Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

CƠ sở lí LUẬN về PHỐI hợp các lực LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC đưa TRẺ mầm NON đến TRƯỜNG ĐÚNG độ TUỔI tại KIẾN THỤY, hải PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.08 KB, 57 trang )

CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ PHỐI HỢP CÁC LỰC
LƯỢNG CỘNG ĐỒNG TRONG VIỆC ĐƯA TRẺ
MẦM NON ĐẾN TRƯỜNG ĐÚNG ĐỘ TUỔI TẠI
KIẾN THỤY, HẢI PHÒNG


-Tổng quan nghiên cứu vấn đề
-Trên thế giới
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy khoa học đã chứng minh
rằng những năm đầu của cuộc đời, đặc biệt là thời kỳ trẻ từ 0 đến
6 tuổi là giai đoạn quan trọng trong sự phát triển thể chất tâm lý,
cũng như hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản là làm cơ sở
cho việc học tập sau này của trẻ.
Trẻ ở lứa tuổi này nếu được chuẩn bị tốt ở trường MN sẽ có
nhiều
thuận lợi và tạo đà tốt cho trẻ khi bước vào các cấp học tiếp theo.
Tuy nhiên nếu chỉ trông cậy vào sự chăm sóc giáo dục trẻ ở
trường MN thôi thì chưa đủ, để chuẩn bị cho trẻ trong cuộc sống
tương lai mà thêm vào đó rất cần sự hỗ trợ của cộng đồng xã hội.
Các nghiên cứu về sự phối hợp giữa nhà trường với các lực
lượng cộng đồng trong chăm sóc, giáo dục trẻ MN trong một số dự
án đề tài sách báo ngoài nước như:
- Dự án nghiên cứu về gia đình (Harvard Family Research
Project) của trường Đại học giáo dục Harvard khẳng định: Sự tham
gia của gia đình trong giáo dục mầm non nâng cao thành công của
mọi trẻ trong mọi độ tuổi. Dự án đã nêu được tầm quan trọng của


giáo dục gia đình trong giai đoạn lứa tuổi MN đó là quá trình giáo
dục bao gồm thái độ, giá trị và thực hành của cha mẹ trong việc
nuôi dạy trẻ. Nội dung của dự án đề cập tới 4 lĩnh vực: (1) Quan hệ


chăm sóc, cảm xúc và trách nhiệm giữa cha mẹ với trẻ; (2) Sự
tham gia của cha mẹ trẻ vào các hoạt động của trẻ ở gia đình; (3)
Quan hệ giữa nhà trường và gia đình; (4) Trách nhiệm đối với kết
quả học tập của trẻ. Trong đó đối với giáo dục mầm non, quan hệ
giữa gia đình và nhà trường được hiểu là những liên hệ chính thức
và phi chính thức giữa gia đìnhvà các cơ sở giáo dục mầm non.
Sự tham gia cả gia đình vào các hoạt động ở cơ sở GDMN bao
gồm các buổi họp phụ huynh, tham gia các lớp học và tham gia
giúp đỡ các hoạt động giáo dục ở lớp học cũng như duy trì mối
liên hệ định kỳ giữa giáo viên và cha mẹ là các yếu tố ảnh hưởng,
tác động đến chất lượng giáo dục trẻ. (dẫn theo Nguyễn Lộc, 2009)
- Những thông tin xã hội và quan niệm về các chính sách gia
đình. Đề tài đã được thực hiện trên 2.700 gia đình Singapore
(người Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysia và các dân tộc khác). Tuy
mục đích chính trong đề tài không nhằm nghiên cứu GD trẻ nhỏ
trong gia đình nhưng trên cơ sở các dữ liệu thu được nhóm tác giả
đã dành hẳn 1 chương để phân tích vấn đề GD của cha mẹ
đối với con cái với 4 yếu tố: (1) Cách tiếp cận giáo dục của cha


mẹ; (2) GD các giá trị truyền thống trong gia đình; (3) Phối hợp
giữa gia đình và nhà trường; (4) Tương tác giữa cha mẹ và trẻ.
Trong đó để nêu được tầm quan trọng của hoạt động phối
hợp giữa gia đình và nhà trường, nhóm tác giả đã đưa ra các kết
quả nghiên cứu khảo sát với câu hỏi: Những vấn đề nào trong 9
vấn đề dạy dỗ trẻ chỉ thực hiện trong gia đình? Trong trường học?
Hay có sự phối hợp cả gia đình và trường học. Đặc biệt trong
cuốn: Giáo viên MN về công tác với gia đình, tác giả người Nga
Ubranxkaia, ngoài nội dung nêu rõ cơ sở của GD trẻ trong gia
đình, nội dung công việc với cha mẹ, các phương pháp và hình

thức tiếp cận, phối hợp với phụ huynh, tác giả còn đề cập đến
công việc của Hiệu trưởng trường MN với công tác phụ huynh
bao gồm: công tác quản lý hoạt động phối hợp với gia đình, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên để làm tốt công tác phụ huynh và cả
công tác tư vấn, giao tiếp trực tiếp với phụ huynh (dẫn theo Phạm
Minh Hạc, 2001)
- Năm 2013 Makhmutova.R.St đã công bố kết quả nghiên
cứu của mình trên tạp chí khoa học Sư phạm Nga với bài báo “
Phối hợp làm việc với phụ huynh để giáo dục trẻ MN thói quen,
lối sống lành mạnh” đã nêu các biện pháp quản lý hoạt động phối
hợp với phụ huynh trong việc giáo dục trẻ mầm non [Luật bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em [30].


-Ở Việt Nam
Nhân loại đang đứng trước sự phát triển như vũ bão của
khoa học công nghệ và những thành tựu lớn lao về kinh tế xã hội.
Hầu hết các nhà lãnh đạo, các nhà nghiên cứu của nhiều quốc gia
trên thế giới khẳng định rằng: Giáo dục là động lực để phát triển
kinh tế - xã hội, nguồn lực con người là tài sản quyết định cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, hiện đại hóa đất nước.
Với tầm quan trọng như vậy, ngày nay giáo dục luôn được coi là
quốc sách hàng đầu. Việc quan tâm, đầu tư, huy động mọi ngành,
mọi nhà, mọi nguồn lực và mọi điều kiện cho phát triển giáo dục
là sách lược lâu dài của chúng ta. Thực hiện sách lược đó, tại
Điều 21, 22 Luật giáo dục năm 2005 của nước Cộng hoà Xã hội
chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ “Giáo dục Mầm non thực hiện việc
nuôi dưỡng; chăm sóc, giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6
tuổi”[Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
(2010), Luật Giáo dục 2005, sửa ñổi năm 2009, NXB Giáo dục,

Hà Nội]. Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ (25/6/2002) bàn về
phát triển GDMN theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 2 khoá
VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã một lần
nữa khẳng định: “ GDMN là bộ phận quan trọng cấu thành hệ
thống giáo dục quốc dân, góp phần đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện. Muốn phát triển con người toàn diện, thì việc


tổ chức thống nhất xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, thân
thiện, huy động thống nhất tiềm lực toàn xã hội, hạn chế tối đa
ảnh hưởng tiêu cực, phát huy tối đa các ảnh hưởng tích cực là một
quy luật khách quan”.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống rất coi trọng gia đình, đó
là nơi sản sinh, nuôi dưỡng và trường học đầu tiên của mọi thành
viên xã hội. Từ người bình thường đến vị nguyên thủ quốc gia
đều nhờ gia đình mà nhen nhóm lên lòng nhân ái, tính cần kiệm,
hiếu học, lòng dũng cảm, đức hy sinh…, là những phẩm chất cơ
bản của mọi nhân cách. Vì vậy, nuôi dạy con cái là công việc
thường xuyên, quan trọng nhất của mỗi gia đình. Ngày nay, xã
hội đang có nhiều biến đổi: loài người đang bước vào một nền
văn minh mới – nền văn minh tin học, các nước trên thế giới
đang hội nhập vào nhau. Bên cạnh những thành tựu vĩ đại, nhân
loại đang đứng trước những thách thức rất nghiêm trọng, mà đó
là những hậu quả do bản thân con người, do con em của các gia
đình tạo ra. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vai trò gia
đình đối với sự phát triển của xã hội.
Vì vậy vấn đề phối hợp 3 lực lượng “Nhà trường, gia đình và
xã hội nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc trẻ mầm non ” đã trở thành
một đề tài nghiên cứu khoa học của các nhà giáo dục. Trong những
năm đầu giai đoạn 1999 – 2000, Bộ văn hóa đã triển khai đề tài cấp



nhà nước trong đó mối quan hệ chặt chẽ, ảnh hưởng qua lại giữa các
thành viên trong gia đình nói chung và giữa cha mẹ với con trẻ trên
nền văn hóa gia đình là một trong những nội dung cơ bản cần tập
trung và làm sáng tỏ.
Về những nghiên cứu ở trong nước, trong hầu hết các sách
báo chuyênngành, các đề tài, bài viết trong các hội thảo khoa học
của các nhà nghiên cứu, chuyên gia về MN đều nêu bật được tầm
quan trọng và sự cần thiết của giáo dục trẻ MN ở nhà trường và
gia đình trong cuốn GDMN - Những vấn đề lý luận trong thực tiễn
của Nguyễn Ánh Tuyết nhận thấy: “ Ở nhiều nước trên
thế giới, người ta đã đặt giáo dục mầm non xã hội và giáo dục
mầm non gia đình lên ngang hàng trong việc nghiên cứu khoa học
nuôi dạy trẻ nhỏ và có khi các công trình nghiên cứu giáo dục
mầm non có phần phong phú hơn. Thiết nghĩ, ở nước ta điều đó lại
càng nên làm, như vậy để có thể tạo ra một chuyển biến mạnh mẽ
về chất lượng cho giáo dục mầm non…” [ dẫn theo Phạm Minh
Hạc, 2010)[23].
Một trong nhiệm vụ của giáo viên mầm non là xây dựng
mối quan hệ phối hợp giữa giáo viên với cha mẹ trẻ.Xây dựng
mối quan hệ tốt trong sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia
đình là một nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non. Giáo viên
là người đại diện nhà trường có trách nhiệm trực tiếp thực hiện


nhiệm vụ này nhằm tạo ra môi trường giáo dục thuận lợi
cho sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. Đồng thời giúp
nhà trường phát huy được thế mạnh của gia đình trong công tác
chăm sóc và giáo dục trẻ em tạo nên sự thống nhất giáo dục trẻ

giữa hai lực lượng giáo dục.
Những nhà giáo dục đã đi sâu vào đề tài này phải kể đến:
GS -TS Hà Thế Ngữ, GS -TS Đức Minh, GS-TS Đặng Vũ Hoạt
đã đề cập đến vai trò, vị trí, ý nghĩa cực kỳ quan trọng của sự
phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để nâng cao hiệu
quả giáo dục học sinh. Trong các giáo trình Giáo dục học của
Phạm Cốc - Đức Minh vào những năm 70, sau đó là của Hà Thế
Ngữ, Đặng Vũ Hoạt - Nxb giáo dục (1989) vấn đề này cũng
được đưa vào một số giáo trình khác như giáo dục gia đình của
PGS - TS Phạm Khắc Chương - Nxb giáo dục - (1997).
Hoạt động phối hợp giữa nhà trường - gia đình - xã hội là
vấn đề bức xúc trong công tác giáo dục mà nhiều tác giả đã quan
tâm nghiên cứu như: Tác giả Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1998)
với đề tài "Kết hợp việc giáo dục của nhà trường, gia đình và của
xã hội" Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Hà Nội; Đề tài “Nâng cao tính
thống nhất giữa giáo dục nhà trường, gia đình và xã hội trong
điều kiện mới”, tập thể tác giả ở Trung Tâm Giáo dục học, thuộc
Viện Khoa Học Giáo dục, 1993; Đề tài “Phối hợp việc giáo dục


gia đình với nhà trường và các thể chế xã hội khác”, tác giả Phạm
Khắc Chương (chủ biên), Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998; Tác giả
Nguyễn Thị Hoa với đề tài "Quản lý hoạt động phối hợp nhà
trường, gia đình và xã hội trong việc giáo dục trẻ ở các trường
Mầm non thành phố Thái Bình" Luận văn Thạc sĩ 2010; Tác giả
Phạm Thị Minh Tâm với đề tài“Một số biện pháp tổ chức phối
hợp các lực lượng giáo dục trong công tác giáo dục cho học sinh
trường THPT” Luận văn Thạc sĩ 2012;…Các tác giả đã chỉ ra
những lý luận về tính cần thiết phải kết hợp việc giáo dục của nhà
trường với gia đình và của xã hội, đã chỉ ra vai trò quan trọng của

gia đình trong việc giáo dục con em, việc giáo dục học sinh và
cần phải nâng cao tính thống nhất trong sự phối hợp giữa nhà
trường gia đình và xã hội.
Qua tổng quan nghiên cứu đề tài có thể rút ra một số nhận
xét sau:
- Chăm sóc, giáo dục trẻ MN là vấn đề luôn được sự quan
tâm của các nhà nước, các nhà khoa học và cán bộ giáo dục.
- Những nghiên cứu hiện có chủ yếu tập trung vào việc
nghiên cứu về hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ MN ở các góc độ
lí luận, thực trạng và biện pháp. Tuy nhiên, những nghiên cứu về
vấn đề đưa trẻ MN đến trường đúng độ tuổi và phối hợp các lực
lượng cộng đồng trong việc đưa trẻ MN đến trường đúng độ tuổi


còn chưa thực sự được quan tâm đúng mức với ý nghĩa và tầm
quan trọng của nó.
- Theo vốn hiểu biết của nhà nghiên cứu, cho đến nay chưa
có công trình nào đi sâu nghiên cứu về phối hợp các lực lượng
cộng đồng trong việc đưa trẻ MN đến trường đúng độ tuổi trên địa
bàn huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng. Chính vì vậy, có thể
nói, việc nghiên cứu đề tài này là bước tiếp tục làm phong phú
thêm lí luận, đồng thời nghiên cứu, đánh giá sâu sắc thêm thực
tiễn, đồng thời góp phần đề ra được một số biện pháp có hiệu quả,
thiết thực, đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của công tác phối hợp
các lực lượng cộng đồng trong việc đưa trẻ MN đến trường đúng
độ tuổi nói riêng và nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ
MN trên địa bàn huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng nói
chung.
- Trường mầm non trong hệ thống giáo dục quốc dân
- Khái niệm trường mầm non

Theo tác giả Bùi Hiền và các cộng sự: “Trường Mầm non là
cơ sở giáo dục có nhiệm vụ thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ từ 3 tháng tuổi đến 6 tuổi để giúp trẻ phát triển thể
chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm, mĩ, hình thành những yếu tố đầu tiên
của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ vào học lớp 1 bậc tiểu học” [


[Bùi Hiền (chủ biên), tr 449].
Điều lệ trường Mầm non quy định cụ thể về vị trí,
nhiệm vụ của nhà trường.[Điều 1. Điều lệ trường mầm non]
- Vị trí vai trò của trường mầm non
Điều lệ trường mầm non quy định: Trường mầm non là cơ
sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân, có tư cách pháp
nhân, có tài khoản và con dấu riêng. Trường mầm non có nhiệm
vụ: (1) Tổ chức thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ
em từ ba tháng tuổi đến sáu tuổi theo chương trình giáo dục mầm
non do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành; (2) Huy
động trẻ em lứa tuổi mầm non đến trường; Tổ chức giáo dục hoà
nhập cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, trẻ em khuyết tật; (3)
Quản lý cán bộ, giáo viên, nhân viên để thực hiện nhiệm vụ nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em; (4) Huy động, quản lý, sử
dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật; (5) Xây dựng cơ
sở vật chất theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện đại hoá hoặc theo yêu
cầu tối thiểu đối với vùng đặc biệt khó khăn; (6) Phối hợp với gia
đình trẻ em, tổ chức và cá nhân để thực hiện hoạt động nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ em; (7) Tổ chức cho cán bộ quản
lý, giáo viên, nhân viên và trẻ em tham gia các hoạt động xã hội
trong cộng đồng; (8) Thực hiện kiểm định chất lượng nuôi dưỡng,
chăm sóc và giáo dục trẻ em theo quy định.



- Các loại hình trường mầm non
Các loại hình của trường mầm non, trường mẫu giáo, nhà
trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập được quy định tại Điều 3
Quyết định 14/2008/QĐ-BGDĐT Điều lệ Trường Mầm non và
Thông tư 44/2010/TT-BGDĐT, cụ thể như sau:
Trường mầm non, trường mẫu giáo (sau đây gọi chung là
nhà trường), nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập được tổ chức
theo các loại hình: công lập, dân lập và tư thục.
Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo công lập do cơ
quan Nhà nước thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, bảo
đảm kinh phí cho các nhiệm vụ chi thường xuyên.
Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo dân lập do cộng
đồng dân cư ở cơ sở thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất,
đảm bảo kinh phí hoạt động và được chính quyền địa phương hỗ
trợ.
Nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu giáo tư thục do tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế hoặc cá
nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và bảo đảm kinh phí
hoạt động bằng nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.


UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh (sau
đây gọi chung là cấp huyện) quản lý nhà trường, nhà trẻ công lập
trên địa bàn. UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là
cấp xã) quản lý nhà trường, nhà trẻ dân lập; nhà trường, nhà trẻ tư
thục và các nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập trên địa bàn. Phòng
giáo dục và đào tạo thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo
dục đối với mọi loại hình nhà trường, nhà trẻ, nhóm trẻ, lớp mẫu
giáo độc lập trên địa bàn.

- Mục tiêu, phương pháp và yêu cầu đối với trường mầm
non
- Mục tiêu, yêu cầu của trường mầm non
Giáo dục mầm non là bộ phận trong hệ thống giáo dục quốc
dân. Giáo dục mầm non thực hiện việc nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trẻ em từ ba tháng tuổi đến sáu tháng tuổi [36].
Mục tiêu của giáo dục mầm non là giúp trẻ em phát triển về
thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hính thánh những yếu tố đầu
tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào lớp một [36].
* Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi nhà trẻ
a. Phát triển thể chất


- Trẻ khỏe mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và
chiều cao nằm trong kênh A.
- Thực hiện được các vận động cơ bản.
- Thích nghi với môi trường sinh hoạt ở trường mầm non.
- Có một số thói quen tự phục vụ trong ăn uống, vệ sinh cá
nhân.
b. Phát triển nhận thức
- Thích tìm hiểu thế giới xung quanh.
- Có sự nhạy cảm của ác giác quan: vị giác, khứu giác, xúc
giác, thính giác, thị giác.
- Nhận biết được về bản thân, một số sự vật hiện tượng quen
thuộc gần gũi.
- Có khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy
trực quan – hành động và tư duy trực quan hình ảnh.
c. Phát triển ngôn ngữ
- Nghe, hiểu được các yêu cầu đơn giản bằng lời nói của
người khác

- Diễn đạt được các nhu cầu đơn giản bằng lời nói.


- Có khả năng hỏi và trả lời một số câu hỏi đơn giản.
d. Phát triển tình cảm xã hội
- Mạnh dạn giao tiếp với những người gần gũi
- Biết được một số việc được phép làm và không được phép
làm.
- Biết thể hiện cảm xúc trước cái đẹp. Thích múa, hát, đọc
thơ, nghe kể chuyện, vẽ, nặn, lắp ghép, xếp hình…
- Thích tự làm một số công việc đơn giản.
* Mục tiêu giáo dục mầm non ở cuối tuổi mẫu giáo
a. Phát triển thể chất
- Trẻ khỏe mạnh, cơ thể phát triển cân đối. Cân nặng và
chiều cao nằm trong kênh A.
- Thực hiện được các vận động cơ bản một cách vững vàng,
đúng tư thế.
- Có khả năng phối hợp các giác quan và vận động; vận
động nhịp nhàng, biết định hướng trong không gian.
- Thực hiện được một số vận động của đôi tay một cách
khéo léo.


- Có một số thói quen, kỷ năng tốt về giữ gìn sức khỏe, vệ
sinhcá nhân, vệ sinh môi trường và biết cách đảm bảo sự an toàn.
b. Phát triển nhận thức
- Ham hiểu biết, thích khám phá, tìm tòi những sự vật hiện tượng
xung quanh.
- Có khả năng quan sát, so sánh, phân loại, phán đoán, chú ý vá
ghi nhớ có chủ định. Nhận ra một số mối liên hệ đơn giản của các sự

vật, hiện tượng xung quanh.
- Có một số hiểu biết ban đầu về bản thân, môi trường tự
nhiên và xã hôi.
c. Phát triển ngôn ngữ
- Nghe và hiểu được lời nói trong giao tiếp.
- Có khả năng diễn đạt bằng lời nói rõ ràng để thể hiện ý
muốn, cảm xúc, tình cảm của mình và của người khác.
- Có một số biểu tượng về việc đọc và việc viết để vào học
lớp 1.
d. Phát triển tình cảm – xã hội
- Mạnh dạn, hồn nhiên, tự tin, lễ phép trong giao tiếp


- Nhận ra một số trạng thái cảm xúc và thể hiện tình cảm
phù hợp với các đối tượng và hoàn cảnh cụ thể.
- Thực hiện một số quy định đơn giản trong sinh hoạt. Có ý
thức tự phục vụ, kiên trì thực hiện công việc được giao.
- Yêu quý gia đình, trường lớp mầm non vá nơi sinh sống.
- Quan tâm, chia sẻ, hợp tác với những người gần gũi.
- Quan tâm chăm sóc vật nuôi, cây trồng và bảo vệ môi
trường.
e. Phát triển thẩm mĩ
- Cảm nhận được vẻ đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và
trong tác phẩm nghệ thuật.
- Có nhu cầu, hứng thú khi tham gia vào các hoạt động hát,
múa, vận động theo nhạc, đọc thơ, kể chuyện, đóng kịch…vá biết
thể hiện cảm xúc sáng tạo thông qua các hoạt động đó.
- Phương pháp
Cấp học mầm non theo quan niệm của nhiều cha mẹ chỉ đơn
thuần là trông giữ trẻ. Tuy nhiên, hơn thế nữa trẻ còn được tiếp

nhận những phương pháp giáo dục mầm non phù hợp với độ tuổi
của trẻ.


Theo quy định của giáo dục, trường mầm non tiếp nhận và
dạy trẻ từ 3-5 tuổi và được chia thành hai giai đoạn: Nhà trẻ và
mẫu giáo. Với mỗi giai đoạn khác nhau lại có các phương pháp
giáo dục mầm non khác nhau. Tùy mỗi trường, chương trình giảng
dạy có thể thay đổi, tập trung vào 1 vài phương pháp nào đó,
nhưng tựu chung đều theo những phương pháp đơn giản, dễ hiểu.
* Phương pháp giáo dục mầm non giai đoạn nhà trẻ
Đây được xem là giai đoạn quan trọng nhất trong cuộc đời
mỗi con người vì đó là cơ sở, tiền đề để hình thành nhân cách,
phẩm chất của một cá thể. Tuy trẻ còn quá nhỏ nhưng khả năng
ghi nhớ, tiếp thu kiến thức lại khá nhạy và nhớ lâu nên các cô dạy
trẻ thường tập trung vào thế mạnh này của con trẻ.
- Phương pháp tình cảm
Cô giáo luôn thể hiện những hành động, cử chỉ, âu yếm,
thân thiện chứa đựng sự yêu thương với con trẻ. Điều này sẽ tạo
cho trẻ cảm giác tin tưởng, gần gũi, thân thiện như đang ở cùng
bố mẹ, anh chị em trong gia đình. Qua đó, trẻ sẽ phát sinh tình
cảm khi tiếp xúc với cô, người bảo mẫu và những người xung
quanh.
- Sử dụng lời nói truyền cảm


Khi nói chuyện hay kể chuyện cho trẻ, cô thường sử dụng
những câu nói diễn cảm hay những câu hỏi gợi mở kết hợp cùng
với cử chỉ, điệu bộ nhằm khuyến khích, động viên trẻ mạnh dạn
khi giao tiếp với những người xung quanh hay đồ vật.

Chính cách giảng dạy này sẽ tạo điều kiện để trẻ bộc lộ ý
muốn, chia sẻ cảm xúc với mọi người, đồ vật bằng những lời nói,
hành dộng cụ thể. Điều đó giúp cho sự phát triển khả năng ngôn
ngữ của trẻ ngày càng mạch lạc, trôi chảy hơn và óc sáng tạo, tư
duy tưởng tượng của bé cũng có cơ hội được vun lớn (khi nói
chuyện cùng đồ vật chẳng hạn món đồ chơi mà bé thích).
- Phương pháp trực quan, minh họa
Sử dụng các phương tiện trực quan như đồ chơi, tranh ảnh,
sự vật thật,… làm mẫu kèm với lời nói và cử chỉ để cho trẻ quan
sát, nói, làm theo với mục đích rèn luyện sự nhanh nhạy ở các
giác quan của bé.
- Phương pháp thực hành
Sử dụng hành động, các thao tác với đồ vật, đồ chơi và các
dụng cụ đơn giản phù hợp với mục đích cũng như nội dung muốn
giáo dục. Trẻ sẽ học được ở cô cách quan sát, thao tác và phân
loại đồ vật để giúp trẻ nhận biết nhanh hơn, tốt hơn với các sự vật,
sự việc xảy ra quanh mình.


- Chơi mà học
Cô giáo hướng dẫn trẻ tham gia các trò chơi thích hợp với
lứa tuổi của trẻ để kích thích trẻ hoạt động và mở rộng hiểu biết
về môi trường xung quanh, điều này tốt cho sự phát triển tư duy
sáng tạo, ngôn ngữ ở trẻ.
- Luyện tập
Bằng cách cho trẻ thực hiện lặp lại nhiều lần các câu nói,
những động tác, cử chỉ, điệu bộ phù hợp với nội dung giáo dục,
qua đó kích thích sự hứng thú của trẻ trong học tập.
- Phương pháp đánh giá noi gương
Cô sẽ tỏ thái độ đồng tình, khích lệ khi trẻ có những việc

làm, lời nói và hành vi tốt. Cô thường phân tích vì sao bạn A được
khen ngợi để qua đó trẻ nhận biết được đâu là hành động đúng và
sẽ cố gắng noi gương bạn A.
Với những việc làm sai, cô giáo sẽ hướng dẫn, chỉ ra những
điều chưa tốt cho trẻ hiểu, tiếp thu và sửa chữa. Trong trường hợp,
trẻ không chịu hợp tác, cô giáo sẽ không la mắng, nóng giận, nói
lời không đẹp mà sẽ từ từ uốn nắn con theo từng ngày để con có
thể khắc phục và tiến tới từ bỏ khuyết điểm của mình.
* Phương pháp giáo dục mầm non giai đoạn mẫu giáo


Ở lứa tuổi này, những phương pháp giáo dục cũng có thể áp
dụng tương tự như giáo dục nhà trẻ nhưng cần nâng cao hơn để
làm bước đệm khi cho trẻ bước vào lớp 1 một cách tự tin.
- Phương pháp dùng tình cảm
Những cử chỉ, lời nói khuyến khích, động viên luôn được cô
sử dụng để thể hiện sự ủng hộ của mình với những hoạt động của
trẻ. Điều này sẽ giúp trẻ thêm tự tin vào khả năng của mình và cố
gắng phát huy hơn nữa để “gây sự chú” của cha mẹ, thầy cô và
mọi người xung quanh.
- Phương pháp thực hành
Công cụ chính hỗ trợ quan trọng nhất của phương pháp này
chính là đồ chơi, các trò chơi vận động phù hợp để qua đó lồng
ghép những bài học mang tính giáo dục. Mục đích của phương
pháp này là nhằm kích thích trẻ tự nguyện, hứng thú tìm tòi học
hỏi. Việc thao tác với đồ vật, đồ chơi hàng ngày còn giúp trẻ biết
cách phối hợp các giác quan, hành động với đồ vật nhằm rèn
luyện óc tư duy, sự phối hợp nhuần nhuyễn giữ đôi tay và trí óc
cho trẻ.
- Đưa ra tình huống cụ thể



Cô giáo sẽ đưa ra các tình huống thực tế hoặc những tình
huống giả tưởng nhằm kích thích trẻ suy nghĩ, tìm tòi và nghĩ ra
cách giải quyết vấn đề theo cách nghĩ phù hợp với lứa tuổi của
con.
- Phương pháp luyện tập
Là cách cho trẻ thực hiện lặp lại nhiều lần các động tác, cử
chỉ, điệu bộ thông qua những yêu cầu cụ thể mà giáo viên đặt ra
để nâng cao vốn hiểu biết và kỹ năng thực hành qua những việc
trẻ tham gia.
- Trực quan minh họa
Sử dụng các phương tiện, hành động, hình ảnh,… để tạo
điều kiện cho trẻ sử dụng các giác quan kết hợp với lời nói nhằm
nâng cao vốn hiểu biết và khả năng tư duy của trẻ.
- Phương pháp tiếp nhận thông tin
Việc sử dụng các phương tiện nghe-nhìn có tính truyền đạt
thông tin nhằm kích thích trẻ suy nghĩ, chia sẻ ý tưởng và bộc lộ
cảm xúc bằng lời nói cũng được xem là một phương pháp phổ
biến, đang được nhiều trường mầm non áp dụng.
- Hoạt động chăm sóc - giáo dục trẻ trong trường mầm
non


Hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em tại các
trường mầm non được quy định tại Điều 24 Điều lệ Trường mầm
non ban hành kèm theo Văn bản hợp nhất 05/VBHN-BGDĐT
năm 2014 như sau:
- Việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ được tiến hành
thông qua các hoạt động theo quy định của chương trình giáo dục

mầm non.
- Hoạt động nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ bao gồm: chăm sóc
dinh dưỡng; chăm sóc giấc ngủ; chăm sóc vệ sinh; chăm sóc sức
khỏe và đảm bảo an toàn.
- Hoạt động giáo dục trẻ bao gồm: hoạt động chơi; hoạt
động học; hoạt động lao động; hoạt động ngày hội, ngày lễ.
- Hoạt động giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong nhà trường,
nhà trẻ tuân theo Quy định về giáo dục trẻ em tàn tật, khuyết tật do
Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Việc nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ còn thông qua
hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức khoa học về nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em cho các cha mẹ trẻ và cộng
đồng.
- Hoạt động đưa trẻ mầm non đến trường đúng độ tuổi


- Trẻ mầm non
Trẻ MN là trẻ em ở độ tuổi sơ sinh cho đến tuổi mẫu giáo
được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong các trường MN.
Trẻ em được tổ chức theo nhóm trẻ hoặc lớp mẫu giáo.
* Đối với nhóm trẻ:
Trẻ em từ 3 tháng tuổi đến 36 tháng tuổi được tổ chức thành
các nhóm trẻ. Số trẻ tối đa trong một nhóm trẻ được quy định như
sau:
- Nhóm trẻ từ 3 đến 12 tháng tuổi: 15 trẻ;
- Nhóm trẻ từ 13 đến 24 tháng tuổi: 20 trẻ;
- Nhóm trẻ từ 25 đến 36 tháng tuổi: 25 trẻ.
* Đối với lớp mẫu giáo
Trẻ em từ ba tuổi đến sáu tuổi được tổ chức thành các lớp
mẫu giáo. Số trẻ tối đa trong một lớp mẫu giáo được quy định như

sau:
- Lớp mẫu giáo 3 - 4 tuổi: 25 trẻ;
- Lớp mẫu giáo 4 - 5 tuổi: 30 trẻ;
- Lớp mẫu giáo 5 - 6 tuổi: 35 trẻ.


Trẻ từ 3 - 4 tuổi được xếp vào độ tuổi trẻ mẫu giáo. Ở độ
tuổi này, trẻ rất tò mò, ham hiểu biết, thích khám phá tất cả các sự
vật hiện tượng xung quanh trẻ. Trẻ luôn bắt chước và thực hiện
theo những gì trẻ nhìn thấy và luôn muốn khẳng định mình với
người lớn.
Ở lứa tuổi 3- 4 tuổi là giai đoạn đầu tiên của độ tuổi mẫu
giáo. Ở giai đoạn này, trẻ bắt đầu thích chơi với các bạn, không
thích chơi một mình giống như trẻ nhà trẻ nữa. Trẻ biết đóng vai
và thao tác theo vai chơi của mình, thực hiện các hoạt động của
người lớn ( mẹ, bố, bác sĩ, y tá, cảnh sát, cô giáo, ông, bà,…) Trẻ
biết hợp tác và chia sẻ cùng với bạn trong mọi hoạt động, biết chờ
đến lượt. Trẻ có nhu cầu giao tiếp, học hỏi. Trẻ có thể trao đổi các
nhu cầu, ý kiến và câu hỏi của mình. Nếu như người lớn không để
ý kịp thời sẽ dẫn đến những hành vi sai lệch ở trẻ
Do yếu tố tâm lý lứa tuổi, không chỉ giáo viên mầm non
phải vững tay nghề, tâm lý, gần gũi các con mà giáo viên càng
cần có kiến thức chuyên môn vững vàng, như người mẹ hiền.
Giáo viên phải luôn theo sát diễn biến tâm lý lứa tuổi, quan tâm
tới trẻ ở mọi lúc mọi nơi để đưa ra những cách thức quản lý,
điều chỉnh hành vi, thái độ của trẻ cho phù hợp.
Việc đưa trẻ đến trường đúng độ tuổi giúp trẻ thích nghi với



×