về đặc điểm tâm lý của trẻ mẫu giáo lớn,
bà đặc biệt quan tâm đến bước ngoặt 6 tuổi cũng như những
chuẩn bị toàn diện cho trẻ vào trường tiểu học. Tất cả được
thể hiện trong giáo trình “Sự phát triển Tâm lý trẻ em lứa tuổi
Mầm non” [25].
Hiện nay, có rất nhiều nguồn thông tin về việc chuẩn bị
cho trẻ vào lớp 1 trên các phương tiên thông tin đại chúng.
Song, đó chỉ là những phóng sự trên một số địa bàn cụ thể
chứ chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu thực trạng việc
chuẩn bị cho trẻ đến trường ở các trường Mầm non, trên cơ sở
đó tìm hiểu nguyên nhân, đưa ra giải pháp chung giúp chuẩn
bị tâm lý cho trẻ 5 tuổi vào trường tiểu học một cách tốt nhất.


- Một số khái niệm công cụ
- Phối hợp các lực lượng cộng đồng
Phối hợp:
Phối hợp là hoạt động cùng nhau của hai hay nhiều cá
nhân, tổ chức để hỗ trợ cho nhau thực hiện một công việc
chung.
Phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài trường hay cộng
đồng tham gia vào quá trình vận động (động viên, khuyến
khích, thu hút) mọi thành viên giúp cho trẻ có được tâm lý
sẵn sàng vào lớp 1. Xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị

phục vụ cho việc dạy và học, tạo môi trường giáo dục thống
nhất giữa nhà trường - gia đình - xã hội. Sự phối hợp đó là
một quá trình thống nhất và liên tục giúp khai thác được thế
mạnh của các lực lượng hướng vào việc phát triển toàn diện
cho thế hệ trẻ.
Tóm lại, "phối hợp" là cùng hành động hoặc hỗ trợ lẫn
nhau tổ chức hoạt động cho hai hoặc nhiều tổ chức đoàn thể.
Xét từ khía cạnh phối hợp với các lực lượng cộng đồng trong
việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1 thì phối hợp là một một


hình thức, một quy trình kết hợp các hoạt động của giáo viên,
phụ huynh, tổ dân phố, hội phụ nữ với nhau để bảo đảm cho
việc phối hợp với các LLCĐ này được thực hiện đầy đủ, hiệu
quả nhằm đạt được các lợi ích chung là chuẩn bị tốt tâm lý
cho trẻ trước khi vào lớp 1.
Cộng dồng:
"Cộng đồng" là một khái niệm đã và đang được sử dụng
khá rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như sử học, văn hóa học, xã
hội học, tâm lý học, triết học, sinh học, nghiên cứu phát triển
v.v... Theo Toennies, "cộng đồng" là một thực thể có độ gắn kết
bền vững hơn so với "hiệp hội" vì "cộng đồng" được đặc trưng
bởi sự đồng thuận về ý chí của các thành viên trong cộng đồng.
Các nhà Triết học đương nhiên lại chú trọng hơn đến các
yếu tố tinh thần, tâm linh trong quan hệ cộng đồng. Ở đây,
cộng đồng không chỉ còn giới hạn trong những nơi cư trú,
hình thức tổ chức xã hội v.v... mà còn tương đồng quan niệm
về thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy.
Theo UNESCO: Cộng đồng là một tập hợp người có
cùng chung lợi ích, cùng làm việc vì cùng một mục đích



chung nào đó và cùng sinh sống ở trong một khu vực xác
định.
Theo quan điểm Mác xít, cộng đồng là mối quan hệ qua
lại giữa các cá nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa
lợi ích giống nhau của các thành viên, các điều kiện tồn tại và
hoạt động của những người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm
hoạt động sản xuất vật chất và các hoạt động khác của họ, sự
gần gũi các cá nhân về tư tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị chuẩn
mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục
tiêu và phương tiện hoạt động. [15, tr.16]
Cộng đồng được khái niệm chung nhất là: “một cơ thể
sống/cơ quan/tổ chức nơi sinh sống và tương tác giữa cái này
với cái khác”. Trong khái niệm này, điều đáng chú ý, được
nhấn mạnh: cộng đồng là “cơ thể sống”, có sự “tương tác” của
các thành viên. Tuy nhiên, trong khái niệm này, các nhà khoa
học không chỉ cụ thể “cái này” với “cái khác” là cái gì, con gì.
Đó có thể là các loại thực vật, cũng có thể là con người - cộng
đồng người. [15, tr.16]
Dù tiếp cận từ những góc độ khác nhau, dựa trên những
lý thuyết khoa học khác nhau và hướng sự quan tâm học


thuật tới những dạng cụ thể không giống nhau của cộng
đồng, nhưng tựu chung lại có thể coi những dấu hiệu cốt yếu
nhất sau đây để nhận biết hay định nghĩa một cộng đồng:
Cộng đồng phải là tập hợp của số đông người. Mỗi cộng
đồng phải có một bản sắc riêng. Các thành viên của cộng
đồng phải tự cảm thấy có sự gắn kết với cộng đồng và các

thành viên khác của cộng đồng. [15, tr.20]
Có thể có nhiều yếu tố tạo nên bản sắc và sức bền gắn
kết cộng đồng, nhưng quan trọng nhất chính là sự thống nhất
về ý chí và chia sẻ về tình cảm, tạo nên ý thức cộng đồng.
Trong đời sống xã hội, "cộng đồng" là danh từ chỉ chung
một tập hợp người nhất định nào đó có hai dấu hiệu quan
trọng: 1) họ cùng tương tác (tác động qua lại); 2) họ cùng chia
sẻ với nhau (có chung với nhau) một hoặc một vài đặc điểm
vật chất hay tinh thần nào đó. Mỗi cộng đồng đều có những
tiêu chí bên ngoài để nhận biết về cộng đồng và có những quy
tắc, ứng xử chung của cộng đồng. Mỗi gia đình trong cộng
đồng đều có mối quan hệ khăng khít hữu cơ với nhau, mỗi gia
đình đều có ảnh hưởng tới cộng đồng và ngược lại, cộng đồng
cũng có tác động trực tiếp tới từng gia đình, giúp đỡ và cùng
gia đình chăm sóc, giáo dục trẻ tốt hơn.


Cộng đồng - nơi ở giữ vị trí và vai trò quan trọng trong
việc chuẩn bị tốt về mặt tâm lý cho trẻ. Cộng đồng thôn, xóm,
làng, xã hoặc phố phường là môi trường gần gũi đối với trẻ.
Khoảng không gian đầy ắp những mối quan hệ và giao lưu
của con người có ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của trẻ. Con
người phát triển trước hết là nhờ có gia đình, cộng đồng, dấu
ấn của cộng đồng đã khiến cho mỗi con người có cái riêng,
cái đặc thù của mình; chính là cái riêng, cái đặc thù của mỗi
“vùng, miền, dân tộc” nơi mà người đó xuất thân.
Tóm lại, “cộng đồng” là một thực thể sống/một xã hội
thu nhỏ phức tạp được kết cấu bền vững bởi nền tảng văn hóa,
truyền thống chung, có gốc rễ sâu xa, bởi nhu cầu, tình cảm
và ý thức của những người dân.

Phối hợp các lực lượng cộng đồng:
Việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện các phẩm chất và
năng lực nhằm giúp trẻ phát triển nhân cách một cách toàn
diện là một quá trình lâu dài liên tục, diễn ra ở nhiều môi
trường khác nhau, liên quan rất nhiều đến các mối quan hệ xã
hội phức tạp. Vì thế, việc giáo dục nói chung và giáo dục trẻ
em nói riêng luôn luôn đòi hỏi sự phối hợp, kết hợp chặt chẽ


của nhiều lực lượng xã hội và nhất là đòi hỏi sự quan tâm
đúng cách của nhà trường, gia đình và mọi người trong xã
hội.
Gia đình, nhà trường và xã hội luôn được coi là “tam
giác” giáo dục đối với mỗi đứa trẻ. Tầm quan trọng cũng như
mối quan hệ giữa các lực lượng tham gia giáo dục trẻ ai cũng
hiểu, nhưng vẫn có một khoảng cách lớn giữa nói và làm.
Việc phối hợp giữa nhà trường với cộng đồng, các tổ chức xã
hội thực chất đó chính là thực hiện xã hội hóa giáo dục. Xã
hội hóa giáo dục tốt sẽ góp phần nhanh chóng đạt được mục
tiêu giáo dục đề ra. Muốn thực hiện xã hội hóa giáo dục tốt
thì việc đầu tiên là xác định các đối tượng tham gia, phối
hợp.
Việc giáo dục trẻ mầm non nói chung và chuẩn bị tâm lý
cho trẻ vào lớp 1 nói riêng mang đặc tính xã hội hóa cao, để
thực hiện có hiệu quả việc chuẩn bị tâm lý cho trẻ ở lứa tuổi
này cần thiết phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên, phụ
huynh, tổ dân phố, hội phụ nữ. Trách nhiệm của giáo viên là
phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò, lợi ích của việc CBTL
cho trẻ vào lớp 1 là quan trọng và cần thiết với cộng đồng.
Trên cơ sở đó, huy động sự tham gia có trách nhiệm của cộng



đồng và các tổ chức xã hội, góp phần chuẩn bị tâm lý cho trẻ
vào lớp 1.
Ý nghĩa sâu sắc của việc phối hợp các lực lượng giáo
dục đã được Bác Hồ chỉ ra từ lâu: "Giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội
và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường
được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy,
nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết
quả cũng không hoàn toàn”
(Trích bài nói tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục
tháng 6/ 1957).
"Phối hợp với các lực lượng cộng đồng" là tổ chức phối
hợp giữa nhà trường với phụ huynh học sinh, tổ dân phố, hội
phụ nữ v.v…trên địa bàn qua các hình thức khác nhau như:
các hoạt đông ngoại khóa, họp phụ huynh, tuyên truyền cho tổ
dân phố và hội phụ nữ về tầm quan trọng của việc chuẩn bị
những hành trang tốt nhất cho trẻ trước khi vào lớp 1.
- Chuẩn bị tâm lý cho trẻ vào lớp 1
Tâm lý:


Ở lứa tuổi mầm non mâu thuẫn giữa mong muốn và khả
năng, giữa cái đã biết và cái chưa biết, cái làm được và không
làm được trong quá trình trẻ tiếp xúc, tìm hiểu, khám phá thế
giới xung quanh là những mâu thuẫn có ý nghĩa quan trọng
đối với sự phát triển tâm lý của trẻ. Những bước nhảy vọt
trong phát triển tâm lý là kết quả của sự tích luỹ về kinh
nghiệm.

Hiểu được tâm lý của trẻ để có cơ sở chuẩn bị tâm lý cho
trẻ, phát triển những phẩm chất, năng lực tốt đẹp ở trẻ.
Trong lịch sử xa xưa của nhân loại, trong tiếng Latinh:
“Psyche” là linh hồn, tinh thần và “logos” là học thuyết, khoa
học. Vì thế, “tâm lý học” (Psychologic) là khoa học về tâm
hồn. Nói một cách khái quát nhất: tâm lý bao gồm tất cả
những hiện tượng tinh thần xảy ra trong đầu óc con người,
gắn liền và điều hành mọi hành động, hoạt động của con
người. Các hiện tượng tâm lý đóng vai trò quan trọng đặc biệt
trong đời sống con người, trong quan hệ giữa con người với
con người và con người với cả xã hội loài người. Như vậy, đối
tượng của tâm lý học là các hiện tượng tâm lý với tư cách là
một hiện tượng tinh thần do thế giới khách quan tác động vào
não con người sinh ra, gọi chung là các hoạt động tâm lý.


Tâm lý học nghiên cứu sự hình thành, vận hành và phát triển
của hoạt động tâm lý. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng
định: Tâm lý người là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
não người thông qua chủ thể, tâm lý người có bản chất xã hội
- lịch sử [21, tr.14].
Mỗi người có những đặc điểm riêng về cơ thể, giác
quan, hệ thần kinh và não bộ. Mỗi người có hoàn cảnh sống
khác nhau, điều kiện giáo dục không như nhau và đặc biệt là
mỗi cá nhân thể hiện mức độ tích cực hoạt động, tích cực giao
lưu khác nhau trong cuộc sống. Vì thế, tâm lý người này khác
tâm lý người kia. [21, tr.16]
Từ luận điểm nói trên, chúng ta có thể rút ra một số kết
luận thực tiễn sau [21, tr.16]:
-Tâm lý có nguồn gốc là thế giới khách quan. Vì thế, khi

nghiên cứu, cũng như khi hình thành, cải tạo tâm lý người
phải nghiên cứu hoàn cảnh trong đó con người sống và hoạt
động.
-Tâm lý người mang tính chủ thế. Vì thế, trong dạy học,
giáo dục cũng như trong quan hệ ứng xử phải chú ý nguyên
tắc sát đối tượng (chú ý đến cái riêng trong tâm lý mỗi người).


-Tâm lý là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp. Vì thế,
phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên
cứu, hình thành và phát triển tâm lý con người.
Như vậy, “Tâm lý” là tất cả những hiện tượng tinh thần
nảy sinh do sự tác động của thế giới khách quan vào não,
được não phản ánh, nó gắn liền, điều hành, điều chỉnh mọi
hành vi hoạt động của con người.
Trẻ vào lớp 1:
Giáo dục trẻ mầm non gồm các lớp như: nhà trẻ, mẫu
giáo bé, mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn. Nhưng trong nghiên
cứu này chỉ tập trung giới hạn nghiên cứu chuẩn bị tâm lý cho
trẻ MGL vào lớp 1.
Độ tuổi mẫu giáo lớn là giai đoạn cuối của trẻ em ở lứa
tuổi “mầm non” - tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ
thông. Các nhà tâm sinh lý cho rằng, thời kỳ trẻ 6 tuổi đến
trường là thời kỳ thuận lợi nhất cho sự phát triển trí tuệ. Ở
giai đoạn này, trẻ đã có những tiền đề cần thiết cho sự chín
muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí tuệ,
ngôn ngữ và tâm thế... để có thể thích nghi với môi trường
tiểu học. Với sự giáo dục của người lớn, những chức năng tâm



lý đó sẽ được hoàn thiện về mọi phương diện của hoạt động
tâm lý (nhận thức, tình cảm và ý chí) để hoàn thành việc xây
dựng những cơ sở ban đầu về nhân cách của con người.
Tâm sinh lý:
Trước hết, trẻ cần phải được chuẩn bị tốt về mặt thể chất,
vì sự phát triển thể lực là điều kiện vật chất rất quan trọng ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình học tập. Bác Hồ của chúng ta có
nói “Một tâm hồn minh mẩn trong một cơ thể cường tráng”.
Thật vậy, một điều kiện quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến
quá trình học tập của học sinh là thể lực. Thể lực phát triển tốt
tạo điều kiện thuận lợi cho những tư chất, những yếu tố sinh
học với tư cách là tiền đề vật chất của sự phát triển nhân cách.
Hoạt động học tập ở Phổ thông là lao động nghiêm túc, căng
thẳng, với nhiều giờ học kéo dài, đòi hỏi trẻ phải có sức khoẻ
tốt, khả năng chịu đựng cao, dễ thích nghi với môi trường và
hoàn cảnh xung quanh. Một khi cơ thể khoẻ mạnh thì trẻ sẽ
hoạt động tích cực, lạc quan trong cuộc sống. Ngược lại, nếu
cơ thể trẻ ốm yếu, mệt mỏi, khả năng làm việc giảm sút - điều
này không những ảnh hưởng đến chất lượng học tập của trẻ


mà còn làm cho trẻ trở nên lười biếng, bi quan trong cuộc
sống.
Về cơ thể của trẻ ngày càng phát triển, hoàn thiện, các
cơ quan hoạt động vững chắc hơn. Ngoài ra, sự phát triển hài
hoà về thể lực và tâm lí - thần kinh, sự phát triển cân đối về
hình thể và sinh lí với các chỉ số phát triển cơ thể bình thường
- đạt tiêu chuẩn lứa tuổi. Mức độ phát triển vận động cao, tay,
mắt, cột sống phát triển tốt, đặc biệt là vận động của ngón tay
cũng là những yếu tố có ý nghĩa to lớn trong việc chuẩn bị

cho trẻ vào trường Phổ thông. Sự phát triển và hoàn thiện về
sinh lý, các chức năng thần kinh, hệ thống tín hiệu thứ hai,
khả năng phối hợp vận động của tay, mắt cũng góp phần đảm
bảo cho trẻ có đủ sức học, cũng như học có hiệu quả. Để có
được phẩm chất đó, cần tạo một chế độ sinh hoạt, ăn uống,
nghỉ ngơi, luyện tập,… cho trẻ một cách khoa học và hợp lý
cả về thời gian cũng như phù hợp với đặc điểm phát triển
riêng của từng trẻ.
Các giác quan phát triển, trẻ cảm nhận màu sắc, hình
thù, âm thanh, tính chất của các đồ vật, cơ quan vận động
phối hợp được tay chân và toàn thân giữ được thăng bằng


trong cử động. Trẻ đã biết dùng các ngón tay để thao tác được
với một số công cụ đơn giản như cầm bút, cầm kéo. Tuy
nhiên, ở thời điểm này sự phối hợp các cơ ngón tay của trẻ
chưa phát triển đến mức độ tinh tế và chính xác cần thiết.
Về mặt trí tuệ:
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của trẻ ở trường
Phổ thông và nó đòi hỏi ở người học một sự lao động trí tuệ
thực sự, một khả năng hoạt động nhận thức và năng lực trí tuệ
nhất định. Chính vì vậy, mà việc chuẩn bị cho trẻ sẵn sàng về
mặt trí tuệ cho hoạt động học có ý nghĩa cực kì to lớn. Một
trong những biểu hiện quan trọng của sự sẵn sàng về mặt trí
tuệ đó là lượng tri thức đủ rộng về thế giới xung quanh. Trẻ
MGL cần phải biết và phân biệt được các lĩnh vực khác nhau.
Vì vậy, trẻ cần phải có sự rèn luyện về các thao tác trí tuệ, có
sự hiểu biết vể bản thân, gia đình, môi trường xung quanh,
các biểu tượng về thời gian, không gian đồng thời có kỹ năng
thực hiện hoạt động trí óc như biết so sánh, phân tích, tổng

hợp.
Trẻ mẫu giáo thường không có tính chủ định trong các
hoạt động, nhất là hoạt động trí óc, thích gì làm nấy, làm được


một lúc rồi lại chán, xoay qua làm việc khác, ít tập trung lâu
vào một việc gì cho đến đầu đến đũa. Đặc điểm đó sẽ không
có lợi cho việc học tập ở lớp 1. Trước hết, cần giúp trẻ biết tập
trung chú ý vào công việc, nhất là những vấn đề về nhận thức,
cũng tức là biến những quá trình tâm lý không chủ định thành
có chủ định, như: tri giác không chủ định thành tri giác có chủ
định, trí nhớ không chủ định thành trí nhớ có chủ định…
Trong khi tổ chức các hoạt động, chúng ta cần tạo điều kiện
để giúp trẻ chuyển dần chú ý không chủ định đến chú ý có
chủ định vào một việc nào đó. Điều này có thể thực hiện trong
các “tiết học” hay trong hoạt động vui chơi, bằng cách đặt ra
cho trẻ phải thực hiện một nhiệm vụ nhất định, nhất là nhiệm
vụ nhận thức, như kể lại câu chuyện vừa mới nghe hay miêu
tả lại một sự vật nào đó vừa mới được nhìn thấy, hoàn thành
một bức vẽ… Cần tập cho trẻ biết duy trì chú ý trong một thời
gian dài cần thiết vào một công việc nào đó.[28, tr.133]
Đến tuổi mẫu giáo lớn, sự tập trung chú ý của trẻ đã có
sự tập trung cao hơn, bền vững hơn. Điều đó thể hiện ở thời
gián chơi, tiết học được kéo dài hơn, thời gian tăng lên gấp
đôi. Có thể nói, trẻ 6 tuổi ghi nhớ máy móc rất tốt, ghi nhớ
chủ định của trẻ phát triển, nhưng ghi nhớ máy móc chiếm ưu


thế. Khi mới bước vào tuổi mẫu giáo, đứa trẻ chưa hiểu biết gì
mấy về bản thân mình và những phẩm chất của mình, nhưng

đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ mới hiểu được mình là người như
thế nào, có những phẩm chất gì, những người xung quanh đối
với mình ra sao và tại sao mình lại có những hành động này
hay hành động khác. Trẻ bắt đầu biết đánh giá về mình và về
người khác. Thoạt đầu, sự đánh giá của trẻ về người khác (cử
chỉ, phẩm chất) còn phụ thuộc nhiều vào tỉnh cảm của đứa trẻ
với những người xung quanh mình. Trẻ em mẫu giáo thường
lĩnh hội những quy tắc, chuẩn mực như là thước đo để đánh
giá người khác và đánh giá bản thân mình. Nhưng do tình
cảm còn chi phối mạnh nên không cho phép nó dùng thước đo
ấy để đánh giá hành vi của những người khác cũng như của
chính mình một cách khách quan. Đến tuổi mẫu giáo lớn, trẻ
mới nắm được kỹ năng so sánh mình với người khác, điều này
là cơ sở để trẻ noi gương những người tốt, việc tốt.
Những tri thức trong chương trình học tập ở trường Phổ
thông mang tính chất khái quát và tính hệ thống. Vốn hiểu
biết của trẻ về thế giới xung quanh phong phú là điều kiện
thuận lợi để trẻ giải quyết các nhiệm vụ học tập.
Về mặt ngôn ngữ:


Một trong những thành tựu lớn lao nhất của giáo dục
mầm non (tức là giáo dục tiền học đường) là làm cho trẻ sử
dụng được một cách thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống
hàng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhât để
lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để giao lưu với những người
xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi bổ tâm
hồn… [27, tr.304]
Trình độ phát triển ngôn ngữ được coi là một điều kiện
hết sức quan trọng trong việc lĩnh hội các tri thức khoa học tự

nhiên cũng như khoa học xã hội. Bởi vậy, ở lứa tuổi mẫu giáo,
việc trẻ em sử dụng thông thạo tiếng mẹ đẻ được coi là yêu
cầu nghiêm túc. Trước khi đến trường trẻ phải biết nói năng
mạch lạc khi giáo tiếp với người xung quanh, biết sử dụng
ngôn ngữ như một phương tiện để tư duy, để giao tiếp. [27,
tr.334]
Con người khác xa con vật nhờ có ngôn ngữ. Ngôn ngữ
vừa là phương tiện vừa là điều kiện để con người hoạt động
và giao lưu. Trong học tập, ngôn ngữ vừa là công cụ để tư
duy, lĩnh hội tri thức, vừa nói lên khả năng trí tuệ của con
người. Ở tuổi mẫu giáo lớn, hoạt động chơi của trẻ là hoạt
động chủ đạo và trò chơi đóng vai theo chủ đề là trò chơi


chính trong suốt quá trình của trẻ khi ở trường mầm non.
Trong trò chơi đã có những cơ sở của hoạt động học tập, là
hoạt động chủ đạo của giai đoạn tiếp theo (giai đoạn tiểu học).
Trong trò chơi trẻ được thể hiện khát vọng tham gia vào cuộc
sống của người lớn, tái tạo cả những quan hệ xã hội khi trẻ
đóng vai người lớn. Như vậy, những vị trí đặc biệt của trẻ
trong xã hội sẽ được xuất hiện khi trong lúc trẻ chơi phân vai.
Ở tuổi mẫu giáo lớn, việc đặt mục đích cho hành động và lập
kế hoạch để thực hiện hành động thường được thể hiện rất rõ
nét. Điều đó thúc đẩy các hành động định hướng bên trong
(tức là quá trình tâm lý) phát triển mang tính chủ định rõ ràng.
Tính chủ định này được phát triển cùng với sự tiến triển của
hoạt động vui chơi của trẻ mẫu giáo lớn, làm cho dạng trò
chơi đóng vai theo chủ đề dần chuyển sang dạng trò chơi có
luật rõ hơn. Trò chơi đóng vai theo chủ đề còn thể hiện những
mối quan hệ qua lại có thực trong xã hội, trẻ biết sử dụng linh

hoạt các mối quan hệ giữa các vai trong khi chơi theo cách mà
chúng đã quan sát được hay bằng những kinh nghiệm vốn có
của mình. Qua đó, trò chơi đã tạo nên hứng thú và sự tích cực
khi tham gia hoạt động chơi. Trẻ nhập vai chơi rất nhanh, thể
hiện các vai chơi qua trí tưởng tượng của trẻ. Trẻ có thể tự


làm hay lấy những đồ vật để thay thế mà không cần đầy đủ
nhân vật thật như ngoài cuộc sống giống như một quy ước
dành riêng cho những người trong cuộc khi tham gia vào trò
chơi. Hoạt động chơi còn góp phần phát triển chú ý có chủ
định và trí nhớ có chủ định. Trong điều kiện chơi trẻ phải tập
trung, chú ý và ghi nhớ để diễn những vai mà mình đảm
nhiệm, trẻ có thể nhớ lại và sáng tạo thêm những gì xảy ra
trong quá trình trẻ thực hiện vai của mình để hợp với hoàn
cảnh của vai diễn. Nếu nó không nhớ được thì bạn bè chơi
cùng sẽ loại nó ra khỏi cuộc chơi. Do vậy, trẻ phải rất tập
trung chú ý và ghi nhớ có mục đích. Trên cơ sở vốn kinh
nghiệm tích lũy được, trí tưởng tượng của trẻ 6 tuổi trở nên
hiện thực, sáng tạo hơn. Trò chơi có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển ngôn ngữ. Trong khi chơi, mỗi trẻ cần phải tiếp nhận
thông tin và truyền thông tin qua phương tiện ngôn ngữ và phi
ngôn ngữ. Ngôn ngữ của trẻ 5-6 tuổi đã phát triển khá tốt, trẻ đã
biết sử dụng những câu giao tiếp đơn giản để giao tiếp với bạn
và người lớn. Vốn từ của trẻ khá phong phú cả về danh từ,
động từ, tính từ, liên từ. Trẻ nắm được vốn từ đủ để trẻ diễn
đạt các mặt trong đời sống hàng ngày.


Sự lĩnh hội ngôn ngữ còn được quyết định bởi tính tích

cực của bản thân trẻ em đối với ngôn ngữ. Những trẻ em mà
năng giao tiếp, năng tìm hiểu các hiện tượng ngôn ngữ (tức là
ngôn ngữ đã trở thành đối tượng của ý thức) thì không những
hiểu được từ ngữ và nắm vững ngữ pháp một cách vững vàng
mà còn “sáng tạo” ra những từ ngữ, những cách nói chưa hề
có trong ngôn ngữ người lớn. [27, tr.307]
Ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi Mầm non chủ yếu là ngôn
ngữ nói: sự phát triển ngôn ngữ nói của trẻ em phụ thuộc rất
lớn vào sự giao tiếp của trẻ em với người lớn và giữa bản thân
trẻ với bạn cùng lứa. Trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1,
cần phải phát triển ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ cho trẻ. Trước tiên,
về mặt ngôn ngữ cần phải cung cấp cho trẻ vốn từ. Qua đó,
giúp trẻ hiểu được ý nghĩa của từ, khuyến khích trẻ hoạt động
lời nói một cách tích cực hơn. Thông qua trò chuyện, giao tiếp
hàng ngày, thông qua truyện kể, đồ dùng, đồ chơi..., đây cũng
là hình thức cung cấp cho trẻ vốn từ phong phú về thế giới
xung quanh, giải thích một cách đơn giản để trẻ hiểu được
nghĩa của từ. Việc tổ chức cho trẻ nói chuyện, trao đổi với
nhau là cần thiết để phát triển ngôn ngữ cho trẻ em. Ở Mỹ,
trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ, người ta rất coi trọng


×