Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.14 KB, 104 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ HƯƠNG GIANG

THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
QUA THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS NGUYỄN MINH TUẤN

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ngô Thị Hương Giang



MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
LỜI CAM ĐOAN............................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội....................................................................................1
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!.........................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN......................................................................1
Ngô Thị Hương Giang..................................................................1


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

UBND

Ủy ban nhân dân


TAND

Tòa án nhân dân

BLDS

Bộ luật Dân sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TP

Thành phố


DANH MỤC BẢNG
LỜI CAM ĐOAN............................................................................1
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội....................................................................................1

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn................................................................1
Tôi xin chân thành cảm ơn!.........................................................1
NGƯỜI CAM ĐOAN......................................................................1
Ngô Thị Hương Giang..................................................................1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là một loại tài sản đặc biệt, có ý nghĩa
mà nhà nước hết sức quan tâm, chú trọng trong công tác quản lý, sử dụng.
Trước đây, đất đai ở nước ta được coi là tài nguyên thiên nhiên, một tư
liệu sản xuất của nông nghiệp, là môi trường sống và là địa bàn cho các hoạt
động của con người. Đến nay đất đai được xác định là nguồn lực, nguồn vốn
để phát triển nền kinh tế, quyền sử dụng đất là hàng hóa đặc biệt, là tài sản
của người sử dụng đất. Do đó, Nhà nước qui định một chế độ pháp lý riêng
đối với đất đai.
Ở Việt Nam, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng để phát triển
kinh tế quốc dân mà nhà nước là chủ sở hữu, còn người sử dụng đất, tuy không
phải là chủ sở hữu nhưng lại có 10 quyền tương tự như các quyền của một chủ
sở hữu tài sản và đương nhiên vì không phải chủ sở hữu nên người sử dụng loại
tài sản đặc biệt này có những hạn chế nhất định.
Trong các nước XHCN nói chung, Việt Nam nói riêng thì đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do nhà nước đại diện thực hiện quyền năng chủ sở hữu và thống
nhất quản lý. Đây chính là sự khác biệt cơ bản của chế độ XHCN và TBCN.
Trên cơ sở công hữu hoá tư liệu sản xuất chủ yếu là đất đai, Nhà nước sẽ điều
tiết được những lợi ích cơ bản trong xã hội.
Để thực hiện quyền sở hữu về đất đai, Nhà nước quy định chế độ sử dụng
đất, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, quy hoạch, xây dựng kế hoạch sử
dụng đất, mục đích sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chế độ tài

chính đất đai. Nhà nước giao quyền sử dụng đất như một tài sản cho người sử
dụng đất trong thời hạn phù hợp với mục đích sử dụng và nhà nước công nhận
quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất hợp pháp. Mặt khác, để khai

1


thác có hiệu quả đất đai, Nhà nước cho phép người sử dụng đất được thực hiện
các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh,
góp vốn, tặng cho đối với tài sản quyền sử dụng đất đối với một số chế độ sử
dụng đất cụ thể và trong thời hạn sử dụng đất.
Một trong những quan tâm lớn của Nhà nước ta trong thời kỳ công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước là tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai.
Trong 10 năm qua (1993-2003), hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về đất
đai của nước ta đã trở nên khá đồ sộ với hơn 200 văn bản riêng cho đất đai và
hơn 500 văn bản kể cả những văn bản có liên quan đến đất đai. Hệ thống pháp
luật đất đai từng bước được bổ sung thêm những quy định mới để theo kịp nhu
cầu phát triển kinh tế, đồng thời giải quyết kịp thời những bất cập về ổn định xã
hội trong sử dụng đất. Tính mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế và ổn định xã hội
trong sử dụng đất luôn xuất hiện, rồi được pháp luật điều chỉnh và lại xuất hiện
mâu thuẫn mới. Đến nay, một mặt nhịp độ phát triển kinh tế đòi hỏi quỹ đất
nhiều hơn làm phá vỡ đi nếp sống thường nhật, quyền sử dụng đất trở thành một
loại tài sản rất có giá trị trong nền kinh tế thị trường, từ đó làm cho các tranh
chấp, khiếu kiện trong nhân dân ngày càng nhiều về số lượng, phức tạp về mức
độ, rộng về phạm vi. Mặt khác, mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã
buộc chúng ta phải nhận thức chân thực về quy luật giá trị đối với đất đai. Giá trị
quyền sử dụng đất trở thành tài sản phát triển kinh tế, đồng thời cũng là thước đo
mức độ công bằng xã hội về sử dụng đất.
Trong các quyền năng của người sử dụng đất, thì quyền thừa kế có vị trí
hết sức đặc biệt. Do tính chất pháp lý đặc thù của loại tài sản này, nên BLDS

năm 1995 đã quy định vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất thành một chương
riêng, nhưng BLDS năm 2005 không còn quy định chế độ pháp lý riêng biệt về
thừa kế quyền sử dụng đất. Tuy không phải là một quy định mới trong BLDS,
nhưng để nhấn mạnh tầm quan trọng và tính chất đặc biệt của thừa kế quyền sử

2


dụng đất, BLDS năm 2005 vẫn quy định thành một chương riêng biệt và nội
dung thực hiện quyền sử dụng đất được quy định trong bộ luật này có nhiều
điểm mới ưu việt hơn. Theo Bộ luật này, quyền sử dụng đất là một loại tài sản
đặc biệt, có giá trị, có thể đưa vào giao lưu dân sự. Vì vậy quyền thừa kế loại tài
sản này cũng được thể hiện như đối với các loại tài sản khác dưới các hình thức
thừa kế theo quy định tại Phần 4 BLDS năm 2005. Tuy nhiên, khi xem xét về
thừa kế quyền sử dụng đất thì phải vận dụng cả các quy định của Luật Đất đai để
việc giải quyết phù hợp với tính chất đặc biệt của loại tài sản này.
Từ thực tế cuộc sống này, pháp luật về thừa kế phải được xây dựng và
không ngừng được hoàn thiện cho phù hợp với quá trình xây dựng và phát triển
toàn diện của đất nước. Hiện nay những quy định về quyền thừa kế đã chiếm
một vị trí quan trọng với số lượng điều luật đáng kể có tính khái quát cao và quy
định tương đối đầy đủ, toàn diện về thừa kế trong BLDS. Nhưng kể từ khi Nhà
nước ban hành BLDS đầu tiên năm 1995 và BLDS sửa đổi năm 2005, thì những
quy định của BLDS về thừa kế quyền sử dụng đất khi được Toà án các cấp và
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng để giải quyết những tranh chấp về
thừa kế quyền sử dụng đất, vẫn tồn tại không ít khó khăn, lúng túng. Vì trong
BLDS vẫn còn có những quy định trong chế định thừa kế chưa thật sự phù hợp
với thực tế của đời sống xã hội, nhất là trong điều kiện nền kinh tế thị trường và
hội nhập nền kinh tế thế giới. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển thì vấn đề
đất đai, quyền sử dụng đất và các vấn đề về thừa kế đặt ra càng phức tạp, đòi hỏi
hệ thống pháp luật Việt Nam phải hoàn thiện hơn để phù hợp với thực tiễn.

Đối với mỗi quốc gia, nếu có chính sách đất đai đúng đắn thì quốc gia đó
sẽ vừa tạo được nguồn lực cho thị trường đầu tư trên đất, vừa tạo cơ sở cho công
bằng xã hội, giải quyết tốt mâu thuẫn giữa phát triển và ổn định, tạo nên một
trong những nhân tố, là động lực cho sự phát triển bền vững của một đất nước.
Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề liên quan đến việc thừa kế quyền sử dụng

3


đất sẽ góp phần tìm ra những mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống văn bản hiện
hành, qua đó giúp tìm ra những giải pháp, định hướng sửa đổi pháp luật phù hợp
với thực tiễn, giải quyết tốt các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân, giữa các
cá nhân, tổ chức, hạn chế tình trạng khiếu nại, khiếu kiện tranh chấp đất đai đang
ngày càng nóng và phức tạp trong xã hội hiện đại, hướng tới một xã hội “công
bằng, dân chủ, văn minh”, đúng như định hướng xây dựng và phát triển đất
nước của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Đây cũng chính là lý do để người viết
tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất và các tranh
chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm đạt được các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản
sau đây:
- Nghiên cứu hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về
thừa kế, thừa kế quyền sử dụng đất. Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng và nhà nước trong việc giải quyết các mối quan hệ liên quan đến thừa
kế quyền sử dụng đất;
- Trên cơ sở kế thừa các thành tựu nghiên cứu của khoa học pháp lý, Luận
văn sẽ tiếp tục đi sâu tìm hiểu nhằm chỉ ra hệ thống cơ sở lý luận và thực trạng
của việc xác lập quyền thừa kế đối với quyền sử dụng đất;
- Tìm hiểu, phân tích nguyên nhân và các dạng tranh chấp thừa kế
quyền sử dụng đất, thực trạng giải quyết tranh chấp của cơ quan nhà nước có

thẩm quyền tại thành phố Đà Nẵng. Từ đó đưa ra các kiến nghị và giải pháp
cụ thể để nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về thừa kế quyền sử
dụng đất tại Đà Nẵng;
- Tìm ra những bất cập của một số qui định về thừa kế quyền sử dụng đất
và đề xuất các giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện một số qui định của pháp
luật về lĩnh vực này.

4


3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Quyền thừa kế của cá nhân công dân là một trong những quyền dân sự cơ
bản và là một căn cứ phổ biến xác lập quyền sở hữu tài sản của công dân. Quyền
sử dụng đất là một lại tài sản mang tính đặc thù liên quan mật thiết đến cuộc
sống của mỗi người dân trong xã hội. Vì vậy, vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất
đã trở thành một phần quan trọng và không thể thiếu được trong chế định thừa
kế của BLDS Việt Nam. Thông qua đề tài này, việc nghiên cứu hệ thống các khái
niệm, các quy định pháp luật sẽ giúp phân tích, làm sáng tỏ các quy định về thừa
kế quyền sử dụng đất, từ đó chứng minh tính đặc thù của quan hệ thừa kế quyền
sử dụng đất trong các quan hệ pháp luật dân sự.
Nghiên cứu về thừa kế quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật Việt
Nam sẽ được đặt trong mối liên hệ với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Phân tích, làm rõ quyền này dưới góc độ
quyền khách quan và quyền chủ quan, sẽ làm cho quyền thừa kế quyền sử dụng
đất được củng cố, ghi nhận và được bảo vệ ngày một hiệu quả hơn. Qua đó làm
sáng tỏ quyền dân sự cơ bản của công dân, góp phần hoàn thiện về mặt lý luận
trong việc nâng cao trình độ ý thức pháp luật của cá nhân trong chế định thừa kế.
Từ đó sẽ góp phần khắc phục và loại bỏ những quy định pháp luật về thừa kế
quyền sử dụng đất còn thiếu tính khái quát, không đồng bộ, không toàn diện
trong quy định pháp luật dân sự và pháp luật đất đai của Việt Nam.

Bên cạnh việc nghiên cứu các vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử dụng
đất, luận văn sẽ đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn, thực trạng các mâu thuẫn phát
sinh về thừa kế quyền sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng. Hiện nay, thành phố
Đà Nẵng được biết đến là thành phố có tốc độ đô thị hóa cao, là một địa phương
điển hình trong cả nước về công tác đền bù giải tỏa, khai thác, quản lý và sử
dụng đất đai. Thực tiễn cho thấy, ở đâu có nhiều điểm nóng về vấn đề đền bù,
giải tỏa ở đó sẽ phát sinh nhiều tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Tại

5


Đà Nẵng, bên cạnh những thành tựu, tác động tích cực do công tác quy hoạch,
giải phóng mặt bằng, khai thác quỹ đất của UBND thành phố đem lại, đời sống
kinh tế - xã hội cũng phát sinh nhiều tranh chấp, vướng mắc trong việc giải
quyết các quan hệ pháp luật dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đặc biệt là
trong vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất. Việc tìm hiểu các dạng vướng mắc, các
khó khăn, bất cập trong quy định pháp luật về thừa kế quyền sử đất và thực trạng
giải quyết các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng sẽ
giúp tìm ra những kiến nghị phù hợp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật đất
đai, pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
4. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có rất nhiều nghiên cứu của các nhà
khoa học, nhà quản lý về thực trạng của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về đất đai, chuyển dịch quyền sử dụng đất nói chung và thừa kế quyền sử dụng
đất nói riêng. Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thừa kế quyền sử
đất được đăng tải trên các tạp chí khoa học như tạp chí Luật học, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Các bài viết đã tập trung phân
tích các khía cạnh trong chế định thừa kế quyền sử dụng đất như: Điều kiện thừa
kế quyền sử dụng đất; Thời hiệu tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất; Nêu và
phân tích một số tình huống tranh chấp xảy ra trong thực tế; Một số vướng mắc

thường gặp khi giải quyết tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất; Những vướng
mắc và kiến nghị khi áp dụng quy định của pháp luật thừa kế quyền sử dụng đất
trong BLDS.... Từ đó các chuyên gia, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều đánh
giá, nhận định khác nhau nhằm tiến tới việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy
định của pháp luật cho phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội hiện nay.
Bên cạnh các nghiên cứu trên tạp chí chuyên ngành luật, đã có rất nhiều
tác giả nghiên cứu và viết sách liên quan đến vấn đề thừa kế, nhưng nội dung
chủ yếu tập trung vào việc trình bày, phân tích và giải đáp các vấn đề chung, cơ

6


bản nhất về thừa kế trong đời sống xã hội, có tính chất như sách tham khảo, phổ
biến kiến thức phổ thông như: "Câu hỏi và giải đáp pháp luật về thừa kế" của
luật sư Lê Kim Quế, "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế" của tiến sỹ Đinh Văn Thanh
và luật sư Trần Hữu Biền; "Chín mươi chín tình huống và tư vấn pháp luật về
thừa kế nhà và quyền sử dụng đất của tác giả Phan Thị Hương Thuỷ "; "Pháp
Luật về thừa kế của Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" của tiến sỹ
Nguyễn Minh Tuấn...; Hiện nay, có rất ít sách chuyên khảo và công trình nghiên
cứu toàn diện viết về vấn đề thừa kế quyền sử dụng đất.
Ngoài ra, thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu ở bậc sau đại
học, cấp luận án thạc sĩ của một số tác giả nghiên cứu về thừa kế quyền sử dụng
đất hoặc tài sản gắn liền với đất như: Những vấn đề pháp lý về quyền thừa kế
quyền sử dụng đất: Luận văn thạc sĩ luật học /Nguyễn Tuấn Vũ; Thừa kế nhà ở
và thừa kế quyền sử dụng đất tại thành phố Hải Phòng 2010/ Lê Khắc Hạnh ...,
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu về thừa kế quyền sử dụng đất trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng. Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về vấn đề thừa
kế quyền sử dụng đất trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Hy vọng đề tài này sẽ
đem đến cho người đọc một cái nhìn toàn cảnh về vấn đề trên.
5. Nội dung, địa điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Nội dung nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài “Thừa kế quyền sử dụng đất qua thực tiễn tại thành phố Đà
Nẵng” có đối tượng nghiên cứu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về thừa kế quyền sử dụng đất,
bao gồm: Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, đối tượng, phân chia di sản là quyền sử
dụng đất.
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cơ sở xác lập quyền thừa kế quyền
sử dụng đất, các hình thức thừa kế theo quy định của pháp luật; đặc điểm của các
hình thức thừa kế theo pháp luật, theo di chúc;

7


- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng về thừa kế quyền sử dụng đất tại thành
phố Đà Nẵng, vấn đề thực thi pháp luật trong việc giải quyết các vấn đề liên
quan đến việc thừa kế quyền sử dụng đất. Qua đó, nghiên cứu một số nguyên
nhân các tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất, từ đó nhận diện một số tranh
chấp chủ yếu và chỉ ra những tồn tại, mâu thuẫn, bất cập để tìm ra các giải pháp
khắc phục;
- Nghiên cứu các giải pháp có tính khả thi để nâng cao hiệu quả hoà giải
và giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng.
- Phạm vi nghiên cứu:
Thừa kế và các quy định của pháp luật về đất đai, thừa kế quyền sử dụng
đất là rộng và có nội dung phức tạp, do đó Luận văn chỉ tập trung đi sâu tìm
hiểu, với phạm vi nghiên cứu cụ thể là:
- Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực thừa kế quyền
sử dụng đất.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật nhà nước hiện hành về thừa
kế quyền sử dụng đất.

- Tìm hiểu, phân tích nguyên nhân tranh chấp và các loại tranh chấp về
thừa kế quyền sử dụng đất. Phương thức giải quyết và giải pháp khắc phục các
mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống văn bản pháp luật hiện hành.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản mà đề tài đặt ra. Luận văn
sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê Nin; tư duy, quan điểm, đường lối về phát triển
kinh tế nhiều thành phần, xây dựng nhà nước pháp quyền trong cơ chế thị trường
của Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

8


- Phương pháp bình luận, phương pháp lịch sử...v...v...được sử dụng trong
chương I khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận về thừa kế quyền sử
dụng đất và các hình thức về thừa kế quyền sử dụng đất và quá trình hình thành,
phát triển của pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất tại Việt Nam.
- Phương pháp phân tích, so sánh luật học, thống kê, diễn giải...v...v...
được sử dụng trong chương II khi tìm hiểu, đánh giá các quy định pháp luật hiện
hành về thừa kế quyền sử dụng đất.
- Phương pháp quy nạp, phương pháp khái quát...được sử dụng trong
chương III khi đưa ra các định hướng, kiến nghị, đề xuất các giải pháp hoàn
thiện pháp luật về thừa kế quyền sử dụng đất và giải quyết tranh chấp về thừa kế
quyền sử dụng đất.
5.3. Địa điểm nghiên cứu
Thành phố Đà Nẵng là thành phố trực thuộc trung ương lớn nhất miền
Trung Việt Nam, ở vào vị trí trung độ của cả nước, có những lợi thế đặc biệt về
địa lý, giao thông, hạ tầng cơ sở và nhân văn...Với mức tăng trưởng liên tục và

khá ổn định, gắn liền với các mặt tiến bộ trong đời sống xã hội, tổng sản phẩm
nội địa trên địa bàn thành phố liên tục tăng qua các năm, mức sống dân cư được
nâng cao, cơ sở hạ tầng phát triển, đô thị được chỉnh trang, các loại hình dịch vụ
về khoa học công nghệ, đào tạo, y tế, giáo dục được cải thiện...
Đặc biệt, Đà Nẵng là một trong những thành phố đi đầu cả nước trong lĩnh
vực quy hoạch đất đai, sử dụng và đầu tư cho quỹ đất của địa phương để phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng, cải tạo bộ mặt cho thành phố. Hàng nghìn dự án đã
được đầu tư, triển khai thực hiện, tốc độ giải tỏa, đền bù cao, giá trị quyền sử
dụng đất tại Đà Nẵng đã tăng lên rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, gắn với
công tác quy hoạch, quản lý đất đai, bên cạnh những cách làm sáng tạo, hợp lý,
giải quyết nhanh gọn, tạo sự đồng thuận cao và giúp cho nhân dân được hưởng
lợi từ các chính sách đền bù, giải tỏa của thành phố thì vẫn có những tồn tại nhất

9


định, cuộc sống của hàng chục nghìn dân bị ảnh hưởng. Xuất phát từ lợi ích vật
chất, từ giá trị quá lớn của quyền sử dụng đất, từ đất đai do đền bù giải tỏa mang
lại, tình hình xã hội tại Đà Nẵng cũng phát sinh nhiều trường hợp tranh chấp về
đất đai, về thừa kế mà từ đó có nhiều gia đình phải tan vỡ, các thành viên trong
gia đình đưa nhau ra toà, ra chính quyền địa phương để giải quyết tranh chấp.
Nhiều trường hợp phạm tội, vi phạm quy định của pháp luật, vi phạm đạo đức xã
hội cũng đã nảy sinh mà nguyên nhân xuất phát từ việc tranh chấp quyền sử
dụng đất, quyền thừa kế đối với tài sản là quyền sử dụng đất.
Vì vậy, từ đặc thù riêng của địa phương, người viết tin rằng việc chọn
thành phố Đà Nẵng làm địa điểm nghiên cứu sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn
toàn diện hơn, tiếp cận và hiểu sâu hơn về các hình thức tranh chấp đất đai, tranh
chấp thừa kế vốn rất phong phú và đa dạng trong đời sống xã hội của địa
phương, từ đó tìm ra và phân tích các nguyên nhân để đưa ra những kiến nghị
phù hợp, giải quyết các vướng mắc phát sinh trong cuộc sống.

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được kết cấu thành 3 chương với các mục tương ứng nội dung các
chuyên đề độc lập.
Chương 1: Khái quát về thừa kế quyền sử dụng đất
Chương 2: Thực trạng về thừa kế quyền sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng
Chương 3: Phương hướng và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết
tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng.

10


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Khái niệm về thừa kế, quyền thừa kế và thừa kế quyền sử dụng đất
1.1.1 Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế
* Khái niệm về thừa kế
Nghiên cứu về nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước,
Ph. Ăng-ghen viết: ”Theo chế độ mẫu quyền, nghĩa là chừng nào còn huyết tộc
chỉ kể về bên mẹ và tập tục thừa kế nguyên thủy thì trong thị tộc mới được thừa
kế của những người trong thị tộc chết. Tài sản để lại trong thị tộc, vì tài sản
không có giá trị lớn nên lâu nay trong thực tiễn người ta vẫn trao tài sản đó cho
những người bà con thân thích nhất, nghĩa là trao cho những người có cùng
huyết thống với người mẹ”[1, tr.90]
Như vậy, vào thời kỳ nguyên thủy, việc thừa kế đã được hình thành theo
tập quán của thị tộc. Tài sản của thị tộc do người mẹ quản lý, khi người mẹ chết
thì di sản được chuyển cho những người thân thích trong thị tộc và tài sản của thị
tộc được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Đây chính là hình thức thừa kế
đầu tiên của xã hội loại người về tư liệu sản xuất nhằm tiếp tục duy trì cuộc sống
chung cho thị tộc. Ngay từ khi nhà nước và pháp luật chưa ra đời thì quan hệ sở

hữu về thừa kế đã xuất hiện như một yếu tố khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ
thuộc vào chế độ sở hữu. Khi xã hội phân chia giai cấp và chế độ tư hữu được
hình thành, giai cấp thống trị chiếm hầu hết tư liệu sản xuất và truyền lại cho con
cháu nên địa vị thống trị được truyền từ đời này sang đời khác. Việc thừa kế tài
sản là sự chuyển dịch công cụ, phương tiện bóc lột của giai cấp thống trị cho con
cháu nhằm tiếp tục xác lập quyền lực về chính trị, kinh tế đối với những người
lao động. Qua các thời kỳ phát triển của xã hội loài người, quan hệ thừa kế có
tính kế thừa các giá trị vật chất và tinh thần.

11


Ở Việt Nam, việc thừa kế di sản đã được hình thành theo tập quán của từng
dân tộc, từng vùng miền, thậm chí việc chia di sản thừa kế còn theo truyền thống
của dòng tộc, theo hệ tư tưởng của văn hóa, đạo giáo...ở từng thời kỳ (như tư
tưởng trọng nam khinh nữ chỉ chia tài sản cho con trai...Con cháu trong gia đình
được hưởng di sản từ ông bà, cha mẹ và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên).
Trong đời sống thực tiễn, tài sản do cá nhân làm ra thuộc sở hữu riêng của
họ. Pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân đối với tài sản. Điều này
có nghĩa là chủ sở hữu có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản
của mình, thậm chí trong trường hợp trước khi chết họ cũng có toàn quyền quyết
định để lại tài sản của mình cho những người còn sống được thừa kế theo di
chúc tiếp tục kế thừa quyền sở hữu do được thừa kế. Nếu người chết không để
lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì di sản của người chết để lại được
chia theo pháp luật.
Giáo trình luật Dân sự Việt Nam (quyển tập 1) của trường Đại học Luật Hà
Nội xuất bản năm 2010 đã xác định: ”Thừa kế với tư cách là một quan hệ pháp
luật dân sự trong đó các chủ thể có các quyền và nghĩa vụ nhất định. Trong quan
hệ này, người có tài sản, trước khi chết có quyền định đoạt tài sản của mình cho
người khác. Những người có quyền nhận di sản họ có thể nhận hoặc không nhận

di sản (trừ trường hợp pháp luật có quy định khác)” [28, tr.299].
* Khái niệm quyền thừa kế
Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định: ”Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu
hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”. Như vậy, quyền thừa kế là một
quyền hiến định của công dân và được Nhà nước bảo đảm bằng việc ban hành
nhiều văn bản pháp luật để quy định về vấn đề này.
Quyền thừa kế được xác định ở một loạt các văn bản pháp luật quan trọng như:
Pháp lệnh thừa kế năm 1990 (khoản 1 Điều 36); Luật Hôn nhân gia đình năm 2000
(Điều 31); BLDS năm 1995 (Điều 634; 648); BLDS năm 2005 (Điều 631; 645).

12


Điều 631 BLDS năm 2005 quy định: ”Cá nhân có quyền lập di chúc để
định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”
Tóm lại, quyền thừa kế là quyền dân sự của mỗi cá nhân trong việc để lại
di sản cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Nội dung quyền thừa
kế bao gồm quyền để lại di sản cho người thừa kế, quyền được hưởng di sản
thừa kế, quyền yêu cầu chia dia sản thừa kế, quyền yêu cầu xác nhận quyền thừa
kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác. Theo đó, người có tài
sản có quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình bằng cách để lại cho người
khác thông qua việc lập di chúc. Người thừa kế có thể hưởng thừa kế trên cơ sở
di chúc hoặc theo quy định của pháp luật (trường hợp không có di chúc hoặc di
chúc không hợp pháp...).
Quyền thừa kế phát sinh đối với cá nhân là người đã thành niên có quyền
lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm
thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi
của mình. Đối với người từ đủ 15 đến chưa đủ 18 tuổi có thể lập di chúc nếu cha,
mẹ hoặc người giám hộ đồng ý. Người để lại thừa kế có quyền lập di chúc để lại

di sản cho bất kỳ ai dù người đó có quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân hoặc
nuôi dưỡng với mình hay không.
1.1.2. Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất
* Khái niệm quyền sử dụng đất:
Điều 17 Hiến pháp năm 1992 qui định: ”Đất đai, rừng núi, sông hồ tài
nguyên trong lòng đất, nguồn lợi vùng biển...là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu
toàn dân”. Như vậy theo Hiến pháp, ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
Nhà nước đại diện cho nhân dân thực hiện quyền sở hữu về đất đai.
Quyền sở hữu của Nhà nước về đất đai được cụ thể hoá trong các đạo
luật chuyên ngành như tại Điều 5 Luật Đất đai qui định:”1. Đất đai thuộc sở

13


hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu.”, và Khoản 1 Điều 688
BLDS 2005 qui định:” Đất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính
phủ thống nhất quản lý.”
Để khai thác đất đai phục vụ cho như cầu quốc kế, dân sinh có hiệu
quả, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất thông qua hình
thức giao đất, cho thuê đất (khoản 2 Điều 5 Luật Đất đai). Cá nhân, tổ chức
được giao hoặc được thuê đất có quyền khai thác đất theo quy định của pháp
luật. Trường hợp, có nhu cầu chuyển quyền khai thác, hưởng các lợi ích từ đất
đai, thì phải tuân theo các qui định của pháp luật dân sự và Luật đất đai (Điều
113 Luật đất đai).
Cá nhân có quyền sử dụng đất dựa trên các căn cứ do pháp luật qui định thì
được phép chuyển quyền sử dụng đất cho cá nhân, hộ gia đình và tổ chức. Các căn
cứ xác lập quyền sử dụng đất được qui định tại Điều 688 BLDS năm 2005:
” 1...
2. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được
xác lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

3. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác
cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với
quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai.
Ngoài các căn cứ trên, quyền sử dụng đất được xác lập được căn cứ vào
việc nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Điều này được chính thức ghi nhận
trong Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Trong đó công
nhận quyền sử dụng đất là việc Nhà nước cấp GCNQSDĐ lần đầu cho người sử
dụng đất ổn định. Quy định này xuất phát từ thực tế sử dụng đất phức tạp ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay và để tạo cơ sở cho việc quản lý đất đai trong thời
gian tới, Nhà nước có thể tiến hành cấp GCNQSDĐ theo hiện trạng sử dụng theo
quy định của pháp luật.

14


Các chủ thể có quyền sử dụng đất dựa trên quy định tại khoản 2 và khoản
3 Điều 688 BLDS năm 2005 được pháp luật bảo vệ khi thực hiện các quyền của
người sử dụng đất.
Từ những phân tích trên có thể khái quát “quyền sử dụng đất là quyền của
cá nhân, tổ chức được phép khai thác, hưởng các lợi ích của đất đai được Nhà
nước giao hoặc được nhận quyền khai thác đất thông qua các giao dịch hợp pháp
và được phép định đoạt quyền khai thác đất trong phạm vi pháp luật qui định.”
* Khái niệm thừa kế quyền sử dụng đất.
Quyền thừa kế là quyền tài sản quan trọng của cá nhân được pháp luật bảo
hộ. Mọi cá nhân có quyền bình đẳng trong việc để lại di sản cho người khác
hưởng, nhận hoặc từ chối nhận di sản và thực hiện nghĩa vụ của người chết để
lại (Điều 631, Điều 632 BLDS 2005).
Quyền bình đẳng của cá nhân về thừa kế được quy định tại Điều 632
BLDS 2005: ”Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho
người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.”

Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản đặc biệt của cá nhân, do vậy cá
nhân có thể để lại cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Điều 106 Luật đất đai năm 2003 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy
định thừa kế quyền sử dụng đất là một hình thức chuyển quyền sử dụng đất và
hình thức để thừa kế quyền sử dụng đất được áp dụng theo quy định chung về
các hình thức thừa kế tài sản đã được quy định tại Phần thứ tư BLDS 2005.
- Theo điều 733 BLDS năm 2005 thừa kế quyền sử dụng đất được quy
định như sau: ”Thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển quyền sử dụng đất của
người chết sang cho người thừa kế theo quy định của Bộ luật này và pháp luật
về đất đai”
- Theo từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà
Nội: “Thừa kế quyền sử dụng đất là chuyển quyền sử dụng đất của người chết

15


sang cho người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật phù hợp với các quy
định của BLDS và pháp luật về đất đai” [30, tr.69]
- Theo từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) biên soạn:
”Thừa kế quyền sử dụng đất: Sự chuyển dịch quyền sử dụng đất của người chết
cho người còn sống. Ở Việt Nam, với đặc thù đất đai thuộc sở hữu toàn dân mà
nhà nước là người đại diện chủ sở hữu, Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho
các hộ gia đình, cá nhân. Quyền sử dụng đất là quyền tài sản chung của hộ gia
đình hoặc quyền tài sản riêng của cá nhân. Bởi vậy, khi cá nhân hoặc thành viên
trong hộ gia đình chết thì quyền sử dụng đất của họ được thừa kế theo di chúc
hoặc theo pháp luật” [2, tr.754]
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thì quyền sử dụng đất là một loại
tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân, vì vậy chủ sở hữu có quyền định đoạt
quyền sử dụng đất của mình thông qua các giao dịch dân sự trong đó có quyền
để lại thừa kế theo di chúc cho người khác hưởng quyền sử dụng đất. Mặt khác,

vì quyền sử dụng đất là đối tượng của quyền thừa kế, cho nên cá nhân có quyền
để lại thừa kế quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật.
Tóm lại thừa kế quyền sử dụng đất là việc chuyển dịch quyền sử dụng đất
của cá nhân cho chủ thể khác theo di chúc hoặc theo qui định của pháp luật.
1.2. Đặc điểm của thừa kế quyền sử dụng đất
1.2.1. Di sản thừa kế là quyền sử dụng đất có thời hạn và có Giấy
chứng nhận do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
Thông thường di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của cá nhân.
Các loại tài sản này không hạn chế thời hạn sở hữu. Tuy nhiên, đối với một số
loại quyền sử dụng đất thì cá nhân được sử dụng có thời hạn. Vì vậy, người nhận
thừa kế quyền sử dụng đất được phép sử dụng trong thời hạn còn lại mà người
để lại thừa kế chưa sử dụng.
Điều 67 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009 còn quy định
các trường hợp người sử dụng đất được sử dụng đất có thời hạn, cụ thể:

16


“Người sử dụng đất được sử dụng đất có thời hạn trong các trường hợp
sau đây:
1. Thời hạn giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm
muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 70
của Luật này là hai mươi năm; thời hạn giao đất trồng cây lâu năm, đất rừng
sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều
70 của Luật này là năm mươi năm.
Thời hạn cho thuê đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất
làm muối cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng là không quá hai mươi năm; thời
hạn cho thuê đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân
sử dụng là không quá năm mươi năm.
Thời hạn giao đất, cho thuê đất được tính từ ngày có quyết định giao đất,

cho thuê đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; trường hợp đất được Nhà
nước giao, cho thuê trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì thời hạn giao đất, cho
thuê đất được tính từ ngày 15 tháng 10 năm 1993.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước tiếp tục giao đất, cho
thuê đất nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai
trong quá trình sử dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng
đất đã được xét duyệt;
2. Thời hạn sử dụng đối với diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức do
được giao trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 bằng một phần hai thời hạn quy
định tại khoản 1 Điều này, sau đó phải chuyển sang thuê đất;
Ngoài ra, khoản 5 Điều 67 Luật Đất đai quy định “thời hạn cho thuê đất
thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị
trấn là không quá năm năm; trường hợp cho thuê đất trước ngày 01 tháng 01
năm 1999 thì thời hạn thuê đất được xác định theo hợp đồng thuê đất.”
Đối với các cá nhân sử dụng đất quy định tại khoản 1, khoản 2, khoản 3,

17


khoản 5 Điều 67 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009 như đã nêu
trên nếu chết thì người thừa kế của họ được tiếp tục sử dụng quyền sử dụng đất
cho đến hết thời hạn.
Quyền sử dụng đất là di sản thừa kế được qui định tại Điều 634 BLDS
2005 quy định ”Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của
người chết trong tài sản chung với người khác. ”
Phân tích quy định của Điều 634 BLDS 2005 thì di sản thừa kế gồm các
loại tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết mà trước khi chết họ chưa định
đoạt hết, sau khi chết được chuyển cho những người được thừa kế. Khối di sản
này có thể được dùng một phần để thờ cúng hoặc di tặng nếu người lập di chúc
có định đoạt, phần còn lại được chia cho người thừa kế.

Tài sản riêng của người chết bao gồm tài sản có trước thời kỳ hôn nhân,
tài sản được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân và tài sản
chung của vợ chồng đã thỏa thuận chia thì những tài sản đã chia đó thuộc quyền
sở hữu riêng của vợ và chồng. Ngoài ra, di sản gồm phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác, nếu người để lại thừa kế có quyền sở hữu
chung theo phần hay chung hợp nhất.
Tài sản thuộc quyền sở hữu của người để lại thừa kế bao gồm nhiều
loại tài sản, trong đó tài sản quan trọng là nhà ở, quyền sử dụng đất, thu
nhập hợp pháp và các loại tài sản khác do pháp luật quy định. Trong các loại
tài sản để lại thừa kế thì bất động sản được quan tâm nhiều nhất là nhà ở và
quyền sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất cũng thuộc di sản thừa kế nhưng đây là loại tài sản đặc
biệt nên theo quy định của pháp luật đất đai thì người sử dụng đất chỉ được thực
hiện quyền thừa kế khi có các điều kiện như: có Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, đất không có tranh chấp, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi
hành án và trong thời hạn sử dụng đất. BLDS năm 2005 chỉ quy định về di sản

18


thừa kế nói chung còn di sản thừa kế là quyền sử dụng đất được quy định cụ thể
trong Luật đất đai năm 2003.
Theo Nghị quyết số 02/2004/NQ của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao
ban hành ngày 10/08/2004 thì quyền sử dụng đất được xác định là di sản thừa kế
trong các trường hợp sau:
- Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không
có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có GCNQSDĐ theo
Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì
quyền sử dụng đất đó là di sản.
- Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong

các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm
2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ
thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
Trong trường hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ thì thừa kế
quyền sử dụng đất được quy định như sau: ”Hộ gia đình được Nhà nước giao
đất nếu trong hộ có thành viên chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó
được để lại cho những người thừa kế theo quy định tại Phần thứ tư của Bộ luật
này và pháp luật về đất đai” (Điều 735 BLDS 2005).
Nếu hộ gia đình được nhà nước giao quyền sử dụng đất thì hộ gia đình
được cấp GCNQSDĐ. Sau khi được cấp GCNQSDĐ, hộ gia đình được phép
chuyển quyền sử dụng đất. Trường hợp thành viên hộ gia đình chết thì phần
quyền sử dụng đất của thành viên đó được chia thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật.
Như vậy, về nguyên tắc quyền sử dụng đất là tài sản chung của các thành
viên trong gia đình. Các thành viên trong hộ gia đình đều có quyền ngang nhau
đối với tài sản chung này. Cho dù mục đích sử dụng khác nhau, nhưng thông
thường đối với hộ gia đình thì quyền sử dụng đất là một loại tài sản có giá trị rất

19


lớn, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của các thành viên trong hộ gia
đình đó. Chính vì vậy, mà Điều 113 Luật đất đai 2003 và Điều 735 BLDS năm
2005 đã là một sự đổi mới và khắc phục được những hạn chế của BLDS năm
1995. Theo đó, hộ gia đình được nhà nước giao đất nếu trong hộ có thành viên
chết thì quyền sử dụng đất của thành viên đó được để lại cho những người thừa
kế theo di chúc hoặc theo pháp luật mà không phân biệt quyền của thành viên hộ
gia đình đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng
rừng, đất ở với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản. (BLDS
năm 1995 không quy định quyền để thừa kế quyền sử dụng đất của thành viên

hộ gia đình được giao đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy
sản (Điều 744), mà chỉ cho phép thành viên của hộ gia đình được giao đất nông
nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở được thừa kế
theo di chúc hoặc theo pháp luật (Điều 743). Đối với đất nông nghiệp trồng cây
hàng năm, nuôi trồng thủy sản được giao cho hộ gia đình, thì khi thành viên của
hộ gia đình chết, các thành viên khác của hộ gia đình tiếp tục sử dụng. Nếu
không còn thành viên nào của hộ gia đình còn sống, thì nhà nước sẽ thu hồi lại
quyền sử dụng đất của hộ gia đình đó.)
Để thực hiện quyền để thừa kế quyền sử dụng đất, các thành viên của hộ
gia đình phải tuân theo quy định tại Phần thứ tư BLDS năm 2005. Sau khi nhận
thừa kế quyền sử dụng đất, người nhận thừa kế quyền sử dụng đất phải thực hiện
các thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai.
1.2.2. Quyền sử dụng đất được phép chuyển dịch là di sản thừa kế
Đất đai là tài nguyên quan trọng của quốc gia, quyết định đến việc
phát triển kinh tế bảo vệ an ninh quốc phòng của đất nước. Vì vậy, Nhà nước
qui định mỗi loại đất có qui chế bảo vệ riêng. Những loại đất là tư liệu sản
xuất của cá nhân, tổ chức thì Nhà nước cho phép người sử dụng đất có đầy
đủ các quyền qui định trong Luật Đất đai. Tuy nhiên, có những loại đất cho

20


×