Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức cho trẻ em trên địa bàn quận cầu giấy, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.8 KB, 89 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
--------

ĐỖ MẠNH CƯỜNG

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT KẾT HỢP VỚI GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS. TS. Hoàng Thị Kim Quê

HÀ NỘI - 2014

1


2

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Luật – Đại học
Quốc Gia Hà Nội đã tận tình dạy dỗ em trong thời gian vừa qua.
Em xin chân thành cảm ơn GS. TS. Hoàng Thị Kim Quế đã hướng dẫn tận
tình để em hoàn thành luận văn đề tài "Giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục
đạo đức cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội".


Em xin chân thành cảm ơn Công an quận Cầu Giấy thành phố Hà Nội,
Phòng giáo dục và đào tạo, Phòng Lao động thương binh xã hội, Phòng Tư pháp
quận Cầu Giấy, Trường THCS Nghĩa Tân, bạn bè, đồng nghiệp đã cung cấp số
liệu, giúp đỡ để em có thể phản ánh chính xác thực trạng đạo đức của các em,
tình hình giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức trên địa bàn quận Cầu Giấy,
thành phố Hà Nội.

2


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài: “Giáo dục pháp luật kết hợp với giáo dục đạo
đức cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giây, thành phố Hà Nội” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn
đã được trích dẫn đầy đủ tại phần tài liệu tham khảo. Trích dẫn trong luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Đỗ Mạnh Cường

3


4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GDĐĐ: Giáo dục đạo đức
GDPL: Giáo dục pháp luật
THCS: Trung học cơ sơ
TH: Tiểu học
THPT: Trung học phổ thông

XHCN: Xã hội chủ nghĩa
TNCS: Thanh niên Cộng sản

4


5

DANH MỤC BẢNG
STT

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Số vụ trẻ em vi phạm pháp luật Hình sự
1

Bảng 2.1

chưa đến mức độ khơi tố bị xử phạt


39

hành chính (từ năm 2009 đến 2013)
Số liệu cụ thể các đối tượng bị bắt giư
2

Bảng 2.2

có quyết định tập trung cai nghiện (từ

39

năm 2011 đến 2013)
Số liệu cai nghiện bắt buộc trên địa bàn
3

Bảng 2.3

quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (từ
năm 2011 đến 2013)

5

40


6

MỤC LỤC
Trang

Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC
PHÁP LUẬT KẾT HỢP VỚI GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO TRẺ EM
Quan niệm về GDPL cho trẻ em

6

1.1.1
.
1.1.2
.
1.1.3
.
1.1.4
.
1.2.

Quan niệm GDPL

6

Quan niệm về GDPL cho trẻ em


8

Mục đích của GDPL cho trẻ em

9

Nội dung, hình thức và phương pháp GDPL cho trẻ em

12

Quan niệm về giáo dục đạo đức cho trẻ em

14

1.2.1
.
1.2.2
.

Quan niệm về giáo dục đạo đức

14

Quan niệm về giáo dục đạo đức cho trẻ em

16

1.1.


17

1.2.3
.

Mục đích của giáo dục đạo đức cho trẻ em

1.2.4
.
1.3.

Sự cần thiết kết hợp GDPL và giáo dục đạo đức cho trẻ em

17

Các yếu tố tác động đến việc GDPL, giáo dục đạo đức cho trẻ em

20

1.3.1
.
1.3.2
.
1.3.3
.

Các yếu tố về truyền thống, văn hóa, phong tục tập quán

20


Yếu tố về pháp luật, đạo đức đối với trẻ em

21

Yếu tố nhận thức của bản thân của trẻ em

21

6


7

1.3.4 Yếu tố về năng lực chủ thể đi GDPL, đạo đức
23
.
1.3.5 Yếu tố về cộng đồng, nhà trường, gia đình
23
.
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT KẾT HỢP VỚI ĐẠO ĐỨC
CHO TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1.
Thực trạng hiểu biết pháp luật, đạo đức của trẻ em trên địa bàn quận
32
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay
2.1.1 Nhưng thành tựu về hiểu biết pháp luật, đạo đức của trẻ em trên địa bàn
32
.
quận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay
2.1.2

36
Nhưng bất cập, hạn chế về hiểu biết pháp luật, đạo đức của trẻ em địa
.
bàn quận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay
2.2.

Thực trạng giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức cho trẻ em địa bàn
quận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay.

2.2.1
.
2.2.2
.

Nhưng thành tựu của công tác giáo dục pháp luật, giáo dục đạo đức trên
địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay
Nhưng bất cập, hạn chế của công tác giáo dục pháp luật, giáo dục đạo
đức trên địa bàn quận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội hiện nay

41
41

48

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN GÓP PHẦN NÂNG CAO
HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT KẾT HỢP VỚI GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
CHO TRẺ EM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1.
Quan điểm cơ bản về GDPL cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giấy
53

hiện nay
3.1.1 Xây dựng kế hoạch, chương trình GDPL kết hợp với giáo dục đạo đức cho
53
trẻ em
3.1.2 Phối hợp với các bộ, ngành liên quan tăng cường công tác GDPL kết hợp
56
.
với giáo dục đạo đức, kỹ năng sống cho trẻ em
3.1.3 Xây dựng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên
60
.
về pháp luật, đạo đức cho trẻ em
62
3.2.
Các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả GDPL kết hợp với giáo dục đạo
đức cho trẻ em địa bàn quận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay
3.2.1
.
7

Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về giáo dục pháp luật cho trẻ em

62


8

64


3.2.2
.

Tăng cường công tác GDPL kết hợp giáo dục đạo đức và kỹ năng sống
cho trẻ em địa bàn quận quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

3.2.3
.
3.2.4
.
3.2.5
.
3.3

Đấu tranh kiên quyết với các hành vi vi phạm pháp luật và tệ nạn xã hội xảy
ra trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Đẩy mạnh công tác giáo dục đạo đức theo hướng xây dựng và củng cố
các chuẩn mực đạo đức cá nhân - đạo đức gia đình - đạo đức cộng đồng.
Xây dựng tam giác “nhà trường - gia đình - xã hội”

65

Giải pháp đi từ đời sống kinh tế - xã hội
KẾT LUẬN

71
73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


75

8

66
67


9

MỞ ĐẦU
1.

Tính cần thiêt của việc nghiên cứu đề tài
Trong xu thế hội nhập toàn cầu, cải cách tư pháp, bối cảnh tìm kiếm các

biện pháp khác nhau để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam
việc tuyên truyền, GDPL, GDĐĐ cho trẻ em càng trơ nên cấp bách, cần thiết
hơn bao giờ hết. Trong một xã hội luôn chuyển động với nhiều mối quan hệ
phức tạp thì ý thức chấp hành pháp luật của mỗi người cũng khác nhau. Ý thức
chấp hành pháp luật của mỗi người dựa trên lòng tự trọng, danh dự, phẩm giá,
lương tâm – biểu hiện tập trung của một nhân cách đạo đức đó là nhưng yếu tố
điều chỉnh xã hội không gì có thể thay thế được. Vì vậy, việc GDPL (GDPL) kết
hợp với GDĐĐ (GDĐĐ) có ý nghĩa rất quan trọng, cần thiết trong hoạt động
giáo dục, cũng như quản lý xã hội.
Có thể nói rằng, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã và sẽ đem lại
nhưng yếu tố mới cho việc làm sâu sắc, phong phú thêm nhưng giá trị truyền
thống đồng thời cũng gây ra nhưng xáo trộn, tác động thay đổi lối sống, quan
niệm về các chuẩn mực đạo đức xã hội đặc biệt là tại các thành phố lớn như thủ
đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh… Vấn đề ơ chỗ là làm thế nào để thực hiện

công nghiệp hóa - hiện đại hóa mà vẫn giư được nét đẹp riêng, nhưng giá trị đạo
đức truyền thống đậm đà bản sắc của dân tộc, lối sống tuân thủ pháp luật của
người Việt Nam nói chung, người Hà thành nói riêng. Theo kết quả khảo sát của
Viện Nghiên cứu và phát triển giáo dục Việt Nam, tỉ lệ học sinh đi học muộn:
Tiểu học 20%, THCS 21%, THPT 58%; tỉ lệ quay cóp: Tiểu học 8%, THCS
55%, THPT 60%; tỉ lệ nói dối cha, mẹ: Tiểu học 22%, THCS 50%, THPT 64%;
tỉ lệ không chấp hành an toàn giao thông: Tiểu học 4%, THCS 35%, THPT
70%, ... Nhưng con số này cho thấy, càng lớn ý thức đạo đức của trẻ em khi
đang ngồi trên ghế nhà trường càng đi xuống. Không thể phủ nhận thực tế trong
nhưng năm gần đây, thủ đô Hà Nội nói chung và địa bàn quận Cầu Giấy nói riêng
đang xuất hiện ngày càng nhiều nhưng vấn đề đáng lo ngại ơ trẻ em. Liên tục có
9


10

nhưng clip quay cảnh các em đánh nhau, cãi giáo viên, không ít trẻ em liên tiếp
có hành vi trộm cắp đồ ơ siêu thị, nhà hàng, chợ Nhà xanh, chợ đêm sinh viên,
điểm xe bus Trung chuyển Cầu Giấy… Đây có phải nhưng báo động về tâm lý
của các em phản ánh thực trạng đạo đức xã hội đang xuống cấp? Một trong các
nguyên nhân chính là trẻ em là nhưng người còn non nớt về nhận thức, là lứa tuổi
đang hình thành và phát triển nhân cách nên thường dễ dàng bị ảnh hương, dễ bị
lôi kéo, dụ dỗ đi lang thang và làm nhưng việc trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu
được giáo dục đúng hướng trẻ em sẽ hình thành và phát triển nhiều phẩm chất
tích cực. Nhưng hiểu biết về pháp luật, đạo đức được lĩnh hội sẽ là hành trang cho
các em khi bước vào tương lai. GDPL kết hợp với GDĐĐ cho trẻ em có vai trò
hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Đó là lí do đề tài :"Giáo dục pháp luật kết hợp với GDĐĐ cho trẻ em trên địa
bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội" được chọn để nghiên cứu. Đề tài đưa ra

một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả việc GDPL kết hợp với GDĐĐ cho
trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đồng thời tháo gỡ khó khăn,
vướng mắc trong quá trình kết hợp GDPL, GDĐĐ cho trẻ em địa bàn quận Cầu
Giấy tạo sự phù hợp, phần nào đáp ứng nhưng đòi hỏi của một xã hội luôn
chuyển động không ngừng phức tạp và đầy cám dỗ.
2.

Tình hình nghiên cứu của đề tài
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, tốc độ đô thị hóa nhanh, cơ chế

mơ cửa hội nhập và do nhiều nguyên nhân khác đã ảnh hương trực tiếp đến đạo
đức, lối sống của trẻ em. Mặt trái của sự tác động này là một bộ phận không nhỏ
trẻ em có đạo đức xuống cấp, vi phạm pháp luật ngày càng tăng đặc biệt là ơ thủ
đô Hà Nội. Đây quả là vấn đề bức xúc, lo lắng đang đặt ra cho toàn xã hội hiện
nay. GDPL kết hợp GDĐĐ nói chung và cho các đối tượng giáo dục cụ thể luôn
mang tính thời sự đón nhận được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Đã
có nhiều công trình nghiên cứu về GDPL và GDĐĐ dưới nhiều góc độ khác
nhau. Nhóm đề tài nghiên cứu về sự khác biệt và tương đồng giưa đạo đức và
10


11

pháp luật cũng như sự tác động qua lại giưa chúng khi điều chỉnh các quan hệ xã
hội. Ở góc độ này có một số công trình nghiên cứu sau: Hoàng Thị Kim Quế (chủ
nhiệm- 2002), Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong quản lý xã hội ở
nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp Bộ. Nguyễn Thúy Hoa (2005), Kết hợp
pháp luật và đạo đức trong quản lý nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc
sĩ luật, Học viện chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh; TS. Nguyễn Quốc
Sửu, GDPL cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính trong điều kiện xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc Gia – Sự
thật, Hà Nội, 2011; Một số vấn đề GDPL ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số,
Nxb Chính trị Quôc Gia, Hà Nội, 1996; Một số vấn đề về GDPL trong giai đoạn
hiện nay, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1997; Phạm Kim Dung, GDPL cho cán bộ
công chức cơ quan hành chính ở thành phố Hà Nội hiện nay; Dương Thị Thu
Hiền, Phổ biến GDPL trên địa bàn huyện Bố Trạch, Tỉnh Quảng Bình – Thực
trạng và giải pháp;… Cùng một số bài viết trên tạp chí như: Đào Trí Úc, Làm thế
nào để xây dựng ý thức pháp luật và lối sống theo pháp luật, tạp chí nhà nước và
pháp luật số 4/1993; GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Bản chất đích thực của mối
quan hệ giữa pháp luật và đạo đức, tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1, năm
2010; GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế, Bàn về hiệu quả phổ biến, GDPL ở nước ta
hiện nay, tạp chí Khoa học pháp lý, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, Số 4/2011; GS.TS. Hoàng Thị Kim Quế. Một số suy nghĩ về mối quan hệ
giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 7 năm 1999; ThS. Lê Thị Phương Nga, GDPL, GDĐĐ và kỹ năng
sống cho trẻ em ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp… Tuy nhiên,
trong một xã hội luôn chuyển động không ngừng sự phức tạp, khó khăn như hiện
nay thì việc đẩy mạnh GDPL, đạo đức, giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống, lý
tương sống cho trẻ em, giáo dục lòng yêu nước cho học sinh là yêu cầu, đòi hỏi
cấp thiết, mang tính tất yếu khách quan và hoàn toàn phù hợp với mục tiêu giáo
dục toàn diện của chúng ta là:

11


12

"Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức,
sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tương độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực

của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Để thực hiện đào tạo phát triển toàn diện của con người Việt Nam, GDPL
là một nội dung không thể thiếu trong chương trình giáo dục ơ các cấp học và
trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. Nó góp phần xây dựng thành
công con người mới xã hội chủ nghĩa để phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Trên cơ sơ đó đề tài GDPL kết hợp với GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả

3.1.

GDPL, GDĐĐ cho trẻ em hiện nay.
3.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn
Làm sáng tỏ khái niệm GDPL, GDĐĐ cho trẻ em, thực trạng GDPL,
GDĐĐ trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Qua việc nghiên cứu thực trạng công tác quả GDPL, GDĐĐ cho trẻ em
trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội đề tài đưa ra một số giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả GDPL kết hợp với GDĐĐ trên địa bàn quận Cầu Giấy,

3.2.

thành phố Hà Nội giúp giảm thiểu số lượng trẻ em vi phạm đạo đức và pháp luật.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Hệ thống hóa lý luận chung về GDPL;
Đánh giá trực trạng của công tác GDPL, GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn
quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội;
Đề ra các giải pháp góp phần thực hiện tốt hiệu quả GDPL, GDĐĐ cho trẻ em.

4.


Giới hạn nghiên cứu của luận văn.
GDPL kết hợp với GDĐĐ cho trẻ em là vấn đề có phạm vi rộng, phong
phú. Với thời lượng hạn chế, trong khuôn khổ của luận văn tác giả chỉ chủ
yếu tập trung nghiên cứu tại địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Trên cơ sơ phân tích thực trạng GDPL, GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn quận
Cầu Giấy tác giả đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả kết

12


13

hợp GDPL, GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giấy, Hà Nội giúp
5.

giảm thiểu số lượng trẻ em xuống cấp về đạo đức và vi phạm pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tương
Hồ Chí Minh, quan điểm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sử dụng các phương
pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp
chứng minh để làm rõ tầm quan trọng khi GDPL kết hợp với GDĐĐ cho trẻ em
đồng thời nêu bật nhưng vướng mắc, tồn tại trong quá trình giáo dục cho trẻ em

6.

trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Ý nghĩa của luận văn
Nhưng kiến thức khoa học trong luận văn có ý nghĩa thiết thực, bổ ích, là

tài liệu tham khảo phục vụ cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học
tại các cơ sơ đào tạo luật ơ Việt Nam. Luận văn nêu ra nhưng vướng mắc, khó
khăn trong việc kết hợp GDPL, GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giấy
từ đó đưa ra các phương hướng, giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật nâng
cao hiệu quả việc kết hợp GDPL, GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu
Giấy, thành phố Hà Nội. Luận văn nêu một vài ý kiến là ý kiến tham khảo

7.

cho các nhà xây dựng các văn bản pháp luật.
Kêt cấu của luận văn:
Ngoài mơ đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Nhưng vấn đề lý luận cơ bản về giáo dục pháp luật kết hợp với
GDĐĐ cho trẻ em
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật kết hợp với đạo đức cho trẻ em
trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp cơ bản góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục pháp luật kết hợp với GDĐĐ cho trẻ em trên địa bàn quận Cầu Giấy, thành
phố Hà Nội.

13


14

CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
KẾT HỢP VỚI GDĐĐ CHO TRẺ EM
1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật cho trẻ em

1.1.1. Quan niệm về giáo dục pháp luật
Hiện nay, GDPL vẫn chưa được hiểu thống nhất, các nhà nghiên cứu còn
có các quan điểm khác nhau.
Quan điểm thứ nhất không thừa nhận GDPL. Nhưng người theo quan điểm
này cho rằng, pháp luật là các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung và mọi chủ
thể có nghĩa vụ phải tuân thủ pháp luật, do vậy không cần đặt ra vấn đề GDPL
nưa. Nói cách khác, pháp luật không có thuộc tính tuyên truyền và vận động mà
bản thân pháp luật sẽ tự thực hiện chức năng giáo dục của mình bằng các nguyên
tắc, quy định về quyền, nghĩa vụ cũng như các chế tài đối với nhưng chủ thể tham
gia các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Vấn đề cần phải làm là công bố
và phổ biến các văn bản pháp luật một cách rộng rãi để mọi chủ thể pháp luật nắm
được và thực hiện cho đúng các nguyên tắc, quy định của pháp luật [27, tr. 116117].
Quan điểm thứ hai lại xem nhẹ vai trò của công tác GDPL. Theo quan
điểm này GDPL là một bộ phận của giáo dục chính trị, tư tương hay đạo đức, vì
vậy chỉ cần tiến hành giáo dục chính trị, tư tương hay đạo đức là mọi chủ thể
trong xã hội đã có ý thức pháp luật, có sự tự giác, tôn trọng và tuân thủ pháp luật.[
tr .27, tr.118-119]
Quan điểm thứ ba lại đơn giản hóa công tác GDPL, cho rằng công tác
GDPL chỉ cần được tiến hành thông qua việc lồng ghép, gắn kết với công tác
tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu văn bản pháp luật. GDPL theo quan điểm này
về thực chất chỉ là nhưng đợt tuyên truyền, cổ động mỗi khi có văn bản pháp luật
mới được ban hành như Hiến pháp, các bộ luật, luật… hoặc theo thời vụ, như mỗi
khi có đợt bầu cử Quốc Hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp…[27, tr. 119]
Có thể thấy các quan điểm nói trên còn mang tính phiến diện, một chiều,
chưa thấy hết đặc thù, sự tác động , tầm quan trọng của GDPL, nên đã vô tình
hoặc cố ý hạ thấp, xem nhẹ vai trò, giá trị xã hội của GDPL.
14


15


Theo ThS. Phạm Kim Dung, GDPL là quá trình tác động có mục đích, có
tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung và thông qua nhưng phương pháp, hình thức
nhất định từ phía chủ thể giáo dục đến khách thể giáo dục nhằm làm hình thành
và phát triển ơ họ hệ thống tri thức pháp luật, trình độ hiểu biết (nhận thức, tình
cảm, thói quen và hành vi xử sự) theo các chuẩn mực pháp luật [5, tr.8].
Theo Ths. Phạm Thị Ngọc Minh, GDPL được hiểu: là hoạt động có định
hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên đối tượng
giáo dục nhằm hình thành ơ họ tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi phù hợp
với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành [13, tr.8].
GDPL là một hoạt động tự thân, thường xuyên của ngành giáo dục khác
một số ngành khác. GDPL trong nhà trường thực hiện thông qua việc dạy và học
nội dung, kiến thức pháp luật trong trong chương trình giáo dục chính khóa qua
các môn học như giáo dục công dân (phổ thông), pháp luật (TCCN, cao đẳng, đại
học) hoặc được lồng ghép, tích hợp vào các môn học có liên quan đạo đức, tìm
hiểu tự nhiên xã hội, sinh học, lịch sử… (phổ thông) Chính trị (TCCN) [5].
Theo TS. Nguyễn Quốc Sửu, GDPL là quá trình hoạt động có mục đích,
có tổ chức, có kế hoạch, theo nội dung đã được xác định và thông qua nhưng
phương pháp, hình thức nhất định từ phía chủ thể GDPL, tác động đến đối
tượng tiếp nhận GDPL nhằm làm hình thành và phát triển ơ họ hệ thống tri thức
pháp luật, trình độ hiểu biết về pháp luật, làm hình thành tình cảm, thói quen và
hành vi xử xự tích cực theo pháp luật [27, tr.119].
GDPL là một hoạt động mang đầy đủ nhưng tính chất chung của giáo
dục, song nó có đặc điểm riêng về mục đích, nội dung, hình thức, phương pháp
và chủ thể. Trong khoa học pháp lý, GDPL được hiểu theo nghĩa hẹp của khái
niệm giáo dục, theo đó, GDPL là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có mục
đích tác động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ơ họ tri thức pháp luật,
tình cảm và hành vi xử sự phù hợp với pháp luật hiện hành.
Tựu chung lại, chúng ta có thể hiểu GDPL như sau: GDPL là hoạt động
có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch, có mục đích của chủ thể giáo dục, tác

15


16

động lên đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ hệ thống tri thức pháp
luật, tình cảm và hành vi phù hợp với hành vi xử sự tích cực theo quy định của
pháp luật.
GDPL là kênh dẫn pháp luật đến với xã hội, với đời sống hàng ngày của
mỗi công dân, tạo nên môi trường sống cho pháp luật. Trong môi trường này
pháp luật từng bước được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội.
GDPL phải đạt được hiệu quả đặt ra. Hiệu quả của hoạt động GDPL phải được
nhìn nhận đánh giá qua nhưng mục tiêu đạt được từ việc giáo dục. GDPL là cơ
sơ bước đầu để hình thành lòng tin pháp luật, hình thành cảm xúc pháp luật và
hành vi phù hợp pháp luật ơ mỗi cá nhân con người - đây chính là các yếu tố cơ
bản của quá trình hình thành ý thức pháp luật, ý thức công dân.
1.1.2. Quan niệm về giáo dục pháp luật cho trẻ em
"Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai"
Trẻ em nếu được chăm sóc giáo dục tốt thì tương lai chúng ta có chủ nhân
tốt. Nhận thức được tầm quan trọng đó Việt Nam đã tham gia Công ước liên
hợp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20 tháng 2 năm 1990 và trơ thành quốc gia
thứ hai tham gia công ước này. Ngay sau đó, Quốc hội Việt Nam đã ban hành
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vào năm 1991 để ghi nhận các quyền
trẻ em trong công ước này. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến trẻ
em thể hiện rất rõ trong hệ thống chính sách pháp luật về trẻ em ngày càng được
hoàn thiện, từng bước nội luật hóa các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế và pháp
luật quốc gia đảm bảo hài hòa, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội
Việt Nam [1, tr.5]. Tại Điều 1 Công ước về Quyền Trẻ em của Liên hiệp quốc
định nghĩa một trẻ em là "mọi con người dưới tuổi 18 trừ khi theo luật có thể áp
dụng cho trẻ em, tuổi trương thành được quy định sớm hơn". Hiệp nước này

được 192 trong 194 nước thành viên phê duyệt. Một số định nghĩa tiếng Anh
của từ trẻ em bao gồm thai nhi. Về mặt sinh học, một đứa trẻ là bất kỳ ai trong
giai đoạn phát triển của tuổi thơ ấu, giưa sơ sinh và trương thành. Trẻ em nhìn
16


17

chung có ít quyền hơn người lớn và được xếp vào nhóm không để đưa ra nhưng
quyết định quan trọng, và về mặt luật pháp phải luôn có người giám hộ.
Tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em được Quốc hội nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 15/6/2004 có quy định:
“Điều 1. Trẻ em
Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới mưới sáu tuổi
[20].”
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều chính sách pháp luật và tổ chức thực hiện
có hiệu quả đảm bảo cơ bản quyền của trẻ em, song tình trạng trẻ em vi phạm
pháp luật vẫn có chiều hướng gia tăng. Đây là một thách thức không nhỏ, đòi
hỏi chúng ta phải quan tâm đầu tư nguồn lực, GDPL cho trẻ em để giúp trẻ nhận
thức hiểu biết về pháp luật từ đó phòng ngừa việc vi phạm pháp luật ơ trẻ em.
GDPL cho trẻ em là một phần trong GDPL nói chung, tuy nhiên đã được
cụ thể hóa về đối tượng được giáo dục là trẻ em. Từ quan niệm về GDPL, chúng
ta có thể hiểu GDPL cho trẻ em là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên trẻ em nhằm hình thành ở trẻ em
hệ thống tri thức pháp luật, tình cảm và hành vi xử sự tích cực theo quy định
của pháp luật.
1.1.3. Mục đích của giáo dục pháp luật cho trẻ em
“Trẻ em như búp trên cành”
Trẻ em là chủ nhân tương lai của đất nước, là thế hệ sẽ kế thừa và gánh vác
nhưng trọng trách mà ông cha đi trước đã tạo dựng. Chính vì vậy, việc tạo dựng,

vun đắp chăm lo giáo dục cho trẻ em luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Việc giáo dục trẻ em nói chung và GDPL nói riêng giúp trẻ trơ thành nhưng
người có ích cho xã hội là vấn đề phức tạp cần có sự chung tay giúp đỡ của toàn
xã hội. Việc GDPL cho trẻ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành hành vi
17


18

của trẻ, giúp trẻ trơ thành người có ích cho xã hội. Đây cũng chính là mục đích,
yêu cầu cơ bản của GDPL đối với mọi cá nhân nói chung và trẻ em nói riêng.
GDPL là một yếu tố có vai trò chủ đạo của quá trình hình thành ý thức pháp luật
ơ cá nhân con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Hiền, dư đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều
do giáo dục mà nên” [13]. Việc GDPL nhằm mục đích cung cấp cho các cá nhân
nhưng tri thức pháp luật cần thiết, xây dựng tình cảm, thái độ tôn trọng và hành
vi tích cực trong cuộc sống hàng này.
Theo quan điểm chung của nhiều nhà khoa học, GDPL cho trẻ em bao
gồm các mục đích cơ bản sau đây:
Mục đích thứ nhât: Hình thành, làm sâu sắc từng bước mơ rộng hệ thống
tri thức pháp luật của trẻ em (mục đích nhận thức).
Thông qua GDPL, trẻ em được giáo dục, được trang bị nhưng tri thức cơ
bản về pháp luật như giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh của pháp luật, các
chuẩn mực pháp luật trong từng lĩnh vực đời sống.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm
pháp luật. Trên cơ sơ kiến thức pháp luật được trang bị đã hình thành mơ rộng
và làm sâu sắc tri thức pháp luật, giúp người học am hiểu hơn về pháp luật và
biết cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật
góp phần định hướng cho lòng tin đúng đắn vào các giá trị của pháp luật, tạo cơ
sơ hình thành hành vi hợp pháp ơ mỗi cá nhân.

Tri thức pháp luật giúp con người điều khiển, kiềm chế hành vi của mình
trên cơ sơ các chuẩn mực pháp lý, tri thức pháp luật đã nhận thức được.
Các hành vi phù hợp với pháp luật chỉ được hình thành trên cơ sơ nhận
thức đúng, có niềm tin và có tình cảm đúng đắn đối với pháp luật.
Mục đích thứ hai: Hình thành ý thức và lòng tin của trẻ em đối với
pháp luật (mục đích cảm xúc).
Lòng tin vào pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng
hành vi. Lòng tin vưng chắc vào pháp luật là cơ sơ để hình thành động cơ của
18


19

hành vi hợp pháp. Trong cuộc sống, có nhiều trường hợp nhưng người có kiến
thức pháp luật nhưng không có lòng tin vào pháp luật, sẵn sàng chà đạp lên
pháp luật, lợi dụng kẽ hơ của pháp luật để trục lợi. Khi con người tin vào tính
công bằng của nhưng đòi hỏi của quy phạm pháp luật thì không cần một sự tác
động bổ sung nào của Nhà nước để thực hiện nhưng đòi hỏi đó. Có lòng tin vào
tính công bằng của pháp luật, con người sẽ có hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của pháp luật một cách độc lập, tự nguyện.
Niềm tin pháp luật được xây dựng trên cơ sơ :
Một là, giáo dục tình cảm công bằng. Nói đến pháp luật là nói đến sự
công bằng. Giáo dục tình cảm công bằng là giáo dục cho con người biết cách
đánh giá các quy phạm pháp luật, biết cách xác định, đánh giá các tiêu chuẩn về
tính công bằng của pháp luật để tự đánh giá hành vi của mình, biết quan hệ với
người khác và với chính mình bằng các quy phạm pháp luật.
Hai là, giáo dục tình cảm trách nhiệm là giáo dục ý thức về nghĩa vụ
pháp lý. Giáo dục tình cảm trách nhiệm nhằm hình thành ý thức tuân thủ pháp
luật – một nguyên tắc xử sự của công dân trong mối quan hệ với nhau và với
các cơ quan Nhà nước. Giáo dục tình cảm trách nhiệm làm cho người được giáo

dục nhận thức được rằng mọi việc làm, mọi hành vi của mình phải dựa trên cơ
sơ pháp luật và trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
Ba là, giáo dục ý thức đấu tranh không khoan nhượng đối với nhưng biểu
hiện vi phạm pháp luật, chống đối pháp luật, đấu tranh với nhưng hành vi vi
phạm pháp luật và tội phạm.
Mục đích thứ ba: Hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo
pháp luật (mục đích hành vi).
Việc xác định đúng mục đích GDPL có ý nghĩa quan trọng vì trong đa số
các trường hợp, nội dung, hình thức, phương pháp GDPL phụ thuộc vào mục
đích của nó. Có thể nói, GDPL góp phần hình thành, làm sâu sắc và từng bước
mơ rộng tri thức pháp luật của công dân. Tri thức pháp luật có vai trò quan trọng
đối với việc hình thành tình cảm, lòng tin và thái độ đúng đắn đối với pháp luật.
19


20

Tri thức pháp luật giúp con người đánh giá, kiểm tra, đối chiếu hành vi với các
chuẩn mực pháp luật. Mục đích này đặc biệt quan trọng trong điều kiện nước ta
hiện nay, khi hiểu biết pháp luật của công dân còn thấp, nhận thức về quyền và
nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Đây cũng là yêu cầu của việc hoàn thiện cơ
chế quản lý xã hội bằng pháp luật, xây dựng một xã hội văn minh, công bằng,
dân chủ, bình đẳng, kỷ cương và trật tự. “Tăng cường GDPL, nâng cao hiểu biết
và ý thức tôn trọng pháp luật, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, bảo
đảm pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh, thống nhất, công bằng".
Đối với nước ta hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật, tạo môi
trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển ý thức đạo đức đã trơ thành một
trong nhưng yêu cầu cấp thiết. Quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng như xã hội dân sự… đòi
hỏi phải tích cực hơn nưa trong việc đưa pháp luật vào đời sống, hình thành và

phát triển ý thức pháp luật, đồng thời, xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân
trí, tạo cơ sơ nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học, chuyển
thói quen điều chỉnh xã hội theo “lệ”, chủ yếu là sự cảm thông sang điều chỉnh
xã hội bằng pháp luật trên nguyên tắc công bằng và bình đẳng xã hội. Trong
quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức, tính khách quan, khoa học và
duy lý thay cho sự tuỳ tiện vẫn dựa trên cơ sơ kinh nghiệm, duy cảm, duy tình.
Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật (với nguyên tắc tất cả mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật) làm cho mọi thành viên trong xã hội có thể tự do phát huy
khả năng sáng tạo của mình trong môi trường lành mạnh – môi trường vận hành có
trật tự, nền nếp, kỷ cương của một xã hội năng động, phát triển và văn minh. Đó
cũng chính là nhu cầu tình cảm, là trách nhiệm và yêu cầu đạo đức đối với mỗi công
dân trong giai đoạn mới [1].
1.1.4.

Nội dung, hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật cho trẻ em
Thứ nhât, về nội dung GDPL cho trẻ em:
20


21

Về nội dung GDPL cho trẻ em cần tập trung giới thiệu các văn bản quy
phạm pháp luật mới ban hành các chuyên đề pháp luật có liên quan đến trẻ em
như: Luật Giáo dục năm 2005, được sửa đổi, bổ sung năm 2009; Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều Bộ luật Hình sự năm 2009, Luật Phòng, chống ma túy năm
2000, được sửa đổi, bổ sung năm 2008; Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm
2006, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Biển Việt
Nam, các nội dung liên quan đến chủ quyền biển, đảo Việt Nam, Luật Bảo vệ
môi trường năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Tuyên truyền các văn bản quy phạm về công tác đánh giá xếp loại học

sinh: Thông tư số 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12/12/2011 của Bộ trương Bộ Giáo
dục và Đào tạo ban hành Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh trung học cơ sơ và
học sinh trung học phổ thông; Quyết định số 4458/QĐ-BGDĐT ngày 22/8/2007
của Bộ trương Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định về xây dựng trường
học an toàn, phòng chống tai nạn, thương tích trong trường phổ thông.
Tuyên truyền các văn bản liên quan đến vấn đề phòng chống bạo hành,
buôn bán, xâm hại trẻ em, các quy định xử phạt vi phạm hành chính có liên
quan đến trẻ em trong giao thông đường bộ, trong lĩnh vực an ninh - trật tự an
toàn xã hội. Tích cực hương ứng “Năm an toàn giao thông 2014” bằng cách
tuân thủ các quy định của pháp luật về an toàn giao thông: Luật giao thông
đường bộ nam 2008, Luật Đường sắt năm 2005, Luật giao thông đường thủy nội
địa năm 2004.
Giảng dạy đúng, đủ nội dung kiến thức pháp luật được xây dựng trong
chương trình môn Giáo dục Công dân, Pháp luật theo quy định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo.
Thứ hai, về hình thức và phương pháp GDPL cho trẻ em:
Để công tác GDPL cho trẻ em đạt hiệu quả cần tiến hành dưới các hình
thức và phương pháp sau:
21


22

Một là, Triển khai các văn bản pháp luật bằng nhiều hình thức, trong đó
đẩy mạnh hình thức tuyên truyền miệng.
Cần tăng cường tuyên truyền miệng, phổ biến pháp luật về giáo dục
trong các buổi họp cha mẹ học sinh; phát thanh cho toàn trường trong giờ nghỉ
giải lao giưa buổi; sinh hoạt ngoại khóa.
Hai là, Tiếp tục duy trì và nâng cao chất lượng GDPL cho trẻ em trên các
phương tiện thông tin đại chúng, xây dựng trang cơ sơ dư liệu pháp luật về giáo

dục trên website của trường.
Ba là, xây dựng tủ sách pháp luật trong nhà trường, bổ sung tài liệu vào thư
viện.
Bốn là, trang bị pano, áp phích phục vụ tuyên truyền GDPL phù hợp với
lứa tuổi học sinh như: an toàn giao thông, phòng chống ma túy, bảo vệ môi
trường … Tổ chức thi đố vui, hái hoa dân chủ …tìm hiểu pháp luật.
1.2. Quan niệm về giáo dục đạo đức cho trẻ em
1.2.1. Quan niệm về giáo dục đạo đức
Con người là động lực của mọi sự phát triển xã hội. Con người có nhân
cách cao đẹp thì sự tác động đến xã hội càng lớn. Do đó không thể xem nhẹ vai
trò của giáo dục trong sự phát triển của xã hội. Trong các mặt Đức, Trí, Thể,
Mỹ của giáo dục. GDĐĐ có vai trò vô cùng quan trong đặt lên hàng đầu "được
xem là nền tảng, gốc dễ để tạo ra nội lực tiềm tàng vưng chắc cho các mặt giáo
dục khác" [14].
TS. Đoàn Hương nhận định, vấn đề vi phạm pháp luật và đạo đức của học
sinh ví như là một vấn đề “nhức nhối” của xã hội, vì “trẻ em hôm nay sẽ thay
thế chúng ta trong tương lai”. Vì vậy, GDĐĐ là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp "trồng người", nó giúp đào tạo ra thế hệ vừa "hồng" vừa "chuyên" nhằm
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Giá trị và giá trị đạo
đức luôn là vấn đề ý nghĩa đối với bất cứ xã hội nào, thời đại nào. Chẳng phải
ngẫu nhiên mà cái nhìn đạo đức đã là cái nhìn truyền thống của nhiều xã hội.
Trong nền văn minh hiện đại, việc đánh giá trình độ tiến bộ của các hiện tượng
xã hội, trên thực tế vẫn rất cần sự tham gia của các tiêu chuẩn đạo đức. Bên
22


23

cạnh đó, tính đặc thù, tính giai cấp, tính khu vực… vốn là nhưng tính chất cố
hưu của đạo đức càng làm cho các chuẩn mực đạo đức khó ăn nhập với đời

sống hiện thực. Trong khi đó, bên cạnh đạo đức còn có hàng loạt giá trị cùng
loại như phong tục, tập quán, lối sống, nếp tư duy... cũng đang được coi là cái
cần phải tính đến khi xác định tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội. Đối với Việt Nam,
trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, các giá trị đạo đức trong truyền
thống và hiện đại vẫn giư một vai trò quan trọng. Công nghiệp hóa là một quá
trình tất yếu nhằm tạo nên nhưng chuyển biến căn bản về kinh tế - xã hội của
đất nước trên cơ sơ khai thác có hiệu quả các nguồn lực và lợi thế trong nước,
mơ rộng quan hệ kinh tế quốc tế, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với trình
độ khoa học - công nghệ ngày càng hiện đại.
Theo nghĩa hẹp, đạo đức là luân lý, là nhưng quy định nhưng chuẩn mực,
ứng xử trong quan hệ con người với con người, với bản thân với công việc, với
thiên nhiên và môi trường sống. Theo nghĩa rộng, đạo đức liên quan đến phạm trù
chính trị, pháp luật và lối sống. Đạo đức là thành phần cơ bản của nhân cách, phản
ánh bộ mật nhân cách của cá nhân đã được xã hội hóa, được thể hiện qua hành vi
đạo đức.
Đạo đức là tổng hợp nhưng tiêu chuẩn, nguyên tắc nhằm điều chỉnh hành vi
đối xử giưa con người với con người, giưa cá nhân với gia đình, tập thể, với xã hội
[34].
Theo PGS.TS. Nguyễn Dục Quang, GDĐĐ được hiểu là một mặt của
hoạt động giáo dục nhằm xây dựng cho thế hệ trẻ nhưng tính cách nhất định và
bồi dưỡng cho họ nhưng quy tắc hành vi thể hiện trong giao tiếp với mọi người
với công việc, với Tổ quốc. GDĐĐ cần phải được coi trọng đặc biệt, nhất là
trong sự nghiệp cách mạng hiện nay của dân tộc khi mà nước ta gia nhập WTO.
GDĐĐ cho thế hệ trẻ là làm cho nhân cách của họ phát triển đúng về mặt đạo
đức, tạo cơ sơ để họ ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ của cá nhân với
bản thân, với người khác (gia đình, bạn bè, thầy cô giáo…) với xã hội, với tổ
quốc, với môi trường tự nhiên, với cộng đồng quốc tế [28].
23



24

Có thể hiểu GDĐĐ là một quá trình phức tạp của một chuỗi nhưng tác
động bên ngoài lên cấu trúc tâm lý của con người bằng các phương pháp khác
nhau nhằm định hướng đến hình thành mục đích, sự định hướng giá trị, nhưng
nét đặc trưng về phẩm chất, ý chí, năng lực, tính cách của con người.
Do vậy, GDPL cùng với GDĐĐ đảm bảo sự điều chỉnh từ bên ngoài đối
với hành vi của con người. Bơi lòng tin sẽ chuyển thành mục đích, định hướng
giá trị và thành hành động. Như vậy, sự thống nhất của GDPL và GDĐĐ được
thể hiện cuối cùng ơ hành vi hợp pháp.
Đặc điểm của GDĐĐ:
GDĐĐ không chỉ đòi hỏi ơ việc truyền thụ khái niệm tri thức đạo đức mà
quan trọng hơn là kết quả giáo dục phải được thể hiện thành tình cảm, niềm tin
hành động thực tế của trẻ em.
Chức năng GDĐĐ:
Làm cho học sinh thấm nhuần sâu sắc thế giới quan Mác - Lênin, tư
tương đạo đức Hồ Chí Minh, chủ trương, chính sách của Đảng, sống và làm
việc theo pháp luật, sống có kỷ cương, nền nếp, có văn hóa trong các mối quan
hệ giưa con người với tự nhiên, với xã hội và giưa con người với nhau.
1.2.2. Quan niệm về giáo dục đạo đức cho trẻ em
Sinh thời Chủ tịch Hồ ChíMinh luôn xem “Công tác giáo dục thiếu niên,
nhi đồng rất quan trọng, đó là nhiệm vụ đào tạo thế hệ tương lai cho Tổ quốc”.
Theo Người, nhiệm vụ to lớn này phải do cả dân tộc và toàn xã hội đảm trách.
Bác giao nhiệm vụ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em cho các cấp, các ngành,
nhất là các cơ quan làm công tác thiếu niên nhi đồng, Đoàn thanh niên, Hội phụ
nư, nhà trường, gia đình và tất cả nhưng người lớn tuổi trong xã hội. “Thiếu
niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà, vì vậy, chăm sóc và giáo
dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân”. Bác từng nói: “Người có
đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, người có tài mà không có đức là


24


25

người vô dụng”. Rõ ràng GDĐĐ luôn đóng vai trò quan trong đối với sự phát
triển nhân cách của con người đặc biệt là trẻ em.
Trên cơ sơ quan niệm về GDĐĐ có thể thấy đối tượng GDĐĐ ơ đây là trẻ
em. Chúng ta có thể hiểu quan niệm GDĐĐ cho trẻ em như sau:
GDĐĐ cho trẻ em: là một mặt của hoạt động giáo dục nhằm xây
dựng cho trẻ em những tính cách nhất định và bồi dưỡng cho trẻ em những
quy tắc hành vi thể hiện trong giao tiêp với mọi người, với Tổ quốc [38].
1.2.3. Mục đích của giáo dục đạo đức cho trẻ em
GDĐĐ góp phần chuyển hóa nhưng nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội
thành nhưng phẩm chất đạo đức nhân cách cho học sinh, hình thành ơ học sinh
thái độ đúng đắn trong giao tiếp, ý thức tự giác thực hiện các chuẩn mực của xã
hội, thói quen chấp hành các quy định của pháp luật. GDĐĐ nhằm hình thành
nhưng hiểu biết về các giá trị, chuẩn mực đạo đức và ý nghĩa của việc thực hiện
các chuẩn mực đó. Sự hiểu biết về các chuẩn mực đạo đức là sự nhận thức về
thiện - ác, tốt - xấu, đúng - sai, về cách ứng xử. Nếu thiếu nhưng tri thức này con
người sẽ không phân biệt được đâu là tốt, xấu, đâu là thiện, ác…do đó hành động
của họ dễ dẫn đến sai lầm, bơi người ta chỉ hành động đúng trong chừng mực
hiểu biết chính xác. GDĐĐ góp phần hình thành tình cảm đạo đức như lòng yêu
thương, tôn trọng, niềm tin vào con người; yêu cái thiện, cái đúng, cái tốt.
GDĐĐ giúp các em sống tích cực, chủ động, có mục đích, có kế hoạch,
để rèn luyện trơ thành học sinh ngoan, công dân tốt của xã hội.
1.2.4. Sự cần thiêt kêt hợp giáo dục pháp luật và giáo dục đạo đức
cho trẻ em
Chúng ta đã biết, cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị
chân chính, đều liên quan đến hành vi đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp

luật tham gia điều chỉnh quan hệ xã hội bằng nhưng quy phạm, điều khoản quy
định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy phạm pháp luật quy định chi
tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm đoán. Đồng thời, chúng còn xác
định cụ thể cách cư xử lẫn nhưng hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm.
25


×