Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đảng bộ tỉnh phú thọ lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1997 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (911.75 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƯƠNG THỊ HƯỜNG

ĐẢNG BỘ TỈNH PHÚ THỌ LÃNH ĐẠO
CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN
CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ SỞ
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Tang Bồng

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác.

Tác giả

Dương Thị Hường


LỜI CẢM ƠN


Trong thời gian học tập và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận được sự
giúp đỡ nhiệt tình của các cơ quan, các tổ chức và các cá nhân.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu trường Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Sau đại học của nhà trường
cùng các thầy cô giáo, những người đã trang bị kiến thức cho tôi trong suốt
quá trình học tập.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Vũ Tang Bồng, người thầy đã trực tiếp
chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo Tỉnh ủy,
Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ, Mặt trận Tổ quốc, Trường chính trị Tỉnh đã
động viên, cổ vũ, tạo điều kiện giúp đỡ tôi thu thập thông tin, số liệu trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn tất các bạn bè, đồng nghiệp cùng những người
thân yêu nhất trong gia đình đã động viên, giúp đỡ và đóng góp nhiều ý kiến
quý báu để tôi hoàn thành luận văn. Do thời gian và cũng do năng lực nghiên
cứu của tôi có hạn, luận văn chắc hẳn không thể tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Rất mong nhận đuợc sự chỉ dẫn tiếp theo của các thầy cô giáo cùng
toàn thể bạn bè, đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 27 tháng 9 năm 2014
Tác giả

Dương Thị Hường


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn ............................................................... 7

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 7
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu ........................... 8
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................... 9
7. Kết cấu của luận văn .................................................................................. 9
Chương 1: YÊU CẦU KHÁCH QUAN PHẢI TĂNG CƯỜNG ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ........................................ 10
1.1. Vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở và công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ sơ sở trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ ............................................................................................... 10
1.1.1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cán bộ cơ sở .... 10
1.1.2. Vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở và công tác đào
tạo bồi dưỡng lý luận chính trị ................................................................. 11
1.2. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc điểm
dân cư, lịch sử truyền thống yêu nước và cách mạng tỉnh Phú Thọ ........... 17
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc điểm dân cư .................. 17
1.2.2. Lịch sử, truyền thống yêu nước và cách mạng ................................ 20
1.3. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
cơ sở tỉnh Phú Thọ trước năm 1997 ......................................................... 23
1.3.1. Quan điểm của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở trước năm 1997 .................................. 23
1.3.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phú về công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở trước năm 1997 ........... 27


Tiểu kết chương 1 ...................................................................................... 31
Chương 2: QUÁ TRÌNH TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH PHÚ THỌ VỀ CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ SỞ TỪ NĂM
1997 ĐẾN NĂM 2010 ................................................................................ 32

2.1. Chủ trương của Đảng và Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở........................ 32
2.1.1. Chủ trương của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở. ........................................................... 32
2.1.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ quán triệt chủ trương của Đảng trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở .. 39
2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ chỉ đạo thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng
lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010 ........ 43
2.2.1. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch, đề án, chương trình đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị ............................................................................. 43
2.2.2. Chỉ đạo hoạt động của trường chính trị tỉnh và các trung tâm bồi
dưỡng chính trị ở các huyện, thị xã, thành phố ......................................... 46
Tiểu kết chương 2 ...................................................................................... 61
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .......................... 62
3.1. Nhận xét về lãnh đạo của Đảng bộ đối với công tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cấp cơ sở .............................. 62
3.1.1. Thành tựu ....................................................................................... 62
3.1.2. Hạn chế .......................................................................................... 66
3.2. Một kinh nghiệm chủ yếu.................................................................... 70
3.2.1. Bám sát và thực hiện nghiêm túc quan điểm, chỉ thị, nghị quyết
của Đảng Cộng sản Việt Nam về đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị
cho đội ngũ cán bộ cơ sở. ......................................................................... 70


3.2.2. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã từng bước hoàn thiện quy hoạch, kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở
phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương. ...................................... 72
3.2.3. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị gắn liền với thực tiễn ........................................... 74
3.2.4. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo ............. 78

Tiểu kết chương 3 ....................................................................................... 80
KẾT LUẬN ................................................................................................. 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 85
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BDCT

: Bồi dưỡng chính trị

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH- HĐH

: Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

ĐT, BDLLCT

: Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị

GDLLCT

: Giáo dục lý luận chính trị

LLCT

: Lý luận chính trị


UBND

: Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”
theo đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ là công việc gốc của Đảng. Trong
xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị có tầm
quan trọng đặc biệt vì nó góp phần xây dựng phẩm chất chính trị, đạo đức,
nhân cách cho người cán bộ của Đảng.
Đội ngũ cán bộ cơ sở có vị trí vai trò hết sức quan trọng trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Đội ngũ cán bộ
cơ sở đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và chịu
sự điều chỉnh trực tiếp của hệ thống pháp luật về chế độ công chức, công vụ
mới đang hình thành và được thể chế hóa qua một số văn bản pháp luật do
Nhà nước ban hành trong thời gian gần đây.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ từ
Trung ương đến cơ sở là yêu cầu cấp thiết cho mọi cán bộ chứ không phải chỉ
riêng ở cán bộ nghiên cứu hay người làm công tác lý luận như trước đây
thường quan niệm. Hơn nữa, năng lực và trình độ lý luận chính trị của cán bộ
cơ sở có tác dụng quan trọng trong lãnh đạo phát triển kinh tế, xã hội và an
ninh trật tự ở địa phương, thúc đẩy sự phát triển chung cho cả tỉnh, vùng và cả
nước. Trình độ lý luận chính trị của người cán bộ là yếu tố “then chốt” cho
mọi hoạt động nhận thức và hành động thực tiễn của họ. Cán bộ cấp xã,
phường, thị trấn có nắm vững, hiểu biết sâu sắc lý luận chính trị mới nắm
chắc các quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
mới vận dụng một cách sáng tạo vào tình hình cụ thể ở địa phương, từ đó rút

ra những bài học, kinh nghiệm, những kết luận góp phần vào việc sửa đổi, bổ
sung và phát triển lý luận, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước.

1


Trong những năm đổi mới các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - quốc
phòng an ninh của tỉnh Phú Thọ phát triển mạnh mẽ. Quá trình đổi mới đẩy
mạnh CNH-HĐH đặt ra cho cán bộ cấp xã, phường, thị trấn ở tỉnh Phú Thọ
phải không ngừng rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận chính trị. Để có thể nắm
bắt, phản ảnh đúng đắn quy luật phát triển; vận dụng chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước một cách có hiệu quả và đề ra những quyết
sách đúng, phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa bàn mình phụ trách.
Tuy nhiên, so với yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước, của địa phương
thì trình độ năng lực đội ngũ cán bộ cấp cơ sở xã còn nhiều hạn chế bất cập.
Cán bộ cơ sở ở tỉnh Phú Thọ được hình thành từ nhiều nguồn, trưởng thành
chủ yếu thông qua thực tiễn, chưa được đào tạo cơ bản, thiếu vốn kiến thức
chuyên môn, kiến thức lý luận chính trị. Bởi thế, trong nhận thức và chỉ đạo
thực tiễn họ thường khó tránh khỏi bệnh kinh nghiệm, giáo điều, điều hành
công tác lãnh đạo, quản lý cũng như xử lý công việc một cách máy móc, kém
hiệu quả không đề ra được phương án giải quyết tối ưu. Thực tế đó đòi hỏi
đội ngũ cán bộ, đảng viên cơ sở của tỉnh Phú Thọ phải không ngừng nâng cao
trình độ về mọi mặt, trong đó có trình độ lý luận chính trị.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá thực trạng từ đó đề ra phương
hướng, giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả của công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Phú Thọ có vai
trò hết sức quan trọng .
Từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn nói trên tôi mạnh dạn chọn đề tài:
"Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính

trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010" làm luận văn thạc
sĩ khoa học, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT được Đảng ta xác định là một công
tác trọng tâm. Ở các địa phương công tác này càng có vai trò quan trọng. Từ

2


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12/1986) đến nay Đảng ta đã đưa ra
nhiều chủ trương và những yêu cầu nhằm nâng cao trình độ LLCT đối với
lãnh đạo quản lý các cấp các ngành. Đây là những định hướng quan trọng góp
phần nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị là một mảng đề tài lớn
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Trong những năm gần đây, đã có nhiều
công trình nghiên cứu, từ nhiều góc độ khác nhau về vấn đề này. Có thể phân
thành các nhóm như sau:
- Nhóm thứ nhất: Các công trình, chuyên khảo về công tác giáo dục
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị:
Trong tác phẩm “Học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng của
Đảng viên: Bài nói ở lớp tập huấn Đảng viên mới do thành ủy Hà Nội tổ chức
ngày 14/5/1966”, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1978, tác giả Hồ Chí Minh đã nói rõ
về động cơ vào Đảng và lý tưởng phấn đấu của người Đảng viên, nhiệm vụ
của Đảng viên trong học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối chính sách
của Đảng.
Trong tác phẩm “ Một số vấn đề về công tác tư tưởng” Nxb Sách giáo
khoa Mác - Lênin, Hà Nội, 1985, tác Nguyễn Đức Bình. Sách gồm những bài
nghiên cứu của tác giả về công tác tư tưởng của Đảng; trong đó có nhiều nội
dung về GDLLCT của Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp theo trong sách “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong

sạch vững mạnh”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tác giả Phạm Ngọc
Anh, Bùi Đình Phong đã đề cập các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí
Minh về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng, về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về việc vận dụng tư tưởng đó vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn
Đảng ở nước ta hiện nay.
Trong tác phẩm “Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo lĩnh
vực nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị”, Học viện chính trị Quốc gia Hà

3


Nội, Hà Nội, 2012 tác giả Nguyễn Tấn Hoàng (Chủ biên), Ngô Đình Xây,
Mai Yến Nga đã giới thiệu về công tác giáo dục lý luận chính trị, quy trình tổ
chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng. Tham
mưu định hướng về GDLLCT trong hệ thống giáo dục quốc dân, hệ thống
Học viện Chính trị Quốc gia… các trường chính trị tỉnh, thành phố.
- Nhóm thứ hai: Các bài nghiên cứu liên quan đến công tác giáo dục
lí luận chính trị.
Tiêu biểu cho nhóm này là các công trình:
Nguyễn Phú Trọng (1999): “Tạo bước chuyển biến mới trong việc học
tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên”, Tạp chí Cộng sản, số 11.
Nguyễn Khoa Điềm (2004): “Nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu
quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong tình hình mới”, Tạp chí Thông
tin công tác tư tưởng lý luận, số1.
Trần Ngọc Uẩn (2005): “Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở ở các trường Chính trị”, Tạp chí Lịch sử
Đảng, số 11.
Trần Văn Phòng (2006): “Đổi mới phương pháp học tập lý luận chính
trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh”,Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7.
Trần Khắc Việt (2006): Góp phần tích cực vào việc nâng cao chất

lượng giáo dục lý luận chính trị trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 8.
Nguyễn Văn Sáu (2006): “Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác giáo dục
lý luận chính trị”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6.
Các công trình nghiên cứu đã nêu lên tầm quan trọng của việc học tập
của cán bộ Đảng viên trong đó học tập lý luận chính trị là việc cực kỳ quan
trọng; những nội dung của của công tác GDLLCT; đồng thời nêu ra một số
giải pháp nhằm đảm bảo yêu cầu và nhiệm vụ công tác GDLLCT.

4


- Nhóm thứ ba: Các công trình nghiên cứu khoa học luận văn, luận
án về công tác đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lý luận chính trị
Tiêu biểu cho nhóm này là các công trình:
Nguyễn Đình Trãi (2001): “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán
bộ giảng dạy Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh”, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện hành chính Quốc gia. Trong luận án tác giả đã nghiên cứu đề
xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư
duy lí luận cho đội ngũ cá bộ giảng dạy lý luận Mác- Lênin ở các trường
Chính trị tỉnh; trên cơ sơ làm sáng tỏ năng lực phạm trù tư duy lý luận đối với
công tác giảng dạy LLCT ở các trường Chính trị tỉnh.
Nguyễn Đức Hà (2005): “Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ thuộc hệ thống Chính trị cơ sở của tỉnh Phú Thọ giai đoạn hiện”, thành
viên nghiên cứu đề tài khoa học cấp tỉnh Trường Chính trị tỉnh Phú Thọ.
Trên cơ sở đánh giá về chất lượng đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã của tỉnh
Phú Thọ, luận văn đề xuất các phương hướng , giải pháp nhằm năng cao chất
lượng đội ngũ chính quyền cấp xã đáp ứng được nhiệm vụ được cách mạng
của một tỉnh trung du miền núi, có nhiều dân tộc, đa dạng các loại hình kinh
tế như Phú Thọ.

Cầm Thị Lai (2012): “Đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, hành chính
cho đội ngũ cán bộ chuyên trách cấp cơ sở ở các tỉnh Tây Bắc trong giai
đoạn hiện nay”, luận án tiến sĩ chính trị khoa học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hà Nội. Luận án là rõ những vấn đề lý luận về đào tạo, bồi dưỡng LLCT,
hành chính cho cán bộ chuyên trách cấp xã ở tỉnh Tây Bắc; đánh giá thực
trạng trình độ, thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT, hành chính cho
đội ngũ cán bộ từ năm 2001 đến nay. Chỉ ra nguyên nhân và kinh nghiệm; đề
xuất những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh công tác ĐT, BDLLCT, hành chính
cho đội ngũ cán bộ đến năm 2020.

5


Tạ Bích Huệ (2012): “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo công tác
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm
1997 đến năm 2005”, luận văn Thạc sĩ Lịch sử Đảng, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn. Luận văn đề cập đến các chủ trương của Đảng và quá
trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đối với công tác đào
tạo, bồi dưỡng lý luận chinh trị cho cán bộ chủ chốt cấp cơ sở. Bên cạnh đó,
luận văn cũng bước đầu chỉ ra những hạn chế, nguyên nhân và một số bài học
kinh nghiệm nhằm nâng cao hơn nữa công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ của tỉnh Thái Nguyên, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên đủ “Đức và Tài; Hồng và Chuyên” trong thời đại mới.
Nhìn chung, khi khảo cứu các công trình đã liệt kê, có thể rút ra những
kết luận cơ bản sau: Thứ nhất, thành quả của những công trình nghiên cứu
nêu trên, ở những mức độ khác nhau là cơ sở để tác giả luận văn có điều kiện
đi sâu nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác đào
tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị cho cán bộ cơ sở ở địa phương; Thứ hai, trong
những công trình nghiên cứu trên cho đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện và có hệ thống về quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh

Phú Thọ đối với công ĐT, BDLLCT cho đội ngũ cán bộ cơ sở giai đoạn từ
năm 1997 đến năm 2010. Tuy nhiên, các công trình trên đều rất bổ ích không
chỉ cung cấp tư liệu mà còn gợi mở cho học viên hướng tiếp cận, triển khai
các nội dung nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn; Thứ ba, quá trình
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng lí luận chính trị
cho cán đội ngũ bộ cơ sở, cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện, hệ
thống, dựa trên việc khai thác thêm những tư liệu mới, khỏa lấp những
khoảng trống nghiên cứu vẫn còn tồn tại. Đó đồng thời cũng là mục tiêu,
nhiệm vụ mà luận văn cố gắng giải quyết và hoàn thành.

6


3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Kế thừa thành quả của các công trình nghiên cứu đã được công bố, trên
cơ sở các nguồn tư liệu mới, luận văn trình bày có hệ thống, phân tích đánh giá
toàn diện, khách quan theo quan điểm lịch sử về yêu cầu của công tác đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị và quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đối
với công đào tạo, bồi dưỡng dục lý luận chính trị cho cho đội ngũ cán bộ cơ sở
(1997 - 2010). Thông qua đó đánh giá những kết quả bước đầu và rút ra một số
kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT của
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, góp phần đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho đội ngũ cán bộ cở sở của tỉnh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Luận văn trình bày những quan điểm chính của Đảng và những chủ
trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cở sở từ năm 1997 đến năm 2010.
- Quá trình tổ chức triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở của tỉnh Phú Thọ từ năm 1997 đến năm 2010.

- Đánh giá những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, nguyên
nhân trong công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ
sở ở Phú Thọ.
- Rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh
đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị từ năm 1997 đến năm 2010.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung trình bày quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú
Thọ đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ ở
cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010

7


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở
Về thời gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đối
với công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ
năm 1997 (từ sau khi tỉnh Phú Thọ tách từ tỉnh Vĩnh Phú) đến 2010 (là năm
đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XVII).
Về không gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam,
những chủ trương, giải pháp của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về công tác đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic,

ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp cơ bản khác của khoa học
lịch sử như phân tích, tổng hợp, đối chiếu, thống kê, so sánh, để xử lý các sự
kiện, số liệu nhằm dựng lại quá trình hoạch định chủ trương và chỉ đạo thực
hiện công tác giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2010.
5.3. Nguồn tư liệu
- Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin và Hồ Chí Minh về
lý luận chính trị, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ....
- Các Văn kiện của Đảng, đặc biệt là các Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc, những Nghị quyết, Chỉ thị, Thông tư của Trung ương Đảng và Chính
phủ; các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân

8


tỉnh cũng như các tài liệu của sở, ban, ngành của tỉnh Phú Thọ về công tác
giáo dục lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Các công trình nghiên cứu khoa học, các sách, báo có liên quan (báo,
tạp chí, đề tài khoa học, chuyên khảo) do các cơ quan nghiên cứu đã công bố
như Viện Lịch sử Đảng, Viện Sử học, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân
văn- Đại học Quốc gia Hà Nội … là nguồn tư liệu quan trọng của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày có hệ thống và làm rõ đường lối, chủ trương của Đảng,
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
cho cán bộ cơ sở từ năm 1997 đến năm 2010
- Bước đầu rút ra một số đánh giá, nhận xét về thành tựu, hạn chế và rút
ra một số kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo
công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ cơ sở từ năm 1997
đến năm 2010.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy

tuyên truyền về lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ trong thời kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết:
Chương 1. Yêu cầu khách quan phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Chương 2. Quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về công tác
đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ cơ sở từ năm 1997
đến năm 2010
Chương 3. Một số nhận xét và kinh

9


Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN PHẢI TĂNG CƯỜNG ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
1.1. Vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở và công tác đào tạo,
bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ sơ sở trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ
1.1.1. Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, cán bộ cơ sở
1.1.1.1. Về “đào tạo, bồi dưỡng”
“Đào tạo” là quá trình trang bị những kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp
thích hợp để người được đào tạo có thể đảm nhận được một công việc nhất định;
“Bồi dưỡng” là quá trình nâng cao kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp
trên cơ sở của mặt bằng kiến thức đã được đào tạo trước đó.
Theo quan điểm của Đảng, công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
được tiến hành theo nguyên tắc học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực
tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “lý luận mà không liên hệ với thực

tiễn là lý luận suông”, “thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng”. Vì vậy, nội dung đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cần
luôn phải đổi mới và xây dựng cho phù hợp với yêu cầu thực tế nhằm góp
phần trang bị hệ thống thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chủ
nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống tri thức chuyên môn,
kiến thức lãnh đạo quản lý trong thời kỳ đẩy mạnh đổi mới công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, tăng cường mở của và hội nhập quốc tế.
1.1.1.2. Về “lý luận chính trị”
Có thể hiểu: Lý luận chính trị là hệ thống quan điểm, chủ trương, đường
lối của một Đảng, một giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà nước.
Lý luận chính trị của giai cấp vô sản là sự khái quát tri thức nhân loại
và tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc
10


lực cho việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia,
dân tộc. Theo Lênin, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp
cách mạng: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách
mạng” và “ chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong” [38, tr.30-32]. Hồ Chí Minh
cũng cho rằng: “Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,
tàu không có bàn chỉ nam” [39, tr.268]
Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng
chính trị của dân tộc và nhân loại. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn
lấy Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hành động của mình.
Do đó đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng đối
với một chính Đảng vô sản, vì trong cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh lệnh

sử của mình, giai cấp công nhân sẽ không thành công nếu như không không
có lý luận tiên phong soi đường.
1.1.1.3. Về “Cán bộ cơ sở”
Theo nghĩa hẹp có thể hiểu: Cán bộ cơ sở là thuật ngữ để chỉ những
người làm việc trong cơ quan quản lý nhà nước cấp cơ sở.
Theo nghĩa rộng: Cán bộ cơ sở là những người công tác tại bộ máy
chính quyền xã, phường, thị trấn. Là người trực tiếp tham gia quản lý mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội của xã, phường, thị trấn
1.1.2. Vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ cơ sở và công tác đào tạo
bồi dưỡng lý luận chính trị
1.1.2.1 Vị trí của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở
Cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị bốn cấp ở nước ta hiện
nay. Cơ sở là nơi cán bộ sinh sống và làm việc hàng ngày cùng với dân, có

11


điều kiện gần gũi và trực tiếp thường xuyên với nhân dân, đồng thời cũng là
nơi thi hành các chủ trương, chính sách của ba cấp trên. Nghị quyết hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX nêu rõ: Các cơ sở xã, phường
thị trấn là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân sinh sống. Hệ thống chính trị ở cơ
sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội tổ chức cuộc
sống tại cộng đồng dân cư [18, tr.166]. Do đó cán bộ cấp cơ sở phải là người
hiểu biết rõ nhất tình hình đang diễn ra tại địa bàn, người nắm bắt được trực
tiếp nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân và những bức xúc mà cuộc sống của
nhân dân đang đặt ra.
Cấp cơ sở là nơi thực thi mọi nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ,
nơi biến đường lối của Đảng, Chính sách của Nhà nước thành hiện thực.

Đồng thời, đây cũng là nơi kiểm nghiệm, phản ánh, cung cấp một cách
khách quan những căn cứ cho việc bổ xung hoàn thiện chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước. Quần chúng nhân dân ở cơ sở chỉ phát huy được sức
mạnh của mình khi có sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể là thông qua đội ngũ cán
bộ lãnh đạo cấp cơ sở. Đội ngũ cán bộ cơ sở là những người lĩnh hội các chủ
trương, đường lối, chỉ thị, Nghị quyết từ cấp trên để triển khai, vận dụng
trong thực tế trên địa bàn ấp, xã do mình phụ trách. Họ cùng Đảng bộ cơ sở
xây dựng những chủ trương, chính sách cụ thể phù hợp với địa phương
mình. Chính đội ngũ này trực tiếp chỉ đạo và tham gia tổ chức thực hiện chủ
trương, chính sách đó, đồng thời kiểm tra, uốn nắn khuynh hướng lệch lạc
trong tổ chức thực hiện.
Những công việc của cán bộ cơ sở hết sức cụ thể. Họ là người trực tiếp
nhận và xử lý những yêu cầu của dân. Họ phải giải quyết những công việc như
xác nhận hồ sơ, lý lịch, ký tên, đóng dấu, chăm lo mọi mặt về đời sống kinh tế

12


văn hóa, y tế, giáo dục, quan tâm tới các gia đình chính sách, chống các tệ nạn
xã hội v.v... Có một điểm đặc thù là cán bộ cơ sở khi giải quyết những công
việc lớn nhỏ, họ vừa phải thực hiện với trách nhiệm của một cán bộ lãnh đạo
lại vừa là một công dân bình thường đang sống trong cùng làng, xóm với nhiều
mối quan hệ cụ thể. Vì thế, trong cách làm của họ luôn phải thấu lý, đạt tình.
Tất cả những chủ trương, chính sách từ Trung ương đến tỉnh, quận, huyện và
cuối cùng là xã, phường có đến được dân hay không, có trở thành hiện thực
sống động hay không đều nhờ vào tài trí của đội ngũ cán bộ cơ sở. Để hoàn
thành nhiệm vụ, người cán bộ cơ sở phải không ngừng phấn đấu học tập, rèn
luyện, tiếp thu những tri thức mới đồng thời gạt bỏ những tư tưởng, tâm lý lạc
hậu, những lối suy nghĩ giản đơn, kinh nghiệm, giáo điều v.v
Có thể nói, đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ cơ sở nói riêng có vai

trò và vị trí đặc biệt quan trọng như Hồ Chí Minh đã khẳng định “cán bộ là
gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hay kém”. Do vậy, cán bộ là nhân tố quyết định cho sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, đất nước và của cả dân tộc. Sự nghiệp
đổi mới đất nước muốn thành công phải tạo sự chuyển biến tích cực từ cơ sở,
mà sự chuyển biến ở cơ sở lại phụ thuộc rất quan trọng ở chất lượng đội ngũ
cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của công tác đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản năm 1848, Các Mác - Ăng ghen
khẳng định người làm cách mạng cần có sự hiểu biết về lý luận “ Về mặt thực
tiễn, những người cộng sản là những bộ phận kiên quyết nhất trong các Đảng
công nhân của các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên.
Về mặt lý luận họ hơn bộ phận còn lại của cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu những
điều kiện, tiến trình và kết qủa chung của phong trào vô sản” [11, tr.614-615].
Các Mác - Ăng ghen cũng khẳng định đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục lý luận

13


chính trị cho đội ngũ cán bộ là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của mỗi
Đảng cộng sản và đây cũng là điều kiện dẫn đến thắng lợi của các phong trào
cách mạng với sự vững vàng trong lí luận chính trị mà giai cấp vô sản”…sẽ
có khả năng đảm nhận vai trò lãnh đạo nhờ sự hơn hẳn về lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn của mình…” [10, tr.632].
Lênin đã dạy: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng”. Người khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào” [52, tr.143] và “Chỉ có đảng nào có được lý
luận tiền phong dẫn đường thì đảng đó mới có thể hoàn thành vai trò cách

mạng tiền phong.”
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và quan tâm đến công tác đào tạo,
bồi dưỡng lí luận chính trị, theo Người đây là hoạt động quan trọng quyết
định sự nghiệp cách mạng xuyên suốt mọi giai đoạn lịch sử. Người khẳng
định: “ Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ hướng cho chúng ta trong công
việc thực tế” [41, tr.233] và “ Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”
[41, tr.269].
Do thấy được vai trò to lớn của công tác đào tạo và bồi dưỡng lý luận
chính trị, qua nhiều năm khảo sát thực tế và tiếp thu kinh nghiệm của cuộc
Cách mạng Tháng 10 Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra rằng muốn
đánh đuổi thực dân đế quốc giành độc lập tự do cho đất nước thì trước hết
phải làm cho dân giác ngộ, tức là phải tiếp thu lý luận chính trị của Đảng và
hành động cách mạng theo phương châm của Đảng.
Theo Người, cách mạng muốn thành công, Đảng phải vững mạnh,
Đảng muốn vững mạnh, Đảng phải có lý luận soi đường và tất cả cán bộ,
Đảng viên cần phải hiểu và thực hành theo lí luận đó. Người cho rằng công

14


tác giáo dục lý luận chính trị của Đảng tiên phong phải đạt trình độ tiên phong
vì: "Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải
hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như
người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam" [40, tr.268].
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lý luận chính
trị là giáo dục chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, nâng cao đạo đức
cách mạng cho các bộ đảng viên và quần chúng nhân dân, nhằm thống nhất về
tư tưởng, ý chí, phẩm chất cách mạng và năng lực hoạt động thực tiễn của họ,
hướng dẫn họ vận dụng những hiểu biết ấy vào cuộc sống. Đồng thời, Người
cũng chỉ rõ phải chống thói xem nhẹ học tập lý luận chính trị, vì “ Không học

tập lý luận chính trị thì chí khí kém kiên quyết, không trông xa thấy rộng,
trong lúc đấu tranh dễ lạc phương hướng, kết quả là “mù chính trị”, thậm chí
hủ hóa và xa rời cách mạng” [40, tr.234].
Chính vì vậy, Người yêu cầu: "Từ nay trở đi công tác giáo dục đảng
viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy Phải
bồi dưỡng giảng viên lý luận cho chi bộ. Tất cả các đảng viên phải cố gắng
học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của
mình"[42, tr.95- 96] đó chính là những định hướng mà Người nêu ra cho mỗi
cán bộ đảng viên.
Cách học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học ở mọi nơi, mọi lúc, học
suốt đời coi trong việc tự học, Người chỉ rõ: "Cách mạng tiến lên mãi, Đảng
ta tiến lên mãi". Cho nên cán bộ đảng viên phải thường xuyên trau dồi lý luận
chính trị, vì cán bộ là gốc của mọi công việc. "Công việc thành hay bại là do
cán bộ tốt hay xấu". Sự phát triển của tư duy, nhận thức, học vấn, trình độ văn
hoá của cán bộ đảng viên là quá trình khổ công rèn luyện, tích luỹ kiến thức,
đó chính là con đường phát triển của tư duy khoa học và tư duy lý luận chính
trị. Người căn dặn: "Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử

15


trí mọi công việc đối với mọi người và đối với bản thân mình", “Học để làm
việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân,
Tổ quốc và nhân loại”...[41, tr.684].
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác- Lênin, phong trào
công nhân với chủ nghĩa yêu nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng luôn
lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho mọi hành động của mình. Điều đó được khẳng định rõ trong
cương lĩnh đầu tiên (1930) và sau này trong cương lĩnh xây dựng đất nước

được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): “ Đảng
lấy chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,
kim chỉ nam cho hành động”[12, tr.127].
Đảng rất coi trọng việc học tập và nghiên cứu, vận dụng sáng tạo học
thuyết Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào từng điều kiện cụ thể. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) Đảng tiếp tục khẳng định: Phải nâng cao
bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
vận dụng và phát triển sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của Đảng. Nâng cao
chất lượng nghiên cứu lý luận, công tác tư tưởng trong Đảng, nhất là trong đội
ngũ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ cơ sở [21, tr.49].
Để thực hiện tốt chức năng cơ bản của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ
sở như chỉ đạo, điều hành, xây dựng kế hoạch hoạt động , đề ra các giải pháp
cụ thể, tổ chức chỉ đạo cấp dưới thực hiện nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo. Đội
ngũ các bộ phải được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Nội dung của công
tác đào tạo, bồi dưỡng giáo dục lý luận chính trị là rất rộng, bao gồm việc
giáo dục những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối quan điểm

16


của Đảng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, lịch sử Đảng, xây dựng Đảng,
những kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của các nước.
Nước ta có một lực lượng đội ngũ cán bộ cơ sở khá đông đảo, có
phẩm chất đạo đức tốt, có trách nhiệm, có ý chí phấn đấu vươn lên. Tuy
nhiên trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên ở cơ sở nhất là những
đảng viên mới kết nạp, đảng viên là người dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng
xa đang là vấn đề được quan tâm. Bên cạnh đó, trong thực tế vẫn còn những
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở chưa đủ năng lực về chuyên môn, năng lực
về lãnh đạo, quản lý chính vì vậy chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn cách mạng mới, dẫn đến hiệu quả công tác chỉ đạo, lãnh đạo

quần chúng còn hạn chế.
Trong quá trình đổi mới ,bên cạnh những ảnh hưởng tích cực ngày càng
xuất hiện nhiều yếu tố tiêu cực và sự chống phá của các thế lực thù địch, đặc
biệt là sự tấn công vào các nền tảng tư tưởng - chính trị của Đảng từ nhiều
phía, là dao động tư tưởng và sự hoài nghi trong một số bộ phận cán bộ, đảng
viên ở cơ sở vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam. Vì thế, đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị thống nhất về quan điểm, lý
tưởng chính trị, củng cố niềm tin, lập trường cho cán bộ cơ sở là vô cùng quan
trọng và cần thiết nhằm nâng cao nhận thức, hình thành thái độ đúng đắn, có ý
chí sắt đá, sẵn sàng hành động nhằm thực hiện tốt công việc mà Đảng và Nhà
nước đã giao phó.
1.2. Vài nét khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc điểm
dân cư, lịch sử truyền thống yêu nước và cách mạng tỉnh Phú Thọ
1.2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc điểm dân cư
Về điều kiện tự nhiên: Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Trung du miền
núi phía Bắc, nằm ở toạ độ địa lý giữa 21o và 22o vĩ độ Bắc, 105o kinh độ
Ðông, cách thủ đô Hà Nội 85 km về phía Tây Bắc, đi theo Quốc lộ 2. Phía

17


Bắc giáp Tuyên Quang và Yên Bái; phía Nam giáp tỉnh Hòa Bình; phía Đông
giáp tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc; phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Đặc điểm địa hình nổi bật của Phú Thọ là bị chia cắt tương đối mạnh vì
nằm ở cuối dãy Hoàng Liên Sơn, nơi chuyển tiếp giữa miền núi cao và miền
núi thấp, gò đồi, độ cao giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
Phú Thọ có địa hình đa dạng, vừa có miền núi, vừa có trung du và đồng
bằng, thuận lợi để phát triển nông, lâm nghiệp hàng hóa với những cây trồng,
vật nuôi có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, do địa hình chia cắt, mức độ cao thấp
khác nhau nên việc đầu tư khai thác tiềm năng, phát triển sản xuất, phát triển hạ

tầng để phát triển kinh tế - xã hội phải đầu tư tốn kém nhất là giao thông, thủy
lợi, cấp điện, cấp nước… ở vùng miền núi, dân tộc.
Tính chất địa hình và cấu tạo địa chất trên đây đã tạo cho Phú Thọ có
khá nhiều khoáng sản như pirit, penpat, cao lanh, đá xây dựng, cát, sỏi và
nước khoáng nóng… Đây là lợi thế để Phú Thọ phát triển mạnh công nghiệp
khai thác và chế biến khoáng sản, công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng.
Tuy nhiên, phần lớn khoáng sản đều phân bố ở khu vực phía Tây của tỉnh
(hữu ngạn sông Hồng), khu vực lãnh thổ đang có hạ tầng yếu kém nên việc
đầu tư đẩy mạnh khai thác trước mắt sẽ còn gặp khó khăn.
Về kinh tế - xã hội: Phú Thọ có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp
chế biến nông - lâm sản. Khai thác và chế biến khoáng sản, sản xuất vật liệu
xây dựng, công nghiệp dệt, may vì ở Phú Thọ có nguồn nguyên liệu, lực
lượng lao động tại chỗ; đã xây dựng được một số khu công nghiệp, cụm công
nghiệp và đầu tư với tốc độ nhanh.
Khu di tích lịch sử Đền Hùng gắn liền với lịch sử dựng nước của dân
tộc; đầm Ao Châu, vườn quốc gia Xuân Sơn, vùng nước khoáng nóng Thanh
Thuỷ, khu du lịch núi Trang… là những tiềm năng lớn để Phú Thọ phát triển
du lịch.

18


×