Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Pháp luật về quản lý chất thải nguy hại và một số giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.56 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN MẠNH TƯỞNG

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


HÀ NỘI - 2012

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


NGUYỄN MẠNH TƯỞNG

PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY
HẠI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ




HÀ NỘI – 2012

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan, các cấp lãnh đạo và các cá nhân.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
Thầy giáo hướng dẫn luận văn, PGS.TS. Phạm Hữu Nghị và các thầy cô
giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn;
Khoa Luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội;
Các đồng nghiệp công tác tại Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và
môi trường; các đồng nghiệp công tác tại các đơn vị trực thuộc Bộ Tài nguyên và
Môi trường;
Tôi xin bày bỏ lòng biết ơn những người thân trong gia đình, bạn bè đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này./.
Hà Nội, tháng 11 năm 2012
Tác giả

Nguyễn Mạnh Tưởng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.
Trân trọng cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Mạnh Tưởng


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC……………………………………………………………………….i
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT……………………………...……......vii
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI………………....1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI…………………………………..….2
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU………………………………....3
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU…………………………..…..4
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI…………………………..….…5
6. NHỮNG KẾT QUẢ MỚI CỦA LUẬN VĂN…………………………...5
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN……………………………………………..…7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI VÀ
PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI……………………..…..7
1. 1. Những vấn đề lý luận về quản lý chất thải nguy hại…………………….7

i


1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại……………………………………………..…..7
1.1.2. Khái niệm quản lý chất thải nguy hại…………………………………..……13

1.1.3. Tính tất yếu của quản lý CTNH………………………………………………17
1.2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT
THẢI NGUY HẠI………………………………………………………..……20
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật quản lý chất thải nguy hại………...…
20
1.2.1.1. Khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại…………………….….…
20
1.2.1.2. Vai trò của pháp luật quản lý chất thải nguy hại……………………..…..23
1.2.2. Các nội dung cơ bản của pháp luật quản lý chất thải nguy hại…...…25
1.2.2.1. Pháp luật về quản lý nguồn phát sinh chất thải nguy hại…………….
….25
1.2.3.2. Pháp luật về thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại……………………27
1.2.3.3. Pháp luật về xử lý, tiêu hủy chất thải nguy hại…………………………..31
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT

ii


NAM………………………………………………………….…………34
2.1. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ NGUỒN PHÁT SINH
CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM……………………………………34
2.1.1. Thực trạng pháp luật về Sổ đăng ký chủ nguồn thải chất thải nguy hại và
mã số quản lý chất thải nguy hại……………………………………………..………34
2.1.2. Thực trạng pháp luật về giảm thiểu, phân loại, đóng gói,
lưu

giữ




chuyển

giao

chất

thải

nguy

hại………………………………………………….36
2.1.3. Thực trạng pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong
quản



nguồn

phát

sinh

chất

thải

nguy

hại…………………………………………………40

2.1.4. Thực trạng pháp luật về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi
trường

do

chất

thải

nguy

hại

tại

nguồn

thải…………………………………...……………43
2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU GOM, VẬN CHUYỂN
CHẤT

THẢI

NGUY

HẠI



VIỆT


NAM……………………….

…………….……44
2.2.1. Thực trạng pháp luật về thu gom, vận chuyển chất thải nguy hại trong
phạm vi lãnh thổ quốc gia………………………………………………………….…44.
2.2.1.1. Thực trạng pháp luật về giấy phép hành nghề vận chuyển chất thải

iii


nguy

hại…………………………………………………………………………………..

……44
2.2.1.2. Thực trạng pháp luật về phòng ngừa, khắc phục ô
nhiễm, sự cố môi trường trong hoạt động vận chuyển chất thải
nguy hại..................48
2.2.2. Thực trạng pháp luật về xuất nhập khẩu và vận chuyển chất thải nguy hại
qua

biên

giới.........................................................................................................52
2.2.2.1. Thực trạng pháp luật về xuất nhập khẩu chất thải nguy
hại...................52
2.2.2.2. Thực trạng pháp luật về vận chuyển chất thải nguy hại qua biên
giới..57
2.3. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ, TIÊU HỦY CHẤT THẢI

NGUY HẠI Ở VIỆT NAM................................................................................60
2.3.1. Thực trạng pháp luật về giấy phép hành nghề xử lý, tiêu hủy chất thải
nguy hại................................................................................................................60
2.3.2. Thực trạng pháp luật về tái chế, tái sử dụng chất thải
nguy hại..66
2.3.3. Thực trạng pháp luật về tiêu hủy chất thải nguy hại……………………….69

iv


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ
CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM……………………………………75
3.1. CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN
LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI Ở VIỆT NAM ………………………75
3.1.1. Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về quản lý nguồn phát
sinh chất thải nguy hại………………………………………………………………..75
3.1.1.1. Xây dựng một số quy định chi tiết về quản lý nguồn
phát

sinh

chất

thải

nguy

hại………………………………………………………………………75
3.1.1.2. Sửa đổi và bổ sung các quy định về xử lý vi phạm pháp

luật

đối

với

chủ

nguồn

thải………………………………………………………………………78
3.1.1.3. Xây dựng các quy định pháp luật về sản xuất sạch hơn
nhằm

giảm

thiểu

chất

thải

nguy

hại

tại

nguồn…………………………………………..80
3.1.2. Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thu gom, vận chuyển

chất thải nguy hại………………………………………………….............………….81
3.1.2.1. Sửa đổi quy định về giấy phép hành nghề thu gom, vận chuyển chất thải
nguy

hại……………………………………………………..……………………………

v


82

3.1.2.2. Sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phòng ngừa, khắc phục ô
nhiễm, sự cố môi trường trong hoạt động vận chuyển chất thải nguy hại………84
3.1.2.3. Sửa đổi, bổ sung các quy định về xuất nhập khẩu và vận chuyển chất
thải nguy hại qua biên giới……………………………………………………………
85
3.1.3. Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xử lý, tiêu hủy chất
thải nguy hại…………………………………………………………………………….86
3.1.3.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về giấy phép hành nghề xử lý, tiêu
hủy chất thải nguy hại…………………………………………………………………86
3.1.3.2. Xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về tái
chế, tái sử dụng chất thải nguy hại…………………………………….
………………………..88
3.1.3.3. Hoàn thiện các quy định về tiêu hủy chất thải nguy hại…………………89
3.1.4. Xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế
trong quản lý chất thải nguy hại………………………………………………………
90
3.1.4.1. Hoàn thiện các quy định về ưu đãi, hỗ trợ của nhà nước đối với
hoạt động giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng chất thải nguy hại…………….………
vi



93
3.1.5. Xây dựng các quy định pháp luật về quản lý khí thải nguy hại, quản lý
chất thải nguy hại nông nghiệp và sinh hoạt, quản lý các chất hữu cơ khó phân
huỷ theo Công ước Stockholm và sự giám sát của cộng đồng trong quản lý...…94
3.1.5.1. Xây dựng các quy định pháp luật về quản lý khí thải nguy
hại………....94
3.1.5.2. Xây dựng các quy định pháp luật về quản lý chất thải nguy hại nông
nghiệp và sinh hoạt……………………………………………………………………..96
3.1.5.3. Xây dựng các quy định pháp luật về quản lý các chất hữu cơ khó phân
huỷ theo Công ước Stockholm………………………………………………………...97
KẾT LUẬN…………………………………………………………………...100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………102

vii


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BTNMT: Bộ Tài nguyên và Môi trường
BXD: Bộ Xây dựng
BTC: Bộ Tài chính
EU: Liên minh Châu Âu
UNEP: Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc
CTNH: Chất thải nguy hại
TCXDVN: Tiêu chuẩn xây dựng Việt nam
UBND: Ủy ban nhân dân
Quy chế: Quy chế quản lý chất thải nguy hại ban hành kèm theo Quyết định số
155/1999/QĐ-TTg ngày 16/07/1999.
Thông tư 12/2006: Thông tư số 12/2006/TT-BTNMT ban hành ngày 26/12/2006

hướng dẫn điều kiện hành nghề và thủ tục lập hồ sơ, đăng ký, cấp phép hành
nghề, mã số quản lý chất thải nguy hại.
Thông tư 12/2011: Thông tư số 12/2011/TT-BTNMT ban hành ngày 14/4/2011
Quy định về Quản lý chất thải nguy hại.
ĐTM: Đánh giá tác động môi trường.
TBVTV: Thuốc bảo vệ thực vật.
POPS: Chất ô nhiễm hữu cơ bền

viii


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Ô nhiễm môi trường là một thách thức lớn không chỉ đối với Việt Nam
mà của toàn thế giới. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng này là do các
chất gây ô nhiễm từ các loại chất thải, đặc biệt là chất thải nguy hại phát sinh
trong quá trình tiến hành các hoạt động phát triển của con người.
Vấn đề CTNH và ô nhiễm do CTNH là một trong những vấn đề bức
xúc hiện nay. Các loại CTNH không được quản lý một cách có hiệu quả đã
làm cho môi trường trở thành xấu đi. Tình trạng xả thải CTNH chưa qua xử lý
vào môi trường đã làm cho chất lượng môi trường sống của người dân Việt
nam bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Môi trường bị ô nhiễm do CTNH đã ảnh
hưởng trực tiếp đến sức khỏe người dân, ảnh hưởng tới quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước và tác động tiêu cực tới mục tiêu phát triển bền
vững mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
Thời gian qua ở nước ta đã xảy ra nhiều sự cố liên quan đến môi trường
điển hình là vụ xả thải ở trái phép ở nhà máy sản xuất mì chính VEDAN ở
tỉnh Đồng Nai, nhà máy Supe phốt phát Lâm Thao, nhà máy mì chính
MIWON, nhà máy giấy Bãi Bằng tỉnh Phú Thọ, nhập khẩu ác quy chì, nhập
khẩu phế liệu như tàu thuyền gây ô nhiễm môi trường ở cảng Hải

Phòng,v.v…
Một trong những nguyên nhân là do chúng ta chưa có hệ thống pháp
luật về quản lý CTNH có hiệu quả. Luật Bảo vệ môi trường 2005 đã luật hóa
một số quy định trước đây và xây dựng một số quy định mới về quản lý
CTNH. Tuy nhiên, vì nhiều lý do khác nhau mà các quy định này còn chưa
bảo đảm tính thống nhất, chất lượng còn hạn chế và còn nhiều khoảng trống.
Nhận thức rõ điều đó, trong những năm gần đây hệ thống pháp luật về bảo vệ
môi trường nói chung và pháp luật về quản lý CTNH nói riêng đã từng bước

1


được xây dựng đáp ứng yêu cầu đó. Tuy vậy, cơ sở pháp lý cho các hoạt động
quản lý CTNH ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được các đòi
hỏi mà thực tiễn đang và sẽ đặt ra.
Việc nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống và toàn diện các quy
định pháp luật về quản lý và thực trạng quản lý CTNH bằng pháp luật để từ
đó đề ra những giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp
dụng của chúng là yêu cầu cấp thiết đối với việc bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững. Chính vì lý do này mà tôi đã chọn đề tài “ Pháp luật về quản
lý chất thải nguy hại và một số giải pháp hoàn thiện” làm luận văn Thạc sỹ
luật học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Trên thế giới, đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật quản lý
chất thải nguy hại, có thể kể đến cuốn “Hazardous waste compliance” của
Clifford Florczak và James Roughton do Nhà xuất bản Butterworth –
Heinemann ấn hành năm 2001. Ngoài ra còn một số công trình nghiên cứu về
cơ sở kinh tế và chính trị cho việc xây dựng khung pháp luật quản lý chất thải
nguy hại như chuyên khảo “The regulation of toxic substances and hazardous
wastes” của Cellia Campel – Mohn, Jan G.Laitos và John S. Applegate, nhà

xuất bản Thomson West.
Tại Việt Nam, pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật
quản lý chất thải nguy hại nói riêng là lĩnh vực tương đối mới mẻ so với các
lĩnh vực pháp luật khác. Dưới góc độ quản lý chất thải nguy hại nói chung, có
thể kể đến cuốn “Quản lý chất thải nguy hại” của tác giả Nguyễn Đức KhiểnNXB Xây dựng Hà nội 2003; Giáo trình quản lý chất thải nguy hại của Đại
học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – NXB Xây dựng năm 2006; hay luận
văn thạc sỹ của Nguyễn Hoà Bình (năm 2004) với đề tài: “Điều tra, đánh giá
tình hình quản lý chất thải rắn nguy hại của Việt Nam và đề xuất một số giải
pháp quản lý có hiệu quả”… Các công trình nghiên cứu về CTNH từ góc độ
2


pháp lý thì không nhiều. Riêng trong lĩnh vực quản lý chất thải nguy hại, có
một số bài viết, công trình nghiên cứu ở những góc độ khác nhau đã được
công bố. Dưới góc độ quản lý chất thải nguy hại nói chung, có thể kể đến
cuốn “Quản lý chất thải nguy hại” của tác giả Nguyễn Đức Khiển- NXB Xây
dựng Hà nội 2003; Giáo trình quản lý chất thải nguy hại của Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh – NXB Xây dựng năm 2006; hay luận văn thạc sỹ
của Nguyễn Hoà Bình (năm 2004) với đề tài: “Điều tra, đánh giá tình hình
quản lý chất thải rắn nguy hại của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp quản
lý có hiệu quả”… Các công trình nghiên cứu về CTNH từ góc độ pháp lý thì
không nhiều. Bên cạnh một số khoá luận tốt nghiệp của các sinh viên Trường
Đại học Luật Hà Nội, chỉ có một vài bài viết về vấn đề này như: bài viết của
tác giả Nguyễn Hoà Bình đăng trên tạp chí Bảo vệ môi trường năm 2000 và
2002 của Cục môi trường “Một số công việc cần triển khai thực hiện quy chế
quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam”; “Thực hiện công ước Basel về kiểm
soát vận chuyển xuyên biên giới chất thải nguy hại”; bài viết của tác giả Lê
Kim Nguyệt “Một cơ chế phù hợp cho quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam"
đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp tháng 11 năm 2002; bài viết của TS.
Nguyễn Văn Phương với tiêu đề “Khái niệm chất thải và quy định về xuất

nhập khẩu chất thải của Cộng hoà liên bang Đức” trong cuốn “Bảo vệ môi
trường và phát triển bền vững” do NXB Khoa học và Kỹ thuật ấn hành năm
2008 và mới đây là đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường mã số LH-0816/ĐHL của Trường đại học Luật Hà Nội “Hoàn thiện pháp luật về quản lý
chất thải” năm 2008. Luận án Tiến sỹ của Vũ Thị Duyên Thủy “Xây dựng và
hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam”…
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
* Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn là làm sang tỏ những vấn đề lý luận về pháp luật
quản lý chất thải nguy hại, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
3


pháp luật trong quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở đó,
luận án đề xuất các giải pháp để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của
pháp luật trong lĩnh vực này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm
vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu, đánh giá những quan điểm, luận điểm khoa học về chất
thải nguy hại, quản lý chất thải nguy hại và pháp luật quản lý chất thải nguy
hại như: khái niệm chất thải nguy hại; khái niệm quản lý chất thải nguy hại,
đặc trưng của quản lý chất thải nguy hại và tính tất yếu của quản lý chất thải
nguy hại; khái niệm pháp luật quản lý chất thải nguy hại và những nội dung
cơ bản của pháp luật quản lý chất thải nguy hại…
- Nghiên cứu, đánh giá một số quy định pháp luật hiện hành về quản lý
chất thải nguy hại cũng như thực tiễn áp dụng chúng để tìm ra những tồn tại,
vướng mắc của hệ thống pháp luật trong lĩnh vực này;
- Phân tích các yêu cầu và đề xuất giải pháp xây dựng, hoàn thiện nhằm
nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam

hiện nay và trong thời gian sắp tới.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn bao gồm:
- Hệ thống các quy định pháp của Việt Nam về quản lý chất thải nguy
hại;
- Một số Công ước quốc tế về chất thải nguy hại và pháp luật của một
số nước trên thế giới về quản lý chất thải nguy hại;
- Thực tiễn thi hành pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam
trong thời gian qua.
4


* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn không giải quyết tất cả các vấn đề về quản lý chất thải nguy
hại theo nghĩa rộng mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản
lý chất thải nguy hại và pháp luật quản lý chất thải nguy hại, thực trạng áp
dụng pháp luật trên thực tế làm cơ sở cho việc xác định các yêu cầu và giải
pháp xây dựng, hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại của Việt Nam
trong thời gian tới.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
+Phân tích, so sánh các quy định pháp luật Việt nam và luật pháp của một
số quốc gia điển hình, thu thập kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia
trong khu vực và thế giới.
+Phỏng vấn chuyên gia trong việc soạn thảo, ban hành Chiến lược, chính
sách, biện pháp, công cụ về quản lý CTNH, chỉ ra những điểm còn hạn chế
trong việc xây dựng, ban hành và thực thi các quy định đó trong cuộc sống.
+Rút ra những ưu điểm trong quy định của pháp luật quốc tế và luật pháp
của một số nước điển hình trên thế giới về vấn đề này; xem xét tính phù hợp
với điều kiện của Việt Nam để hướng tới việc hoàn thiện các quy định của

pháp luật Việt Nam trong quản lý CTNH nhằm kết hợp hài hòa lợi ích giữa
phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Bên cạnh đó, còn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, thống kê, so sánh,
lịch sử, chứng minh, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch cũng được kết hợp sử dụng
để triển khai thực hiện đề tài. Trong đó, phân tích, thống kê, so sánh và chứng
minh được xác định là những phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn.
6. NHỮNG KẾT QUẢ MỚI CỦA LUẬN VĂN
Luận văn có những kết quả mới cơ bản sau:

5


Một là, luận văn góp phần xây dựng hệ thống lý luận về pháp luật quản
lý chất thải nói chung và pháp luật quản lý chất thải nguy hại nói riêng. Gợi
mở những cách tư duy, cách tiếp cận pháp lý mới để giải quyết những vấn đề
lý luận cũng như thực tiễn đang đặt ra ở Việt Nam trong việc quản lý một
cách hiệu quả các loại chất thải nguy hại, đảm bảo chất lượng môi trường
sống và sức khoẻ cộng đồng.
Hai là, luận văn đã đánh giá một cách hệ thống và khoa học những ưu
điểm, nhược điểm của hệ thống pháp luật hiện hành về quản lý chất thải nguy
hại ở Việt Nam. Những đánh giá về thực tiễn thi hành các quy định pháp luật
trong lĩnh vực này cùng những nguyên nhân cơ bản của nó.
Ba là, luận văn đã xác định rõ những yêu cầu cơ bản của việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam hiện nay.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận án được kết cầu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản lý chất thải nguy hại và pháp

luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý chất thải nguy hại ở Việt
Nam.
Chương 3: Các giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật quản lý chất
thải nguy hại ở Việt Nam.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
VÀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
1. 1. Những vấn đề lý luận về quản lý chất thải nguy hại
1.1.1. Khái niệm chất thải nguy hại
Chất thải và quản lý chất thải là một trong những thách thức lớn về môi
trường mà tất cả các quốc gia trên thế giới hiện đang phải đối đầu. Theo cách
hiểu thông thường, chất thải là những chất mà con người bỏ đi, không tiếp tục
sử dụng nữa. Khi bị thải bỏ, những chất này tồn tại trong môi trường dưới
những trạng thái nhất định và có thể gây ra rất nhiều tác động bất lợi cho môi
trường cũng như sức khoẻ con người. Tuỳ theo mức độ gây tác động xấu của
chúng, chất thải có thể được phân loại thành chất thải thông thường và
CTNH. Theo đó, dưới giác độ ngữ nghĩa thì CTNH được hiểu là loại chất thải
có nguy cơ gây ảnh hưởng xấu cho môi trường và sức khoẻ con người cao
hơn so với chất thải thông thường.
Chất thải nguy hại (Hazadous wastes) là một thuật ngữ xuất hiện lần
đầu tiên vào khoảng những năm 70 của thế kỷ trước ở các nước Âu – Mỹ.
Thuật ngữ này sau đó đã được mở rộng sang nhiều quốc gia khác. Cùng với
tiến trình phát triển, sau một thời gian, tùy thuộc vào quan điểm và cách tiếp
cận cũng như sự phát triển của khoa học kỹ thuật, mỗi nước có cách định
nghĩa khác nhau về CTNH. Chính vì lẽ đó, trên thế giới hiện có rất nhiều cách

định nghĩa về loại chất thải này.
Theo chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP) thì:
“CTNH là những chất thải (không kể chất thải phóng xạ) có hoạt tính hoá
học, có tính độc hại, cháy nổ, ăn mòn gây nguy hiểm hoặc có thể gây nguy
hiểm đến sức khoẻ con người hay môi trường khi tồn tại riêng lẻ hoặc tiếp
xúc với các chất thải khác” [54]. Như vậy trong định nghĩa này của UNEP,
CTNH được hiểu là loại chất thải có mang các đặc tính hóa học, độc hại, ăn
7


mòn, có thể gây cháy nổ khi chúng tồn tại một cách độc lập hoặc tương tác
với các chất khác trong môi trường khi tiếp xúc. Với những đặc tính này,
CTNH có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe, tính mạng con người và gây ảnh
hưởng xấu đối với các thành phần môi trường khác. Nói cách khác, theo định
nghĩa này, việc xác định một chất thải có phải là chất thải nguy hại hay không
sẽ được thực hiện dựa trên một tiêu chí duy nhất. Đó là các đặc tính gây nguy
hại đối với môi trường và sức khỏe con người của chất thải. Bên cạnh đó,
định nghĩa này của UNEP cũng chỉ rõ, chất thải phóng xạ không được tính là
chất thải nguy hại. Thực tế, chất thải phóng xạ là loại chất thải có tính độc hại
và có thể gây nguy hiểm đến sức khoẻ con người cũng như môi trường nếu
như không được quản lý tốt. Song, đây lại là loại chất thải mang những đặc
thù riêng nên các quốc gia cần có quy chế riêng để quản lý và kiểm soát một
cách chặt chẽ.
Luật bảo tồn và phục hồi tài nguyên Mỹ năm 1976 (Resource
Conservation and Recovery Act - RCRA) lại đưa ra định nghĩa về chất thải
nguy hại như sau: “CTNH là chất thải (ở dạng rắn, bán rắn, lỏng và khí) có
khối lượng, nồng độ hoặc các tính chất vật lý, hóa học, lây nhiễm mà khi xử
lý, vận chuyển, thải bỏ hoặc bằng những cách quản lý khác có thể gây ra
nguy hiểm hay tiếp tục tăng nguy hiểm hoặc làm tăng đáng kể số tử vong,
hoặc làm mất khả năng phục hồi sức khỏe của người bệnh” [50]. Cũng tương

tự như định nghĩa nêu trên của UNEP, định nghĩa này của Mỹ đã chỉ rõ tiêu
chí cơ bản để xác định CTNH là các đặc tính nguy hại của chúng đối với sức
khỏe con người. Tuy nhiên, không khó để có thể nhận rõ những khác biệt nhỏ
trong hai định nghĩa này. Đó là:
i) Đạo luật RCRA không nhấn mạnh đến tác động nguy hại nói chung
của CTNH đối với môi trường như định nghĩa của UNEP mà nhấn mạnh tác
động của những đặc tính đó với sức khỏe con người nhưng chỉ với một khối
lượng và nồng độ nhất định. Điều đó có nghĩa, một loại chất thải bản thân nó
8


có thể chứa những đặc tính gây nguy hại, song những đặc tính này chỉ có thể
gây tác động xấu đến sức khỏe con người khi ở một nồng độ và với một khối
lượng nhất định.
ii) Đạo luật RCRA chỉ rõ trạng thái tồn tại của CTNH. Đây là loại chất
thải có thể tồn tại dưới nhiều trạng thái khác nhau như dạng rắn, dạng lỏng,
dạng khí và cả dạng bán rắn.
iii) Đạo luật RCRA không xác định chất thải phóng xạ nằm ngoài danh
mục CTNH.
Có thể thấy, xác định trạng thái tồn tại của CTNH là hoàn toàn cần thiết
vì nó giúp cho việc nhận dạng CTNH được đầy đủ và dễ dàng hơn. Song, nếu
không xem xét ảnh hưởng đến môi trường do các đặc tính nguy hại của loại
chất thải này sẽ là một thiếu sót. Bởi lẽ, với một đặc tính nguy hại nhất định, ở
một mức độ nhất định, một chất thải khi bị thải bỏ vào môi trường có thể chưa
gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người nhưng lại làm suy giảm chất
lượng đất hay làm cản trở nghiêm trọng sự phát triển của các sinh vật khác…
Trong trường hợp này, nếu chất thải đó không được xác định là CTNH thì
chưa thật sự hợp lý dưới góc độ bảo vệ môi trường.
Ở Việt Nam, dưới góc độ pháp lý, định nghĩa về chất thải nguy hại đã
chính thức được quy định lần đầu tiên tại Quy chế quản lý CTNH ban hành

kèm theo Quyết định 155/1999/QĐ- TTg ngày 16 tháng 7 năm 1999 của Thủ
tướng Chính phủ. Tại Khoản 2 Điều 3 của Quy chế này có quy định: “Chất
thải nguy hại là chất thải có chứa các chất hoặc hợp chất có một trong các
đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ
lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với các chất
khác gây nguy hại tới môi trường và sức khoẻ con người”,[9]. Có thể thấy,
cách tiếp cận này trùng với quan điểm của UNEP, song không chỉ rõ chất thải
phóng xạ không thuộc danh mục CTNH giống như định nghĩa của Canada và
Mỹ. Điều này xuất phát từ thực tế quản lý CTNH ở Việt Nam. Cho đến nay,
9


mặc dù Việt Nam đã có những quy định riêng về an toàn và kiểm soát bức xạ,
nhưng các loại chất thải phát sinh từ những hoạt động có liên quan đến lĩnh
vực này lại vẫn chưa có cơ chế quản lý riêng. Vì thế, chất thải phóng xạ, với
những đặc tính gây nguy hại cao cho môi trường và sức khỏe con người sẽ
tạm thời được quản lý theo quy chế chung về quản lý chất thải nguy hại.
Cùng với những đòi hỏi ngày càng cao của quản lý CTNH bằng pháp
luật, đến năm 2005, định nghĩa này một lần nữa được chỉnh sửa và hiện được
quy định tại Điều 3 Luật bảo vệ môi trường (2005) của Việt Nam như sau:
“Chất thải nguy hại là chất thải chứa yếu tố độc hại, phóng xạ, dễ cháy, dễ
nổ, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm, gây ngộ độc hoặc đặc tính nguy hại khác”. Như
vậy, định nghĩa này được xây dựng theo hướng liệt kê những đặc tính gây
nguy hại của CTNH mà không đề cập đến đối tượng chịu tác động của những
đặc tính đó. Điều này không giống với cách tiếp cận của Việt Nam trước đó
và cũng không theo xu hướng chung khá thống nhất của các nước trên thế
giới về vấn đề này. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, không đề cập đến đối tượng chịu tác động của các đặc tính
gây nguy hại của CTNH trong định nghĩa về CTNH là không đầy đủ. Vì theo
cách định nghĩa này, nếu một chất thải có chứa một trong các đặc tính gây

nguy hại nêu trên nhưng sẽ được xác định là CTNH khi nó gây tác động xấu
đồng thời cho môi trường và sức khỏe con người hay chỉ cần gây tác động
xấu với một trong hai đối tượng ấy. Vì thế, yếu tố này nếu không được xác
định rõ chắc chắn sẽ dẫn đến tình trạng thiếu thống nhất trong cách hiểu về
thuật ngữ này.
Thứ hai, định nghĩa này không chỉ rõ trạng thái tồn tại của CTNH.
Theo cách hiểu logic, CTNH là một loại chất thải nên nó cũng có đầy đủ các
trạng thái tồn tại giống như chất thải thông thường. Quan điểm của pháp luật
Việt Nam về vấn đề này đã được thể hiện khá rõ trong định nghĩa về chất thải
được nêu ở Điều 3 Luật bảo vệ môi trường: “Chất thải là vật chất ở thể rắn,
10


lỏng, khí được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt hoặc hoạt
động khác”. Như vậy, có thể hiểu, theo quan niệm của Việt Nam, CTNH cũng
sẽ được tồn tại dưới ba dạng. Đó là dạng rắn, dạng lỏng và dạng khí. Quan
niệm như thế là chưa đầy đủ. Trên thực tế, CTNH còn có thể tồn tại ở một số
dạng khác ngoài ba dạng tồn tại nêu trên như dạng sệt (các chất sệt hydroxit
kim loại), dạng bức xạ ion hóa…
Nói chung, cho đến nay, trên thế giới đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa
về CTNH. Mặc dù có những khác biệt về ngôn từ và cách diễn đạt, song tổng
hợp các định nghĩa nêu trên về CTNH cho thấy những dấu hiệu đặc trưng sau
để nhận biết CTNH:
Thứ nhất: CTNH mang đầy đủ những dấu hiệu đặc trưng của chất thải.
Thuật ngữ chất thải (waste) là một thuật ngữ dùng để chỉ những chất
hay vật liệu được loại bỏ ra từ các hoạt động của con người. Chúng có thể tồn
tại ở các dạng khác nhau. Hầu hết các chất thải đều có thể tái chế, tái sử dụng
được.
Để xác định một chất nào đó có phải là chất thải hay không cần dựa vào
ba dấu hiệu đặc trưng cơ bản sau:

i) Chất thải tồn tại dưới dạng vật chất ở dạng rắn, dạng lỏng, dạng khí
hoặc các dạng khác. Những yếu tố phi vật chất không thể được coi là chất
thải.
ii) Vật chất đó bị chủ sở hữu thải bỏ hoặc bị buộc phải thải bỏ. Nói
cách khác, các dạng vật chất sẽ được coi là chất thải khi người chủ sở hữu hay
sử dụng chúng thải bỏ một cách chủ động theo ý chí của họ hoặc phải thải bỏ
một cách bị động theo ý chí của nhà nước, không sử dụng nó vào bất kỳ mục
đích nào khác [57].
iii) Nguồn gốc phát sinh ra chất thải là từ các hoạt động của con người.
Đó là các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, sinh hoạt và các hoạt động
khác.
11


Thứ hai: Chất thải nguy hại có chứa các đặc tính gây nguy hại. Các đặc
tính gây nguy hại chủ yếu của loại chất thải này bao gồm:
i) Đặc tính dễ gây phản ứng: Đặc tính này đòi hỏi trong chất thải phải
chứa một hoặc nhiều chất dễ phản ứng. Đây là chất không bền vững trong
điều kiện thông thường. Nó có thể dễ dàng gây nổ hoặc phóng thích khói, hơi
mù, khí độc hại… khi chúng tiếp xúc với nước hay các dung môi.
ii) Đặc tính dễ cháy: Loại CTNH mang đặc tính này thường có chứa
chất dễ bốc cháy. Chất dễ bốc cháy là chất dễ bắt lửa và rất dễ bị cháy. Chúng
có thể bắt cháy ở nhiệt độ 600C.
iii) Đặc tính dễ ăn mòn: Chất thải có chứa chất ăn mòn là CTNH mang
đặc tính này. Chất ăn mòn là các chất thực hiện phản ứng oxy hoá khử rất
mạnh với nguyên vật liệu kim loại hoặc chứa kim loại.
iv) Đặc tính dễ gây độc hại: CTNH mang đặc tính dễ gây độc hại là loại
chất thải có chứa chất độc hại. Đây là các chất có tính độc hại hoặc gây ảnh
hưởng lớn đến sức khỏe và tính mạng của con người khi con người ăn uống
thực phẩm có chứa chúng hoặc hít thở, hấp thụ chúng như: các hoá chất độc

hại, các kim loại nặng, xyanua, cadimi… Các chất thải y tế bao gồm các mầm
mống gây bệnh truyền nhiễm cho con người và động vật thường mang đặc
tính này.
vi) Chất có tính phóng xạ: CTNH mang đặc tính này thường là loại chất
thải được sản sinh ra từ quá trình sản xuất năng lượng hạt nhân, các hoạt động
quân sự hay các hoạt động về y học. Chất thải phóng xạ được chia thành hai
loại theo mức độ nguy hại là chất thải phóng xạ mức độ thấp và chất thải
phóng xạ mức độ cao.
Như vậy, chất thải chỉ cần mang một trong các đặc tính gây nguy hại
nêu trên đã có thể được xác định là CTNH. Một loại chất thải nào đó có thể có
một trong các đặc điểm như khả năng gây độc, cháy, nổ, ăn mòn… song
những đặc điểm này chỉ trở thành đặc tính gây nguy hại khi tồn tại với một
12


khối lượng và nồng độ nhất định. Vì thế, chỉ cần một chất thải có chứa một
trong các đặc tính gây nguy hại là đủ để coi là CTNH mà không nhất thiết
phải nói đến khối lượng và nồng độ của nó như cách định nghĩa trong đạo luật
RCRA của Mỹ.
Thứ ba: CTNH có thể gây tác động xấu cho môi trường và sức khỏe
con người hoặc một trong hai yếu tố đó. Điều này có nghĩa là, khi chất thải có
mang một trong các đặc tính gây nguy hại mà đặc tính ấy có thể chỉ gây gây
ảnh hưởng xấu các hệ sinh thái khác, cho chất lượng môi trường hay chỉ gây
tác động bất lợi cho sức khỏe con người hoặc có thể gây tác động xấu đồng
thời cho cả hai đối tượng đó đều được xác định là CTNH.
Từ những phân tích nêu trên, ở Việt Nam, thuật ngữ CTNH dưới góc độ
pháp lý cần phải được định nghĩa như sau: “ Chất thải nguy hại là chất thải
tồn tại ở dạng rắn, lỏng, khí và các dạng khác, có một trong các đặc tính gây
nguy hại (dễ cháy, dễ nổ, dễ làm ngộ độc, dễ ăn mòn, dễ lây nhiễm và các đặc
tính gây nguy hại khác), có khả năng gây nguy hại đến sức khỏe con người

và/hoặc môi trường”.
Ở Việt Nam, theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ TN&MT số 23/2006/
QĐ- BTNMT ngày 26 tháng 12 năm 2006 về việc ban hành danh mục CTNH,
CTNH hiện được phân loại theo các nhóm nguồn hoặc dòng thải chính như:
Chất thải từ ngành thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí và than;
chất thải từ ngành sản xuất hoá chất vô cơ; chất thải từ ngành luyện kim; chất
thải hộ gia đình và chất thải sinh hoạt từ các nguồn khác; các loại chất thải
bao bì, chất hấp thụ, giẻ lau, vật liệu lọc và vải bảo vệ…
1.1.2. Khái niệm quản lý chất thải nguy hại
Quản lý là việc hoạt động tổ chức và điều khiển do các chủ thể khác
nhau tiến hành nhằm đạt tới những mục tiêu nhất định. Trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường nói chung và CTNH nói riêng, các hoạt động tổ chức và điều
khiển của các cơ quan nhà nước cũng như việc tổ chức quản lý CTNH của các
13


×