Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

BÀI THU HOẠCH NGHIÊN cứu THỰC tế nội DUNG TÌNH HÌNH KINH tế xã hội tại nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.89 KB, 18 trang )

UBND TỈNH BẮC GIANG
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ

BÀI THU HOẠCH
NGHIÊN CỨU THỰC TẾ

NỘI DUNG

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI
Họ tên học viên: Bạch Văn Huân
Đơn vị công tác: Chi cục THADS huyện Yên Thế
Lớp: Trung cấp LLCT-HC khóa X- Yên Thế

Yên Thế, ngày 26 tháng 6 năm 2017


PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU
Thực hiện theo chương trình khóa học, với phương châm học đi đôi với
hành, lý thuyết gắn liền với thực tiễn. Trường chính trị tỉnh Bắc Giang đã tổ chức
chuyến đi tế tại tỉnh Nghệ An cho các học viên lớp Trung cấp lý luận chính trị hành chính khoá X
huyện Yên Thế thời gian 03 ngày, cụ thể là từ ngày 09 tháng 06 đến ngày 11 tháng 06 năm 2017.
Mục tiêu đặt ra của nhà trường đối với chuyến đi này là giúp các học viên có điều kiện tiếp xúc với
thực tế về mọi mặt của công tác chính quyền cơ sở ở địa phương đơn vị cụ thể, cụ thể là nắm bắt
được tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối
với bản thân mỗi học viên và những bài học kinh nghiệm trong công tác điều hành
của chính quyền cơ sở tại địa phương mình.
Để đảm bảo cho chuyến thực tế được tổ chức thành công và an toàn cho
chuyến đi thì công tác chuẩn bị là không thể thiếu. Nhà trường đã quan tâm phối
hợp với Ban cán sự lớp làm tốt công tác tổ chức cũng như công tác hậu cần. Kinh
phí phục vụ chuyến đi thực tế do mỗi đồng chí học viên trong lớp đóng góp cùng


sự hỗ trợ của Nhà nước và bên cạnh đó còn có cả sự hỗ trợ của Trường Chính trị.
Thành phần đoàn công tác thực tế bao gồm:
Thầy: Lê Văn Tách – Huyện ủy viên, Giám đốc trung tâm BDCT huyện
Yên Thế, đồng chủ nhiệm lớp: Trưởng đoàn.
Đồng chí: Ninh Văn Quý – Lớp trưởng: Phó đoàn.
Đồng chí: Nguyễn Trung Kiên – Lớp phó: Phó đoàn.
Đồng chí: Trương Thị Bích Thủy – Lớp phó: Phó đoàn.
Đồng chí: Nguyễn Văn Tới – Lớp Phó: Phó đoàn.
Cùng đi với đoàn có các Thầy cô của Trường Chính Trị Tỉnh gồm:
Cô: Nguyễn Minh Hiếu – Phó trưởng phòng Đào tạo, chủ nhiệm lớp
Cô: Nguyễn Thị Dung – Giảng viên Khoa LLM-LN
Cô: Dương Thị Vân Hương – Phòng NCKH-TT-TL
Cùng 90/94 đồng chí học viên lớp Trung cấp lý luận chính trị - hành chính
khoá X. Còn 02 đồng chí học viên đang mang thai, 01 học viên điều kiện con nhỏ
và 01 học viên ốm không tham gia được chuyến thực tế này nên đã được nhà
trường miễn không phải tham gia chuyến thực tế này và sẽ thực hiện viết bài thu
hoạch sau khi đi thực tế tại địa phương.


PHẦN II
PHẦN NỘI DUNG
A. TẠI THỊ XÃ CỬA LÒ –NGHỆ AN
1. Tình hình chấp hành luật giao thông đường bộ của người dân khi tham gia giao thông.
Theo thời gian đã được ấn định trước đúng 5h sáng ngày 09 tháng 06 năm
2017 các thầy cô cùng các đồng chí học viên chúng tôi đã có mặt tại thị trấn Cầu
Gồ - Yên Thế. Đoàn đi thực tế của chúng tôi có 02 xe xuất phát tại thị trấn Cầu Gồ
- Yên Thế di chuyển theo hướng về Thị xã Cửa Lò – Nghệ An hành trình khoảng
400km.
Do đã xác định được lộ trình chuyến đi nên các đồng chí học viên đều đã
chủ động cho bản thân những đồ dung cần thiết, những tư trang cá nhân để đảm

bảo cho chuyến đi thực tế được thành công tốt đẹp và đạt hiệu quả cao.
Cung đường đi của chúng tôi xuất phát từ thị trấn Cầu Gồ - Yên Thế đi qua
thành phố Bắc Giang, rồi đi theo quốc lộ 1A qua tỉnh Bắc Ninh, thành phố Hà Nội,
Hà Nam, Ninh Bình, Thanh Hóa và điểm đến là tỉnh Nghệ An đoàn nghiên cứu
thực tế đã thấy được sự phát triển của đất nước. Các khu công nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và các khu công nghiệp trong nước được xây dựng rất nhiều, những
con đường được rải nhựa thẳng tắp, những cánh đồng lúa chín vàng đang mùa thu
hoạch cho thấy sự phát triển mạnh về kinh tế và xã hội của các tỉnh đi qua.
Giao thông đi lại rất thuận lợi, các tuyến quốc lộ đã được mở rộng và nối
liền với các tỉnh lân cận. So với những năm trước đây thì việc đi đã lại hết sức
thuận lợi và đã được mở rộng nên phương tiện đi lại không còn gặp khó khăn như
trước kia. Tình hình chấp hành luật giao thông đường bộ của người tham gia giao
thông trên các quốc lộ thời gian qua đã được cải thiện đáng kể. Hầu hết các
phương tiện khi tham gia giao thông đều chấp hành tốt các quy định, các phương
tiện đi đúng làn đường, đi đúng tốc độ quy định, không phóng nhanh vượt ẩu,
không lạng nách đánh võng, mọi người tham gia giao thông đều có ý thức chấp
hành tốt các biển báo giao thông, hiệu lệnh của cảnh sát giao thông. Người đi trên
xe gắn máy đều chấp hành nghiêm chỉnh việc đội mũ bảo hiểm khi điều khiển giao
thông. Hiện tượng xe khách chở quá số nguời quy định, quá trọng tải đã có bước
chuyển biến rõ rệt, để làm được như vậy là một phần lớn là việc tăng cường công
tác thanh kiểm tra, tuần tra xử lý vi phạm theo quy định, bên cạnh đó là công tác


tuyên truyền pháp luật về giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy cũng được
các Bộ, Ngành, Địa phương quan tâm, tuyên truyền, giải thích để mỗi người dân đều hiểu và chấp
hành. Ý thức chấp hành pháp luật về giao thông của người dân
ngày càng cao.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có tình trạng một số người dân chưa có ý thức
trong việc chấp hành luật giao thông khi tham gia giao thông vẫn còn hiện tượng
phóng nhanh vượt ẩu, lạng nách đánh võng trên đường dẫn đến những va chạm để

lại hậu quả không đáng có, một số người dân khi tham gia giao thông chưa đội mũ
bảo hiểm hoặc đội nhưng còn có hiện tượng chống đối như không cài quai…
Sau hơn 7h đồng hồ đi trên đường chúng tôi đã đến Thị xã Cửa Lò, đoàn
thực tế chúng tôi nghỉ ở khách sạn Daewoo tại phường Nghi Thu - Thị xã Cửa Lò Nghệ An.
2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An.
2.1. Sơ lược về Nghệ An:
Tỉnh Nghệ An có vị trí địa lý đặc biệt quan trọng, là tỉnh có diện tích lớn
nhất Việt Nam thuộc vùng Bắc Trung Bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành
phố Vinh, nằm cách thủ đô Hà Nội 291 km về phía nam. Trước đây, Nghệ An cùng
với Hà Tĩnh có cùng một tên chung là Hoan Châu (thời bắc thuộc), Nghệ An châu
(đời nhà Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ
An. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (bắc
sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh
sáp nhập thành một tỉnh - Nghệ Tĩnh. Từ năm 1991, lại tách ra thành 2 tỉnh là
Nghệ An và Hà Tĩnh.
2.2. Tình hình phát triển KT-XH của tỉnh Nghệ An.
Tổng sản phẩm GRDP quý 1/2017 ước đạt 13.352 tỷ đồng, tăng 6,52%;
trong đó, khu vực nông lâm ngư nghiệp ước đạt 2.761,8 tỷ đồng, tăng 2,38 cùng
kỳ; khu vực công nghiệp- xây dựng ước đạt trên 3.937 tỷ đồng, tăng 8,72% cùng
kỳ; khu vực dịch vụ ước đạt hơn 5.777 tỷ đồng, tăng 6,25% cùng kỳ. Tốc độ tăng
trường năm nay cao hơn tăng trưởng cùng kỳ của những năm gần đây.
Trong sản xuất, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản gặp thuận lợi và tăng hơn so
với cùng kỳ; triển khai thực hiện kế hoạch xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều
kết quả, nâng số đơn vị cấp huyện hoàn thành nông thôn mới là 2 địa phương (TX
Thái Hòa, TP Vinh).
Hoạt động công nghiệp phát triển ước đạt chỉ số tăng 8,02% so với cùng kỳ;


thương mại dịch vụ, thông tin, truyền thông, vận tải, tài chính, ngân hàng phát triển
ổn định, tăng so với cùng kỳ. Thu ngân sách trong 3 tháng đầu năm ước thực hiện

2.933,76 tỷ đồng, đạt 25,3% dự toán, tăng 31% cùng kỳ, chi ngân sách đạt 21,9%
dự toán. Bên cạnh lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực văn hóa- xã hội có nhiều tiến bộ: có 111
em đạt học sinh giỏi quốc gia, tăng hơn 5 em; có 986 trường đạt chuẩn quốc gia,
đạt tỷ lệ 64,91%, có 1 địa phương cấp huyện đầu tiên của khu vực đạt 100%
trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia là TX Cửa Lò. Công tác kiểm
soát dịch bệnh được chú trọng, lĩnh vực y tế, quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm
được chú trọng thực hiện. Hoạt động văn hóa, quản lý văn hóa, thể dục thể thao
được triển khai rộng khắp, có nhiều chuyển biến.
Công tác quản lý nhà nước, cải cách hành chính tạo được nhiều chuyển biến
và đạt được kết quả: chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh tăng 7 bậc so với 2015,
xếp thứ 2 trong 6 tỉnh Bắc Trung bộ, đây là vị trí cao nhất từ trước đến nay của
tỉnh.
2.3. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thị Xã Cửa Lò.
Thị xã Cửa Lò với ba mặt là sông biển nên được gọi là thị xã biển, có bờ biển
dài 10 km, từ cảng thương mại quốc tế Cửa Lò đến cảng cá Cửa Hội, trong đó bãi
tắm dài 8,3 km. Vì vậy Cửa Lò phát triển mạnh về du lịch, dịch vụ và đánh bắt thủy
hải sản. Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, sự điều hành
của chính quyền và sự nỗ lực của toàn thể nhân dân trong thị xã, kinh tế xã hội của
thị xã đã có sự thay đổi rõ rệt, đời sống vật chất tinh thần của người dân được nâng
cao đáng kể. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm qua của thị xã luôn ở mức
cao.
Thị xã Cửa Lò là một trong hai trung tâm kinh tế lớn nhất của Tỉnh Nghệ
An, chỉ sau thành phố Vinh – đô thị loại I đã được Thủ tưởng Chính phủ xác định
là trung tâm kinh tế văn hoá của vùng Bắc Trung bộ. Thị xã Cửa Lò có chức năng
là đô thị du lịch biển và cảng trung chuyển quan trọng của khu vực miền Trung, là
đô thị có nhiều tiềm năng để trở thành trung tâm du lịch biển mang tầm quốc gia và
khu vực.
Với lợi thế là trung tâm du lịch nghỉ mát, là đầu mối giao thông quan trọng
của Tỉnh và vùng Bắc Trung Bộ, Cửa Lò đang dần trở thành là một trong những
trung tâm phát triển mạnh mẽ ngành đào tạo nguồn nhân lực và vận tải biển của

Tỉnh Nghệ An. Và đặc biệt, cùng với thành phố Vinh, “liên hợp đô thị” Cửa Lò –


Vinh đang trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá của khu vực Bắc Trung Bộ, một
trong những cửa ngõ ra Thái bình Dương quan trọng của các nước tiểu vùng Mê
Công mở rộng (GMS) theo Hành lang Đông – Tây từ Miến Điện – Thái Lan – Lào
ra bờ biển Việt Nam. Phát huy lợi thế của một thị xã du lich biển, Cửa Lò đã dần
dần trở thành nơi mời gọi của nhiều dự án lớn trên nhiều lĩnh vực.
B. Tại Quê hương Bác Hồ.
Sau 1 đêm nghỉ ngơi tại Thị xã Cửa Lò – Nghệ An, sáng ngày hôm sau đúng
6h30 phút đoàn chúng tôi khởi hành đi thăm quan quê ngoại Bác Hồ, tại Làng
Hoàng Trù hay còn gọi là làng Chùa - xã Kim Liên – huyện Nam Đàn, trên đường
đi đoàn chúng tôi vào thăm quan Công ty TNHH Việt Mỹ tại Lô số 8 - khu công
nghiệp xã Nghi Phú - Xã Nghi Phú - Thành phố Vinh - Nghệ An, công ty chuyên
sản xuất, kinh doanh phân bón, vật tư nông nghiệp, hàng nông sản, lương thực, vận
tải hàng hóa đường bộ.
Tiếp tục cuộc hành trình đoàn chúng tôi đã đến thăm quan quê ngoại Bác
Hồ, tại Làng Hoàng Trù hay còn gọi là làng Chùa - xã Kim Liên – huyện Nam
Đàn, đây là quê hương của thân mẫu Bác Hồ - cụ bà Hoàng Thị Loan, cũng chính
là nơi cụ Nguyễn Sinh Sắc được ông bà ngoại của Bác nhận nuôi dưỡng, giáo dục
thành tài. Cũng chính tại nơi này, cha mẹ bác nên duyên vợ chồng và sinh ra ba
người con ưu tú, trong đó có một người con kiệt xuất nhất của dân tộc, đó chính là
Bác Hồ kính yêu của chúng ta.
Ngôi nhà của gia đình Bác Hồ ở làng Chùa: Đây là ngôi nhà tranh 3 gian,
mái lợp lá, xung quanh che phên, phía sau có một gian nhà bếp. Ngôi nhà được cụ
Hoàng Đường và cụ Nguyễn Thị Kép dựng năm 1883, vào dịp lễ thành hôn của
con gái Hoàng Thị Loan và con rể Nguyễn Sinh Sắc.
Nhà cụ Hoàng Xuân Đường (ông ngoại của Bác Hồ): chính là nơi vun đắp
tình cảm của ông ngoại, bà ngoại và gia đình dành cho Bác. Đây là ngôi nhà tranh
năm gian, trước và sau che phên.

Ngôi nhà thờ chi nhánh họ Hoàng Xuân. Ngôi nhà thờ có 3 gian, 1 gian
chính và 2 gian phụ. Theo dấu tích còn khắc ghi trên kiến trúc, thì công trình được
xây dựng vào năm Tự Đức thứ 34, tức năm Tân Tỵ - 1881. Sau khi đưa Nguyễn
Sinh Sắc (thân phụ Bác Hồ) về nuôi và cho ăn học được 3 năm, cụ Hoàng Đường
đã cho dựng ngôi nhà thờ này. Ban đầu ngôi nhà thờ lợp mái tranh, đến năm 1930
thì được tu sửa và lợp ngói.


Sau khi thăm và dâng hương tại quê ngoại Bác Hồ, đoàn chúng tôi lại lên
đường tiếp tục cuộc hành trình sang thăm quê nội Bác, tại làng Sen - xã Kim Liên Nam Đàn.
Làng Sen, một làng quê bình dị như bao làng quê Việt Nam khác, quê chung
của mọi người dân đất Việt. Nơi đây Bác Hồ đã sống cùng gia đình 5 năm thời niên
thiếu (1901-1906) và cũng là nơi vinh dự được đón Người về thăm ngày 16/6/1957
và ngày 09/12/1961.
Khoa thi hội Tân Sửu năm 1901 ông Nguyễn Sinh Sắc đậu phó bảng. Nhân
dân Làng Sen lần đầu tiên vinh dự có người đỗ đại khoa, đã họp bàn quyết định
xuất quỹ công của làng sang tận xã Xuân La mua ngôi nhà gỗ 5 gian lợp tranh dựng trên mảnh đất
công rộng 4 sào 14 thước Trung bộ ( khoảng 2500 m2 ) mừng
ông phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Người anh trai cùng cha khác mẹ là Nguyễn Sinh
Thuyết cũng dỡ ba gian của nhà mình sang làm nhà ngang để mừng em công thành
danh toại. Cây cối trong vườn do bà con đem đến trồng. Theo phong tục xưa “Vinh
quy bái tổ ” Ông Nguyễn Sinh Sắc cùng các con tạm biệt mảnh đất Hoàng Trù ân
nghĩa trở về sinh sống tại làng Sen.
Nhà gồm các hạng mục: nhà chính, nhà ngang, cổng, sân, vườn. Đặc biệt
hơn, trong nhà còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị lịch sử, như hai bộ phản
gỗ, chiếc giường, rương đựng lương thực, chiếc tủ đứng hai ngăn đựng đồ dùng,
mâm bằng gỗ sơn đen.
Nhà cụ Nguyễn Sinh Nhậm: nơi cụ Nguyễn Sinh Sắc và gia đình đã ở nhiều
năm, gồm nhà chính, nhà ngang, vườn.
Giếng Cốc: là nguồn nước sinh hoạt của gia đình. Giếng hình tròn, được kè

đá, có 18 bậc lên xuống bằng đá ong.
Núi Chung: khi còn nhỏ, Bác và các bạn thường đây lên chăn trâu, thả diều,
ngắm nhìn phong cảnh quê hương.
Tiếp tục, đoàn chúng tôi thăm và dâng hương tại nhà tưởng niệm tại quê nội
Bác Hồ.
Sau khi thăm quê nội Bác Hồ, tiếp tục cuộc hành trình đoàn chúng tôi tới
thăm khu lăng mộ Bà Hoàng Thị Loan- Thân mẫu Bác Hồ, tại núi Động Tranh - xã
Nam Giang - huyện Nam Đàn - Nghệ An.
Đặc điểm: Mộ bà được xây năm 1985, nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 95
của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bà Hoàng Thị Loan (1868 - 1901) là người mẹ Việt Nam tiêu biểu có công


nuôi dạy nên những người con yêu nước, trong đó có cậu bé Nguyễn Sinh Cung,
sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ chân núi Động Tranh, lối lên phần mộ Bà nằm ở bên trái phần
mộ có 269 bậc (con số 69 là năm Bác Hồ mất - 1969), lối xuống bên phải phần mộ
có 242 bậc (con số 42 là năm cậu Khiêm; đưa hài cốt mẹ về đây - 1942). Trước
phần mộ xuống sân bia 33 bậc, con số 33 là tuổi đời của Bà. Phía trên mộ là dàn
hoa cách điệu hình khung cửi.
Sau khi thăm và dâng hương tại khu lăng mộ Bà Hoàng Thị Loan- Thân mẫu
Bác Hồ, đoàn chúng tôi lại tiếp tục hành trình quay về Thị Xã Cửa Lò, trên đường
về Thị xã Cửa Lò chúng tôi rẽ vào thành phố Vinh-Nghệ An.
Đúng 8h sáng ngày 11 tháng 06 năm 2017, đoàn chúng tôi khởi hành về
quyê hương Bắc Giang của mình và đã kết thúc chuyến đi thực tế thành công.
3. Liên hệ địa phương (Tình hình phát triển kinh tế xã hội huyên Yên
Thế).
Yên Thế có địa hình đồi núi trung du, thuộc vùng Đông Bắc (Việt Nam),
nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Bắc Giang, giáp giới với hai tỉnh Thái Nguyên và Lạng
Sơn. Địa hình thấp dần theo hướng Đông Nam, phía Bắc là vùng núi thấp dưới

chân dãy núi Bắc Sơn, mà dãy núi này hay được biết đến hơn với cái tên cánh cung
Bắc Sơn chạy từ Lạng Sơn sang Thái Nguyên (một trong năm dãy núi hình vòng
cung tạo nên nét đặc trưng của địa hình vùng Đông Bắc). Phía Đông Nam huyện
Yên Thế giáp huyện Lạng Giang, ranh giới tự nhiên là con sông Thương một sông
lớn trong hệ thống sông Thái Bình, phía Nam và Tây Nam giáp huyện Tân Yên,
đều của tỉnh Bắc Giang. Phía Tây và phía Bắc Yên Thế giáp các huyện của tỉnh
Thái Nguyên, kể từ Tây lên Bắc lần lượt là: Phú Bình, Đồng Hỷ, Võ Nhai. Toàn bộ
phía Đông Yên Thế giáp với huyện Hữu Lũng của tỉnh Lạng Sơn. Chảy qua giữa
huyện, theo hướng Đông Nam là con sông Sỏi, một nhánh nhỏ đầu nguồn của sông
Thương.
Yên Thế có diện tích trên 303 km. Huyện Yên Thế có 21 xã, thị trấn với 3
trung tâm kinh tế xã hội là thị trấn Cầu Gồ, thị trấn Bố Hạ và trung tâm cụm xã
vùng cao Mỏ Trạng (đạt tiêu chuẩn đô thị loại V). Toàn huyện có gần 10 vạn dân
với 08 dân tộc anh em cùng nhau chung sống gồm: Kinh, Tày, Nùng, Mường, Dao,
Cao Lan, Hoa, Sán Dìu. Trung tâm huyện lỵ là thị trấn Cầu Gồ.
Huyện Yên Thế có trên 50% diện tích tự nhiên là đất lâm nghiệp, có nhiều


vườn đồi, vườn rừng, độ dốc thấp và cơ bản được phủ xanh bằng tán cây lâm
nghiệp lâu năm. Đây là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy mô hình kinh tế vườn
đồi, vườn rừng, kinh tế trang trại, gia trại phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm hàng
hoá như: gà đồi Yên Thế, gỗ chế biến, chè...
Đặc biệt, Đại hội Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2015-2020 đã xác định phát triển
nông, lâm nghiệp hàng hóa là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt với một số sản phẩm
hàng hóa chủ lực lựa chọn: cây lâm nghiệp, chè, cây ăn quả và chăn nuôi gà đồi
bền vững… Từ đó, UBND huyện đã xây dựng các kế hoạch, đề án; có cơ chế thích
hợp thực hiện chính sách dồn điền, đổi thửa; thực hiện lồng ghép các chương trình
khuyến nông, khuyến lâm để hỗ trợ cây, con giống, vật tư, hỗ trợ mua máy móc
phục vụ sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Kết quả đến nay, đã xuất hiện nhiều mô hình trang trại hiệu quả kinh tế cao,

cho thu nhập từ 200-500 triệu đồng/năm. Ngoài ra, phong trào sản xuất đồi rừng,
mô hình trang trại phát triển mạnh; đã hình thành các vùng sản xuất như: vùng
trồng cam ở các xã: Đông Sơn, Đồng Tâm, Hồng Kỳ; vùng trồng rừng kinh tế ở
các xã vùng cao của huyện và xã Tiến Thắng, Đồng Hưu…; vùng chăn nuôi gà đồi tập trung nhiều ở
các xã: Đồng Tâm, Tiến Thắng, Tam Tiến…; vùng trồng Chè ở
xã Xuân Lương, Canh Nậu...
Kinh tế - xã hội của huyện trong những năm qua đã phát triển khá toàn diện
và có nhiều đột phá mới, chỉ tính từ năm 2016 và đầu năm 2017 đã có nhiều
chuyển biến mới về chất và lượng, cụ thể:
- Về sản xuất nông - lâm nghiệp
Nông nghiệp
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 12.020 ha đạt 103,04% KH năm và
bằng 100,23% so với năm 2015; chè 500 ha, đạt 103% KH, sản lượng chè tươi
3.800 tấn. Cây ăn quả 4.700ha, sản lượng quả tươi 20.000 tấn. Tổng sản lượng
lương thực cây có hạt 39.682 tấn, đạt 105,82% KH. Tổng đàn gia cầm 4,5 triệu
con, đạt 100% KH (đàn gà 4 triệu con); đàn lợn 105.000 con, đạt 110,5% KH; đàn
trâu, bò 11.019 con, đạt 100,17% KH (đàn bò 4.501 con); công tác phòng chống
dịch bệnh được quan tâm chỉ đạo, không để dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Tổng
diện tích nuôi trồng thủy sản 1.006ha, sản lượng khai thác 3.700 tấn.
Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm 6.824 ha/6.901 ha, đạt 98,88 % kế
hoạch và bằng 98,4 % so với cùng kỳ năm 2016. Sản lượng lương thực có hạt đạt


16.950 tấn, bằng 93,7% so với cùng kỳ năm 2016.
Tổng đàn, gia súc, gia cầm được duy trì ổn định so với cùng kỳ năm 2016.
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản 1.006 ha, sản lượng đạt 2.700 tấn, bằng 102,5
so với cùng kỳ, chủ yếu là cá nuôi thương phẩm. Công tác phòng chống dịch trên
đàn vật nuôi được quan tâm thực hiện tốt nên sáu tháng đầu năm không có dịch
bệnh lớn xảy ra .
Lâm nghiệp:

Năm 2016 trồng 1.354 ha rừng tập trung, 307.000 cây phân tán, đạt 120,4%
KH. Làm tốt công tác chăm sóc và bảo vệ rừng, công tác phòng cháy chữa cháy
rừng; không để xảy ra cháy rừng trên địa bàn huyện. Khai thác trên 983,5 ha rừng
trồng với sản lượng trên 85.775 m3 gỗ các loại.
Thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Công tác trồng
rừng, khai thác, phòng chống cháy rừng được quan tâm (trồng 1.260 ha rừng tập
trung bằng 132,6 % so với cùng kỳ năm 2016 và 327 nghìn cây phân tán; khai
thác 598,5 ha rừng trồng được 47.527 m3 gỗ và 8.850 ste củi).
- Về Sản xuất công nghiệp - TTCN; thương mại - dịch vụ
Năm 2016 tổng giá trị sản xuất ước đạt 1.310 tỷ đồng, đạt 100,7% KH năm,
trong đó, công nghiệp 627 tỷ đồng, TTCN 683 tỷ đồng. Các sản phẩm chủ yếu gồm:
May công nghiệp, vôi hòn, cay vôi, gỗ bóc, mộc dân dụng, gạch không nung, đan
lát, chế biến nông, lâm sản...;chỉ đạo giải thể bắt buộc 10 HTX theo Luật Hợp tác xã
năm 2012; thu hút 01 doanh nghiệp vào đầu tư, sản xuất tại Cụm công nghiệp Cầu
Gồ, xã Đồng Tâm (Công ty TNHH Thành Minh Quân đầu tư xây dựng nhà máy chế
biến gỗ xuất khẩu), 01 doanh nghiệp Hàn Quốc tìm cơ hội đầu tư nhà máy sản xuất
điện năng lượng mặt trời tại xã Đồng Tiến. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công
nghiệp - TTCN trên địa bàn hoạt động cơ bản ổn định, giải quyết việc làm cho
khoảng 3.000 lao động.
Giá trị sản xuất ước thực hiện 750 tỷ đồng, đạt 50% KH, tăng 95 tỷ đồng so
với cùng kỳ năm 2016 (trong đó, công nghiệp 368 tỷ đồng, TTCN 382 tỷ đồng).
Các sản phẩm chủ yếu: May mặc, vôi hòn, cay vôi, mộc dân dụng, gỗ bóc... Các
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất công nghiệp - TTCN tại địa bàn hoạt động cơ bản ổn
định, từ đó hạn chế tình trạng thất nghiệp và ổn định đời sống cho công nhân.
Tổng giá trị lưu chuyển hàng hóa và doanh thu bán lẻ ước đạt 950 tỷ đồng,
đạt 52,7% KH, tăng 140 tỷ đồng so với cùng kỳ năm 2016. Dịch vụ vận tải tiếp tục


phát triển, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và đi lại của nhân dân.
- Về sản xuất công nghiệp – xây dựng:

Hoàn thành, đưa vào sử dụng 06/07 công trình khởi công mới năm 2016 như
nâng cấp, sửa chữa tuyến đường trục xã Xuân Lương đi bản Xoan; đường trục xã
Đồng Tiến - Canh Nậu; nâng cấp, sửa chữa trường Mầm thị trấn Cầu Gồ (cũ) làm trụ
sở làm việc cho các đơn vị khối sự nghiệp; đường vào đền thờ Bác Hồ và các anh
hùng liệt sỹ, nhà làm việc liên cơ quan.
Triển khai các dự án lớn như: Kè chống sạt lở kết hợp đê ngăn lũ, đường cứu
hộ cứu nạn 4 xã vùng sông Thương, sông Sỏi (tuyến số 12); khu dân cư mới thị
trấn Bố Hạ, khu dân cư mới TT Cầu Gồ. Hoàn thiện các trình tự, thủ tục để triển
khai xây dựng khu dân cư trung tâm xã Phồn Xương.
Đến nay toàn huyện đã xây dựng, bổ sung quy hoạch xong 04 cụm công
nghiệp và 03 điểm công nghiệp với tổng diện tích trên 100 ha; 01 nhà máy chế
biến chè xanh, chè đen xuất khẩu. Bên cạnh đó các ngành nghề nông thôn như: sản
xuất gạch, vôi hòn, cây vôi, mộc dân dụng, khai thác cát sỏi.... tiếp tục được phát
triển và đã thu hút được khoảng 4.000 hộ tham gia, đồng thời góp phần giải quyết
công việc làm cho hàng ngàn lao động.
- Về việc thực hiện xây dựng nông thôn mới 19 xã trong huyện đã hoàn thành công tác quy hoạch,
phê duyệt đề án xây
dựng nông thôn mới, đến nay đã có xã An Thượng, Xã Đồng Tâm là xã điểm về
đích xây dựng nông thôn mới. Hiện đang tập trung cao trong công tác xây dựng
nông thôn mới cho xã Phồn Xương và thôn Đồng Lân xã Đồng Kỳ để trở thành xã,
thôn đạt chuẩn nông thôn mới năm 2017 theo kế hoạch; đồng thời các xã còn lại
hoàn thành ít nhất 1 tiêu chí. Làm cho diện mạo nông thôn có nhiều đổi mới, đời
sống vật chất, tinh thần của người dân khu vực nông thôn được cải thiện đáng kể.
- Về công tác giáo dục - đào tạo
Chất lượng giáo dục và các điều kiện bảo đảm chất lượng giáo dục tiếp tục
được ổn định và giữ vững. Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng trong nhà trường giảm nhanh,
suy dinh dưỡng thể nhẹ cân còn 3,1%, giảm 2,5 %, thể thấp còi còn 3,7% giảm
4,0% so với năm học trước. Chất lượng giáo dục tiểu học, giáo dục mũi nhọn cấp
Trung học cơ sở có nhiều khởi sắc; số lượng giải trong kỳ thi chọn Học sinh giỏi
văn hóa, sáng tạo KHKT tăng hạng so với năm học trước (dẫn đầu trong 04 huyện

miền núi). Công tác phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập Tiểu học và


THCS được duy trì bền vững. Cơ sở vật chất trường học được tăng cường, tỷ lệ
phòng học kiên cố MN đạt 80 % tăng 6,7% so với năm trước, phổ thông đạt 97%.
Các trường thuộc huyện (MN, TH, THCS) có 50 trường học đạt chuẩn quốc gia, đạt
tỷ lệ 79,4% tăng 02 trường so với năm học trước. Tỷ lệ học sinh tham gia Bảo
hiểm y tế đạt 99,42%.
Tại địa bàn huyện đã hoàn thành đưa vào sử dụng trên 253 phòng học kiên
cố, 49 phòng công vụ giáo viên; xây mới 01 trường học và 99 hạng mục công trình
phụ trợ. Đã đầu tư xây mới trụ sở Trung tâm Y tế huyện; nâng cấp, cải tạo Bệnh
viện Đa khoa huyện và 15 trạm y tế xã, thị trấn.
-Về Công tác y tế, dân số - KHHGĐ, trẻ em.
Công tác khám và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được thực hiện tốt, 6
tháng đầu năm, tổng số lượt khám chữa bệnh là 101.696 lượt giảm 10429 lượt so
với cùng kỳ năm 2016 (trong đó tuyến huyện 59.946 lượt, tuyến xã 41.750 lượt).
Việc bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm trên địa bàn huyện và triển khai các biện
pháp phòng chống dịch bệnh như: Cúm A H7N9, A H5N1, dịch tiêu chảy cấp nguy
hiểm, phòng chống sốt xuất huyết... được thực hiện tốt nên không để xảy ra tình
trạng ngộ độc thực phẩm và dịch bệnh xảy ra.
Triển khai kế hoạch lập hồ sơ, khám, quản lý sức khỏe người dân (sổ y bạ
điện tử) tại 03 xã điểm: Đồng Tâm, Canh Nậu, Đồng Vương; tiến tới triển khai
toàn huyện.
Công tác gia đình trẻ em được quan tâm thực hiện, trong đó thực hiện có
hiệu quả các biện pháp chống xâm hại tình dục trẻ em, bạo lực gia đình, tai nạn
đuối nước...
- Về công tác văn hoá, thể thao và du lịch; thông tin - truyền thông
Công tác quản lý nhà nước về hoạt động văn hoá và các dịch vụ văn hoá
được quan tâm chỉ đạo, từng bước đi vào nề nếp; tổ chức thành công Lễ hội Yên
Thế ngày 16/3/2017, Lễ hội văn hóa các dân tộc huyện Yên Thế đồng thời đã khai

trương khu du lịch Xuân Lung – Thác Ngà, xã Xuân Lương đã thu hút hàng vạn
lượt du khách về dự.
Thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền về nghị quyết đại hội Đảng bộ
các cấp; các ngày lễ kỷ niệm lớn của dân tộc, của tỉnh và huyện với nhiều hình
thức phong phú, đa dạng; đồng thời tuyên truyền kịp thời các nhiệm vụ chính trị,
kinh tế xã hội của địa phương.


- Về cải cách hành chính
Huyện đã ra Quyết định phân bổ chỉ tiêu biên chế cán bộ, công chức, viên
chức năm 2017 cho các cơ quan, đơn vị thuộc UBND huyện và UBND các xã, thị
trấn. Trình UBND tỉnh phê duyệt Đề án vị trí việc làm ngạch công chức trong các
cơ quan hành chính huyện. Thực hiện việc tinh giảm biên chế theo chỉ tiêu được
giao. Triển khai việc chuyển đổi mã ngạch đối với giáo viên in và cấp phát thẻ cán
bộ, công chức, viên chức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền
quản lý của UBND huyện.
Tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ chế một cửa, một cửa
điện tử cấp huyện; giảm thời gian giải quyết TTHC tại bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả UBND huyện và UBND các xã, thị trấn.
* Đặc điểm của huyện với diện tích tự nhiên là đất lâm nghiệp, có nhiều
vườn đồi, vườn rừng, độ dốc thấp và cơ bản được phủ xanh bằng tán cây lâm
nghiệp lâu năm. Đây là những điều kiện thuận lợi thúc đẩy mô hình kinh tế vườn
đồi, vườn rừng, kinh tế trang trại phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá như:
gà đồi Yên Thế, gỗ chế biến, chè... . đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng về giao
thông, nâng cao trách nhiệm quản lý chỉ đạo về đầu tư và xây dựng những hạng
mục giao thông trên địa bàn để đảm bảo chất lượng công trình cũng như giao thông
đi lại được thông suốt và thúc đẩy các loại hình kinh tế phát triển. Mục tiêu phát
triển kinh tế của huyện Yên Thế luôn được coi trọng và là một trong trong những
nhiệm vụ trọng tâm để đưa huyện Yên Thế ngày càng vươn lên và phát triển.
Từ điều kiện tự nhiên cũng như tình hình kinh tế tại Nghệ An chúng ta rút ra

được những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế xã hội, với đặc thù là huyện có diện tích đất
lâm nghiệp lớn, có nhiều vườn rừng, độ dốc thấp đây là những điều
kiện rất thuận lợi để phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại như gà đồi Yên
Thế, chè, nuôi hưu… muốn thực hiện tốt thì cần thực hiện theo hướng sản xuất
hàng hóa tập trung, gắn với nhu cầu thị trường và ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các đề án, dự án hỗ trợ phát triển các loại
cây, con hàng hóa; quản lý, khai thác có hiệu quả thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm
nông, lâm nghiệp của địa phương.
Đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông từ đó thúc đẩy các loại hình
kinh tế của địa phương phát triển.
Với tiềm năng, lợi thế của huyện có 09 địa điểm di tích lịch sử Quốc gia đặc


biệt, cùng với nhiều công trình văn hóa dân gian Đình, Đền, Chùa được nhiều nơi
biết đến. Bên cạnh đó Yên Thế có thế mạnh lắm suối, nhiều rừng, cùng với lòng
hiếu khách của người dân nơi đây. Đặc biệt, những ngày đầu xuân 2017 huyện Yên
Thế đã tổ chức Lễ hội văn hóa các dân tộc huyện Yên Thế gắn với khai trương khu
du lịch tâm linh sinh thái Xuân Lung - Thác Ngà; Lễ đón bằng công nhận cây Lim
di sản nghìn năm tuổi…đã thu hút hàng nghìn lượt du khách về tham quan, dự hội
kết hợp với du lịch tâm linh – du lịch sinh thái Thác Ngà – du lịch trải nghiệm tại
Bản Ven – Xuân Lương…tuy nhiên, việc sử dụng khai thác, gìn giữ những tiềm
năng, lợi thế hiện nay còn hạn chế đòi hỏi các cấp ủy đảng, chính quyền có kế
hoạch bảo tồn và phát huy có hiệu quả những tiềm năng và lợi thế đó.
4. Một số đề xuất kiến nghị phát triển kinh tế xã hội.
a. Công tác phát triển kinh tế - xã hội.
- Cần đầu tư phát triển kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại, vườn chè…muốn
thực hiện tốt thì cần thực hiện theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, gắn với nhu
cầu thị trường và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất.
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả các đề án, dự án hỗ trợ phát triển các loại
cây, con hàng hóa; quản lý, khai thác có hiệu quả thương hiệu, nhãn hiệu sản phẩm

nông, lâm nghiệp của địa phương.
- Phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông, nâng cao trách nhiệm quản lý chỉ
đạo về đầu tư và xây dựng những hạng mục giao thông trên địa bàn để đảm bảo
chất lượng công trình cũng như giao thông đi lại được thông suốt.
- Tuyên truyền phổ biến giáo dục cho người dân trên địa bàn biết và nâng
cao ý thức, nghiêm túc chấp hành luật giao thông. Tăng cường kiểm công tác tuần
tra kiểm soát giao thông cũng như các hạng mục đường nếu có hỏng hóc, xuống
cấp thì cần sửa chữa khắc phục kịp thời.
b. Công tác phát triển dịch vụ du lịch.
- Đầu tư cơ sở hạ tầng cho các khu di tích, khu du lịch
- Chủ động phối hợp với các cơ quan báo, đài tuyên truyền, quảng bá tiềm
năng phát triển du lịch từ giá trị các di tích lịch sử - văn hóa có trên địa bàn các xã,
thị trấn. Thông qua phát triển du lịch để bảo tồn và phát huy giá trị các di tích lịch
sử - văn hóa.
PHẦN III


PHẦN KẾT LUẬN
Qua chuyến đi thực tế tại Nghệ An đó giúp bản thân tôi hiểu thêm về tình
hình phát triển kinh tế - xã hội cũng như đời sống văn hóa, phong tục tập quán từ
đó biết và vận dụng vào phát huy tiềm năng thế mạnh của địa phương mình sao
cho đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
Việc Phát triển cơ sở hạ tầng về giao thông, đảm bảo trật tự an toàn giao
thông phát triển kinh tế xã hội hiện là vấn đề chung của các địa phương trong cả
nước chứ không riêng của địa phương nào. Đòi hỏi chính quyền các cấp cần quan
tâm đầu tư cả về nguồn nhân lực, trí tuệ, tài chính sao cho phù hợp.
Tuyên truyền phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, gắn với việc nắm bắt tâm tư tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân
từ đó góp phần thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, chính sách pháp
luật của Nhà nước nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,

chính trị của địa phương.
Trên đây là báo cáo kết quả chuyến đi thực tế tại tỉnh Nghệ An. Tôi xin trân
trọng cảm ơn các thầy cô./.
Yên Thế, ngày 23 tháng 06 năm 2017
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH
Bạch Văn Huân


MỤC LỤC
Phần I. Phần mở đầu:
Trang 1
Phần II . Phần nội dung:
Trang 2
A. Tại thị xã Cửa Lò - Nghệ An:
Trang 2
1. Tình hình chấp hành luật giao thông đường bộ của người dân khi tham gia giao
thông
Trang 2.
2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Nghệ An
Trang 3
2.1. Sơ lược về Nghệ An
Trang 3
2.2. Tình hình phát triển KT-XH của tỉnh Nghệ An
Trang 3
2.3. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của Thị Xã Cửa Lò
Trang 4


B. Tại Quê hương Bác Hồ.
Trang 4

3. Liên hệ địa phương
Trang 6
4. Một số đề xuất kiến nghị phát triển kinh tế xã hội
Trang 12
Phần III. Phần kết luận
Trang 13


Danh mục tài liệu tham khảo:
1. Giáo trình những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh;
2. Giáo trình những vấn đề cơ bản về Đảng Cộng sản và lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam; nghiệp vụ công tác Đảng ở cơ sở;
3. Giáo trình những vấn đề cơ bản về Hệ thống chính trị, Nhà nước & Pháp
luật, Quản lý hành chính Nhà nước;
4. Giáo trình Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực
của đời sống xã hội;
5. Giáo trình kỹ năng lãnh đạo, quản lý và nghiệp vụ công tác MTTQ và
Đoàn thể nhân dân cấp cơ sở;
6. Báo chí, tạp chí.



×