Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Luận văn thạc sỹ - Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực chuyên môn cho nam sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (730.28 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH
========================

NGUYỄN XUÂN GIANG

NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ
THỂ LỰC CHUYÊN MÔN CHO NAM SINH VIÊN QUẦN VỢT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH

Chuyên ngành: Huấn luyện thể thao
Mã số:

60140104

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hướng dẫn khoa học:

TS. Nguyễn Xuân Trãi

BẮC NINH – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận
văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nghiên cứu nào.
Tác giả



Nguyễn Xuân Giang


DANH MỤC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CLB:

Câu lạc bộ

ĐH:

Đại học

GDTC:

Giáo dục thể chất

TĐTL:

Trình độ thể lực

TDTT:

Thể dục thể thao

PHVĐ:

Phối hợp vận động

VĐV:


Vận động viên


DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
PHIẾU PHỎNG VẤN SỐ 1................................................................................56
PHIẾU PHỎNG VẤN SỐ 2................................................................................58
BIỂU ĐỒ 1 : Trị số tăng trưởng các tố chất thể lực của sinh viên chuyên sâu
quần vợt qua từng năm học.........Error: Reference source not found


MỤC LỤC
PHIẾU PHỎNG VẤN SỐ 1................................................................................56
PHIẾU PHỎNG VẤN SỐ 2................................................................................58


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Thể dục thể thao (TDTT) là món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời
sống xã hội loài người. Nó có lịch sử ra đời và gắn liền với sự tồn tại của loài
người. Ngày nay khi nền khoa học kỹ thuật phát triển, đời sống vật chất của xã
hội loài người được nâng cao thì vai trò TDTT đối với đời sống tinh thần của
con người là rất cần thiết. TDTT giúp cho con người được thư giãn, giải trí sau
những hoạt động căng thẳng giúp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả công
tác. Hiện nay tất cả các nước trên thế giới đều hiểu rõ tầm quan trọng của TDTT
không những để nâng cao sức khỏe, thỏa mãn nhu cầu vận động…mà thành tích
thể thao còn là thước đo sự phát triển của một quốc gia, chính vì thế mà thành
tích thể thao cao đang được nhiều nước trên thế giới đầu tư đem lại những vinh
quang cho Tổ quốc, khẳng định vị thế đất nước trên trường quốc tế.

Ở Việt Nam, TDTT là một bộ phận không thể thiếu trong nền giáo dục và
cũng là một phương tiện để đưa đất nước hội nhập cùng bạn bè trong khu vực,
châu lục cũng như trên thế giới. Trong những năm gần đây, nền TDTT Việt Nam
đã đạt được những thành tích đáng kể trong các cuộc so tài chính thức tại khu
vực, châu lục và thế giới ở các môn như Bắn súng, Đá Cầu, Thể dục, Điền Kinh,
Bơi Lội, các môn võ thuật... Những thành tích đó đã bước đầu được sự công
nhận và ủng hộ của toàn xã hội.
Trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh có bề dày trong công tác giáo
dục và đào tạo cho sinh viên. Là trung tâm lớn nhất của cả nước đào tạo ra nhiều
cán bộ khoa học, giáo viên, huấn luyện viên… với nhiều chuyên ngành khác
nhau. Nhằm nâng cao chất lượng học tập cho sinh viên, trong những năm gần đây
nhà trường không ngừng đổi mới chương trình dạy - học, đồng thời liên tục phát
triển và mở rộng một số môn thể thao mới như: Cờ vua, Bóng ném, Pencak silat,
Quần vợt…
Năm học 2000 - 2001, trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh đã đưa


2

môn Quần vợt vào chương trình giảng dạy cho sinh viên chuyên sâu. Do mới
đưa vào giảng dạy chính khoá nên trình độ của sinh viên còn hạn chế chưa có sự
đồng đều. Về kỹ thuật đã có nhiều sinh viên được hoàn thiện tốt hơn do có sự
tập luyện với thời gian tương đối dài trước khi vào nhập trường, song đa số còn
lại vẫn chỉ là được trang bị ở giai đoạn ban đầu.
Quần vợt là môn thể thao được phát triển rất sớm ở các nước Châu Âu,
Châu Mỹ. Do đặc điểm phong phú, đa dạng và tính hấp dẫn, Quần vợt nhanh
chóng đợc phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước trên Thế giới và trở thành
một trong những môn thể thao nằm trong chương trình thi đấu ở các kỳ Đại
hội Olympic.
Trong bối cảnh đó, thể thao Việt Nam cũng đang cố gắng vươn xa hơn

tới những thành tích châu lục và trên thế giới. Do đặc điểm phong phú, đa dạng,
hấp dẫn, Quần vợt nhanh chóng thu hút đông đảo người chơi và được phát triển
mạnh mẽ hầu hết các nước trên thế giới. Quần vợt du nhập vào nước ta từ thế kỷ
XX nhưng chỉ được phát triển khi đất nước giải phóng. Ngày 04/11/1989, Liên
đoàn Quần vợt Việt Nam ra đời (VTF), tới năm 2000 trở thành thành viên trong
Liên đoàn Quần vợt thế giới (ITF). Ngày nay, Quần vợt đã được phổ biến rộng
rãi, hàng trăm sân Quần vợt đã được xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu chơi, số
người chơi lên đến hàng vạn người tại các tỉnh thành.
Quần vợt là môn thi đấu đối kháng trong đó tố chất thể lực chuyên môn
chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Nó là nền tảng giúp cho VĐV đạt thành
tích cao trong thi đấu. Người có thể lực tốt sẽ thực hiện kỹ chiến thuật tốt hơn,
giúp các VĐV có bản lĩnh vững vàng, tự tin, chủ động, sáng tạo trong thi đấu.
Trong thực tiễn, thể lực của người Việt Nam còn thua kém, vì vậy để đạt được
thành tích cao cho môn Quần vợt, yếu tố thể lực phải được quan tâm hơn vì ảnh
hưởng đến thành tích thi đấu của VĐV.
Nét nổi bật của Quần vợt hiện nay là tính linh hoạt và tốc độ, sự nắm
vững kỹ - chiến thuật, khả năng phối hợp ở mọi vị trí, năng lực phản ứng kịp
thời với các tình huống cùng với sự tập trung chú ý cao và ổn định về tâm lý.


3

Với tư tưởng chỉ đạo chiến thuật là "tích cực, chủ động, tấn công toàn diện và
kết thúc nhanh chóng". Vì vậy muốn đạt đợc thành tích cao trong môn Quần vợt
thì vận động viên (VĐV) phải biết kết hợp nhuần nhuyễn nhiều yếu tố. Song
chúng ta phải thừa nhận rằng: yếu tố thể lực là vô cùng quan trọng, nó góp phần
không nhỏ mang lại hiệu quả thi đấu và có vai trò quyết định đối với thành tích
của vận động viên. Chính vì lẽ đó trong qúa trình giảng dạy và huấn luyện cho
VĐV thì việc phát triển các tố chất chuyên môn đặc thù như: sức nhanh, sức
mạnh, sức bền, khả năng phối hợp vận động... có ý nghĩa rất lớn đến thành tích.

Tố chất thể lực biểu hiện trong Quần vợt là khả năng phối hợp vận động
di chuyển để thực hiện các động tác như: đập bóng, giao bóng, đỡ bóng, đánh
bóng phải trái, vô lê… Là khả năng duy trì nhịp độ trận đấu trong suốt thời gian
thi đấu. Đặc điểm trong thi đấu Quần vợt là VĐV luôn phải hoạt động với cường
độ cao và thời gian dài. Mỗi trận đấu Quần vợt diễn ra trung bình từ 90 - 100
phút (tuỳ theo từng loại giải và đối tượng thi đấu). ở trình độ càng cao thì các
trận đấu diễn ra thời gian càng dài, có trận đấu kéo dài đến hơn 6 giờ. Điều đó
chứng tỏ yếu tố thể lực trong Quần vợt là rất cần thiết và quan trọng trong việc
nâng cao thành tích của môn thể thao này. Nhưng mức độ ảnh hưởng và vai trò
của nó với hiệu quả thi đấu vẫn còn là vấn đề đang được nghiên cứu. ở một góc
độ nào đó thì việc đạt được mục đích chính của qúa trình huấn luyện phải thông
qua các bài tập phù hợp.
Trong thể thao hiện đại, con người ngày càng vươn tới đỉnh cao của năng
lực vận động với xu thế huấn luyện là nâng cao khối lượng và cường độ. Đây là
xu thế tiến bộ nhất để đưa các VĐV lên những đỉnh cao mới. Để giải quyết vấn
đề này việc điều khiển quá trình huấn luyện trở thành công việc ngày càng phức
tạp, đòi hỏi hàng loạt các thông tin nhanh chóng, khách quan chính xác về năng
lực vận động, thể lực và khả năng chuẩn bị của VĐV. Việc nghiên cứu năng lực
vận động của con người và phương pháp đánh giá là một quá trình khó khăn
phức tạp. Những năm gần đây, vấn đề thể lực của VĐV nhiều môn thể thao đã
được nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình huấn luyện. Đánh giá


4

trình độ tập luyện của vận động viên cũng bước đầu được quan tâm.
Chính vì vậy vấn đề kiểm tra đánh giá trình độ thể lực chuyên môn trong
quá trình đào tạo sinh viên của các bộ môn trường đại học thể dục thể thao Bắc
Ninh nói chung và bộ môn Quần Vợt nói riêng luôn là nhiệm vụ quan trọng
nhằm xác định hiệu quả giảng dạy đối với việc thực hiện năng lực thực hành của

sinh viên chuyên sâu.
Thông qua quá trình quan sát các buổi tập, thi đấu của nam sinh viên
chuyên sâu Quần vợt trường Đại học TDTT Bắc Ninh, chúng tôi nhận thấy thể
lực chuyên môn của sinh viên còn yếu dẫn đến khả năng sử dụng kỹ chiến thuật
bị hạn chế. Quá trình nghiên cứu và tìm hiểu một số tài liệu đã nghiên cứu về thể
lực chuyên môn tôi thấy đã có nhiều tác giả nghiên cứu về thể lực của nhiều
môn khác nhau như: Bóng chuyền của Lê Hoàng Dũng (2011),cầu lông của Đỗ
Thị Tươi (2011),nhảy xa của Quách Thị Mai Hương (2011)..v.v. Chúng tôi nhận
thấy chưa có đề tài nào đi sâu và tìm hiểu vấn đề trên ở môn Quần vợt.
Xuất phát từ những vấn đề trên và mong muốn góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo sinh viên chuyên sâu Quần Vợt trường Đại học thể dục thể thao
Bắc Ninh chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực chuyên môn
cho nam sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh”
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích tổng hợp những cơ sở lý luận và
thực tiễn của việc đánh giá trình độ tập luyện trong thể thao nói chung và môn Quần
Vợt nói riêng, đề tài tiến hành xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực
chuyên môn cho nam sinh viên Quần Vợt Truờng Đại học TDTT Bắc Ninh, nhằm
nâng cao hiệu quả giảng dạy và tập luyện của sinh viên, góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo của trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, đề tài
xác định các nhiệm vụ cụ thể sau:
Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu lựa chọn các Test đánh giá trình độ thể lực chuyên
môn cho nam sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.


5

Để giải quyết nhiệm vụ 1, đề tài tiến hành giải quyết các vấn đề sau:
- Thực trạng việc đánh giá trình độ thể lực chuyên môn của sinh viên

Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.
- Lựa chọn các Test đánh giá trình độ thể lực chuyên môn cho sinh viên
Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.
- Kiểm chứng độ tin cậy và tính thông báo của các test đã lựa chọn.
Nhiệm vụ 2: Xây dựng tiêu chuẩn và kiểm nghiệm tiêu chuẩn đánh giá
trình độ thể lực chuyên môn cho nam sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục
thể thao Bắc Ninh.
Để giải quyết nhiệm vụ 2, đề tài tiến hành giải quyết các vấn đề sau:
- Xây dựng bảng tiêu chuẩn phân loại đánh giá trình độ thể lực chuyên
môn của nam sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.
- Xây dựng bảng điểm đánh giá trình độ thể lực chuyên môn của nam
sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.
- Kiểm nghiệm trong thực tiễn các tiêu chuẩn đánh giá trình độ thể lực chuyên
môn của nam sinh viên Quần vợt trường Đại học thể dục thể thao Bắc Ninh.


6

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những quan điểm đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên
các môn thể thao
1.1.1. Các quan điểm đánh giá trình độ tập luyên của vận động viên
các môn thể thao
Trong thể thao hiện đại vấn đề đánh giá trình độ tập luyện của vận động
viên có một vai trò hết sức quan trọng. Việc tiến hành đánh giá trình độ tập
luyện một cách khoa học bằng phương pháp khách quan sẽ cho phép huấn luyện
viên luôn nắm được những thông tin ngược cần thiết để điều chỉnh quá trình
huấn luyện, đồng thời nâng cao hiệu quả công tác tuyển chọn và đào tạo vận
động viên. Đánh giá trình độ tập luyện một cách khoa học đối với vận đông viên

từng môn thể thao cho phép huấn luyện viên có các thông tin khách quan để
đánh giá đúng về phương hướng huấn luyện đã được lựa chọn, nắm vững các
thông tin cần thiết để chủ động điều hành kế hoạch huấn luyện và giúp vận động
viên có đủ căn cứ để tự đánh giá khả năng của mình.
Chỉ số cơ bản có tính chung nhất, tập trung nhất của trình độ tập luyện, là thành
tích thể thao của vận động viên đạt được trong quá trình tập luyện. Ở mỗi chu kì tập
luyện thường xuất hiện những thành tích thể thao tương ứng. Thành tích thể thao luôn
là hiện tượng đa nhân tố và phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân. Trong những điều kiện
như nhau, thành tích thể thao của những cá thể chủ yếu phụ thuộc vào năng khiếu và
mức độ đào tạo vận động viên. Năng khiếu của vận động viên là tiền định, còn trình
độ đào tạo thì luôn thay đổi tuỳ thuộc vào tài nghệ của huấn luyện viên và sự nỗ lực
của vận động viên. Khái niệm về trình độ tập luyện và thành tích thể thao không đồng
nhất. Khái niệm về trình độ tập luyện trong nhiều tài liệu hiện đại có những cách thể
hiện và nhìn nhận khác nhau.
Phân tích các tài liệu khoa học thu thập được ở trong nước và nước ngoài
có một số cách tiếp cận về trình độ tập luyện như sau:


7

Theo tác giả Nôvicôp A.D và Matveep L.P, trình độ tập luyện chủ yếu
liên quan đến những thay đổi về mặt sinh học thông qua sự thích ứng (về chức
năng và hình thái) xảy ra trong cơ thể vận động dưới tác động của lượng vận
động tập luyện. Những thay đổi đó dẫn đến sự phát triển năng lực hoạt động của
vận động viên [36]
Theo tác giả Aulic I.V, yếu tố cơ bản của trình độ tập luyện là thành tích thể
thao. Do đó, ông cho rằng: “Trình độ tập luyện là năng lực tiềm tàng của vận động
viên để đạt được những thành tích nhất định trong môn thể thao được lựa chọn và
năng lực này biểu hiện cụ thể ở mức độ chuẩn bị về kỹ thuật thể thao, về thể lực, chiến
thuật, đạo đức, ý chí và trí tuệ. Theo tác giả thì trình độ tập luyện càng cao thì vận

động viên càng có khả năng thực hiện được những nhiệm vụ nhất định với hiệu quả
mỹ mãn hơn. Trình độ tập luyện chính là mức độ thích ứng của cơ thể đối với một
nhiệm vụ cụ thể, đạt được bằng con đường luyện tập [33].
Theo quan điểm của tác giả Dr. Harre [35], trình độ tập luyện của vận
đông viên thể hiện ở sự nâng cao năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng
vận động tập luyện, lượng vận động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác. Thông
qua lượng vận động tập luyện, lượng vận động thi đấu, trình độ từng yếu tố của
năng lực thể thao ( bao gồm cả năng lực thể chất, năng lực phối hợp vận động,
năng lực trí tuệ, kỹ xảo, kỹ thuật, năng lực chiến thuật và các phẩm chất tâm lý )
một mặt được nâng cao, mặt khác giữa chúng cũng hình thành mối quan hệ bền
vững. Bên cạnh đó, việc phát huy đầy đủ các tiềm năng thể chất của vận động
viên thông qua sự nỗ lực ý chí ở mức cao nhất cũng có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Năng lực thể thao cao nhất mà vận động viên đạt được qua từng chu kỳ
tập luyện phù hợp với trình độ tập luyện của họ được gọi là trạng thái sung sức
thể thao. Theo tác giả Dr. Harre, các thông tin về trình độ tập luyện của vận
động viên được thể hiện ở các cuộc thi đấu và kiểm tra thành tích. Các tiêu
chuẩn cơ bản có thể sử dụng trong việc đánh giá trình độ tập luyện và dự báo
tiềm năng của vận động viên đó là:
+ Tiêu chuẩn về trình độ của thành tích


8

+ Tiêu chuẩn về nhịp độ phát triển của thành tích.
+ Tiêu chuẩn về sự ổn định thành tích và khả năng tăng trưởng.
+ Tiêu chuẩn về khả năng chịu đựng của vận động viên.
Bốn tiêu chuẩn trên thể hiện bốn mặt khác nhau của việc đánh giá tổng
hợp năng lực thể thao.
Như vậy, so với Matveep L.P. và Aulic I.V thì quan niệm nêu trên của Dr.
Harre về cấu trúc của trình độ tập luyện toàn diện hơn.

Theo quan điểm sư phạm, việc đánh giá trình độ tập luyện của vận động
viên chủ yếu dựa trên sự biến đổi về năng lực thể thao.
Theo quan điểm về sinh lý học thể dục thể thao thì trình độ tập luyện
được hiểu là mức độ thích nghi của cơ thể đối với một hoạt động nào đó đạt
được bằng tập luyện. Trình độ tập luyện bao giờ cũng liên quan đến những biến
đổi về cấu tạo và chức năng cơ thể sảy ra trong cơ thể dưới tác động của lượng
vận động tập luyện. Quan điểm này trên một chừng mực nhất định tương đương
với cách tiếp cận của Nôvicốp A.D và Matveep L.P. [36],[37]
Theo tác giả Lưu Quang Hiệp, trình độ tập luyện được xác định thông qua
các phương pháp sư phạm, tâm lý và y – sinh học. Trình độ tập luyện là một
khái niệm tổng hợp, đặc trưng cho khả năng của toàn bộ cơ thể. Nguyên lý cơ
bản để xem xét trình độ tập luyện là nguyên tắc tổng hợp, nghĩa là phải xem xét
một cách toàn diện tất cả các mặt hoạt động của cơ thể: trạng thái sức khoẻ,
trạng thái tâm lý, trình độ kỹ chiến thuật, trình độ thể lực… Trình độ tập luyện
cũng như biểu hiện cao nhất của nó là trạng thái sung sức thể thao, có thể được
xác định thông qua các chỉ tiêu sinh lý nhất định [15]
Theo quan điểm của tác giả Lê Văn Lẫm và cộng sự: “trình độ tập luyện
của vận động viên là kết quả hoạt động tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm
vụ trong thực tiễn huấn luyện thể thao. Trình độ tập luyện thể hiện ở mức độ
nâng cao chức phận cơ thể, năng lực hoạt động chung và chuyên môn của vận
động viên ở mức hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo thể thao phù hợp” [16].
Tác giả Phạm Danh Tốn cho rằng: Trong lý luận cũng như trong đào tạo


9

vận động viên người ta thường gặp các khái niệm như trình độ đào tạo hay trình
độ tập luyện. Nói đến trình độ đào tạo là nhằm chỉ tất cả các mặt đào tạo để làm
cho vận động viên có thể đạt được các thành tích thể thao kế tiếp nhau. Trình độ
đào tạo bao gồm trình độ đào tạo về thể lực, kỹ thuật, chiến thuật, tâm lý và cả

lý luận nhất định của vận động viên [22].
- Trình độ (năng lực) thể thao thể hiện trong tập luyện và thi đấu của vận
động viên. Nó là cấu trúc tổng hợp về thể năng, kỹ năng, trí năng, tâm năng…
Trình độ (năng lực) về chiến thuật liên quan chặt chẽ tới cả bốn thành phần trên.
Sự hình thành những năng lực trên chủ yếu qua huấn luyện.
Nhờ huấn luyện, vận động viên có được và nâng dần trình độ thích ứng
mới, ngày càng cao hơn ( trong giai đoạn phát triển ) hoặc duy trì hay hạn chế sự
suy giảm trong giai đoạn vận động viên đã có thâm niên thể thao tương đối cao.
Người ta còn gọi đó là trình độ tập luyện của vận động viên.
Để xác định trình độ tập luyện của một vận động viên trong một môn thể
thao nào đó, cần phải xem xét các yếu tố cấu thành năng lực thể thao của vận
động viên để lựa chọn tổ hợp các chỉ tiêu đặc trưng xác định trình độ thích ứng
của các yếu tố cấu thành năng lực dưới ảnh hưởng của lượng vận động. Thống
nhất với quan điểm của Harre D. rằng, năng lực thể thao là một phức hợp gồm
nhiều yếu tố như: năng lực phối hợp vận động, năng lực trí tuệ, kỹ xảo, kỹ thuật,
năng lực chiến thuật và các phẩm chất tâm lý [35].
Theo cách tiếp cận được trình bày quan niệm của các tác giả nêu trên thì
trình độ tập luyện được thể hiện qua một số đặc điểm sau:
- Những biến đổi thích nghi về hình thái và chức năng diễn ra trong cơ thể vận
động viên dưới tác động lượng vận động tập luyện và lượng vận động thi đấu.
- Trình độ tập luyện bao gồm nhiều mặt, nhiều thành phần nhưng dựa trên
cơ sở sinh học, không phải là bất biến mà là một trạng thái luôn luôn biến động
trong quá trình tập luyện.
- Thành tích thể thao được xem là yếu tố cơ bản của quá trình tập luyện.
Từ những kết quả phân tích được trình bày trên có thể hiểu: trình độ tập


10

luyện của vận động viên Quần Vợt là trình độ nâng cao các yếu tố thể lực, kỹ –

chiến thuật, chức năng và các phẩm chất tâm lý của vận động viên thông qua
quá trình huấn luyện và được thể hiện tập trung nhất bằng thành tích thi đấu của
vận đông viên. Trình độ này được phát triển và nâng cao nhờ tác động của lượng
vận động tập luyện và lượng vận động thi đấu trong môn Quần Vợt. Trình độ tập
luyện là phức hợp gồm nhiều mặt: thể lực, kỹ chiến thuật, năng lực tâm- sinh lý,
trong đó có trình độ tập luyện về thể lực là một mặt cấu thành của trình độ tập
luyện nói chung, và là nền tảng để nâng cao trình độ tập luyện các mặt khác.
1.1.2.Các quan điểm về huấn luyện tố chất thể lực chuyên môn trong
huấn luyện thể thao
Huấn luyện thể thao là chuẩn bị cho VĐV giành được thành tích thể thao
cao nhất trong thi đấu. Do đó các nhiệm vụ chính của huấn luyện thể thao trước
hết phải bắt nguồn từ các yêu cầu cụ thể trong thi đấu thể thao, ngoài ra còn xuất
phát từ bản thân các yêu cầu của lượng vận động trong huấn luyện. Các nhiệm
vụ chính của huấn luyện thể thao bắt nguồn từ cấu trúc thành tích. Các yếu tố
xác định thành tích cá nhân được sắp xếp thành 5 nhóm như sau.
- Các phẩm chất cá nhân của VĐV.
- Các tố chất thể lực.
- Các khả năng kỹ thuật, phối hợp vận động và kỹ xảo.
- Khả năng chiến thuật và trí tuệ.
- Sự hiểu biết của VĐV trong lĩnh vực khoa học TDTT.
Để đạt được thành tích thể thao cao, người ta phải sử dụng các phương
tiện khác nhau.
- Các bài tập thể chất.
- Các điều kiện tự nhiên (môi trường, không khí, nước, ánh sáng...).
- Các yếu tố vệ sinh.
Trong đó, bài tập thể chất là nhóm phương tiện chính để huấn luyện thể
thao, là phương tiện quan trọng nhất để nâng cao thành tích thể thao. Các bài tập
thể chất phải phù hợp với mục đích, nhiệm vụ của quá trình huấn luyện và



11

không được sử dụng một cách bừa bãi, không chọn lựa. Tính mục đích của một
bài tập trong huấn luyện thể thao thành tích cao thể hiện ở chỗ chúng được sử
dụng để phát triển thành tích trong môn chuyên sâu, phù hợp với yêu cầu cấu
trúc thành tích lâu dài, nâng cao khả năng chịu đựng lượng vận động một cách
liên tục và phát triển thành tích thể thao một cách nhanh chóng.
Thông qua việc lựa chọn hợp lý từng bài tập thể chất và thông qua việc
phân chia một cách tối ưu lượng vận động của từng bài tập và nhóm bài tập có
thể bảo đảm cho VĐV phát triển đầy đủ năng lực của họ trong lứa tuổi đạt thành
tích thể thao cao nhất.
Hiện nay, thể thao thành tích cao là một trong những lĩnh vực được quan
tâm đặc biệt không kém các lĩnh vực văn hoá xã hội, thể hiện khát vọng vươn
lên khả năng cao nhất của con người. Vì vậy, tiềm năng của con người đã và
đang được khai thác triệt để, nhằm đạt thành tích thể thao cao trong các cuộc thi
đấu. Các khả năng về kỹ - chiến thuật, thể lực, hoạt động tâm. Trong đó, khả
năng hoạt động thể lực, đặc biệt là thể lực chung và thể lực chuyên môn là nhân
tố quan trọng nhất. Điều đó đã được các nhà khoa học, chuyên gia hàng đầu
trong và ngoài nước nghiên cứu, các HLV luôn quan tâm chú trọng trong quá
trình huấn luyện các tố chất thể lực chung cũng như thể lực chuyên môn. Trong
tuyển chọn VĐV, khả năng chịu đựng lượng vận động là một trong những chỉ
tiêu cơ bản để đánh giá. Khả năng chịu đựng lượng vận động lớn của con người
nhờ vào nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố quan trọng là sự phát triển thể lực.
Do vậy, huấn luyện thể lực trong huấn luyện thể thao là mặt cơ bản để
nâng cao thành tích thể thao. Song, về bản chất mức độ phát triển các tố chất thể
lực, phụ thuộc vào các trạng thái chức năng, cấu tạo của nhiều cơ quan và hệ cơ
quan trong cơ thể. Quá trình tập luyện để phát triển các tố chất thể lực, cũng
chính là quá trình hoàn thiện các hệ thống chức năng có vai trò chủ yếu trong
mỗi hoạt động của cơ bắp cụ thể.
Theo quan điểm của Zusalovxki V.P. Philin cho rằng: “Các tố chất thể

lực phát triển có tính giai đoạn và không đồng đều, tuỳ thuộc vào từng thời kỳ


12

của lứa tuổi”. Vì vậy, người HLV không những phải nắm vững quy luật phát
triển tự nhiên, đặc biệt là thời kỳ nhạy cảm (thời kỳ thuận lợi cho việc phát triển
các tố chất) trong cơ thể, mà còn phải hiểu sâu sắc những đặc điểm phát triển tố
chất thể lực theo độ tuổi của từng cá thể VĐV.[40]
Theo Harre D 1996, Macximenco G 1980, Novicop Matveep L.P 1990,
Pankov B.A 2002, Phomin H 1980, Philin V.P 1996... thì cho rằng: “Dù bất kỳ
giai đoạn nào của quá trình đào tạo VĐV, công tác huấn luyện thể lực chung
được coi là then chốt, bởi thể lực chung cùng với thể lực chuyên môn được coi
là nền tảng của việc đạt thành tích cao”.
Song, một điều cần ghi nhận ở một số công trình nghiên cứu của các tác
giả: Nabatnhicova 1985, Ozolin 1980 thì: “Việc huấn luyện tố chất thể lực chung
phải là một quá trình liên tục, nhiều năm trong suốt quá trình đào tạo VĐV. Tuỳ
thuộc vào mục đích của từng giai đoạn huấn luyện mà tỷ trọng giữa huấn luyện
thể lực chung và thể lực chuyên môn được xác định cho phù hợp”.
Một vấn đề không kém phần quan trọng (theo quan điểm của các tác giả
Matveep 1990, Pankov 2002, Phomin 1980 cho thấy: “Quá trình huấn luyện thể
lực là sự phù hợp của các phương tiện (bài tập thể thất) cũng như các phương
pháp sử dụng, trong quá trình huấn luyện phải phù hợp với các quy luật phát
triển của đối tượng (lứa tuổi, trình độ tập luyện...)”
Huấn luyện thể lực (còn gọi là quá trình giáo dục các tố chất thể lực
chung và chuyên môn) là một quá trình tác động liên tục, thường xuyên và theo
kế hoạch được sắp xếp hợp lý bằng những bài tập TDTT nhằm phát triển các
mặt chất lượng và khả năng vận động. Quá trình ấy tác động sâu sắc đối với hệ
thần kinh, cơ bắp cũng như đối với các cơ quan nội tạng của con người. Đương
nhiên, muốn có thành tích xuất sắc trong môn bắn cung, trước tiên cần có tố chất

thể lực tốt phù hợp với yêu cầu chuyên môn, song, không có nghĩa là coi nhẹ
các mặt khác như kỹ - chiến thuật. Thông thường tố chất thể lực được chia thành
5 loại cơ bản: Sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khả năng mềm dẻo, khả năng phối
hợp vận động (khả năng linh hoạt).


13

Khi đề cập đến vấn đề thể lực chung cũng như đề cập đến giáo dục các
tố chất thể lực chuyên môn, chúng ta hiểu rõ, trong hoạt động chung của con
người thì hoạt động cơ bắp là dạng đặc trưng và mang tính trọng tâm. Hoạt động
cơ bắp được thể hiện ở 3 phương diện:
- Sự co cơ (phụ thuộc chủ yếu vào tỷ lệ cấu trúc sợi cơ, số lượng sợi cơ
và thiết diện cơ).
- Sự trao đổi chất (tức là các quá trình sản sinh năng lượng).
- Sự dẫn truyền kích thích (hoạt động thần kinh cơ).
Theo các tác giả Ozolin 1980, Philin 1996, Phomin 1980 cho rằng, ba
phương diện trên đây luôn có mối tương quan với khả năng hoạt động của tố
chất thể lực [38]. Đặc biệt, chúng luôn có mối tương quan chặt chẽ với 3 tố chất
thể lực cơ bản: Sức mạnh, sức nhanh, sức bền. Trong đó, độ lớn của sức mạnh
quan hệ chủ yếu tới khả năng co cơ, thể hiện theo hướng thay đổi giữa yếu tố
thời gian duy trì và cường độ vận động của cơ bắp. Do vậy ta có: Sức mạnh tối
đa, sức mạnh nhanh và sức mạnh bền. Độ lớn của sức nhanh quan hệ chủ yếu tới
khả năng dẫn truyền của hệ thần kinh và liên quan đến thành phần của sợi cơ.
Do vậy ta có: Nhanh phản ứng, nhanh vận động và nhanh động tác. Độ lớn của
sức bền quan hệ chủ yếu tới hoạt động trao đổi chất. Mà mối quan hệ này dựa
trên cơ sở sinh năng lượng yếm khí và ưa khí. Chính vì vậy ta có sức bền cự ly
ngắn, sức bền cự ly dài và sức bền cự ly trung bình.
Song phải ghi nhớ rằng, tất cả các tố chất vận động trên luôn hiện diện
trong mối tương tác lẫn nhau (không có biểu thị riêng tuyệt đối). Ví dụ: động tác

giữ cung được coi là động tác của sức mạnh tối đa là chủ đạo, song trong đó lại
chứa đựng yếu tố sức mạnh bền khi thực hiện động tác. Có thể biểu diễn mối
quan hệ lẫn nhau giữa sức mạnh, sức nhanh và sức bền theo sơ đồ sau.


14

Và như vậy, thông qua sơ đồ tương tác giữa các tố chất vận động ở trên,
chúng ta có thể coi đó là những luận điểm cơ bản nhất trong quá trình giáo dục
các tố chất thể lực chung và chuyên môn cho VĐV.
Hiện nay tồn tại rất nhiều quan điểm về huấn luyện thể lực cho các VĐV
trẻ, song chúng tôi cho rằng với công trình “Hệ thống huấn luyện thể thao hiện
đại” của tác giả N.G. Ozolin - 1980, thì hệ thống các quan điểm của tác giả là
đầy đủ hơn cả. Tác giả cho rằng: “Quá trình huấn luyện thể lực cho VĐV là việc
hướng đến củng cố các hệ thống cơ quan của cơ thể, nâng cao khả năng chức
phận của chúng, đồng thời là việc phát triển các tố chất vận động (sức nhanh,
sức mạnh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo)”. Quá trình chuẩn bị thể lực cho VĐV
bao gồm: Chuẩn bị thể lực chung và chuẩn bị thể lực chuyên môn.
- Chuẩn bị thể lực chung là nền tảng cho việc nâng cao thể lực chuyên môn.
- Chuẩn bị thể lực chuyên môn cần thiết phải chia làm 2 phần:
+ Chuẩn bị thể lực chuyên môn cơ sở - là hướng đến việc xây dựng các
nền tảng cơ bản phù hợp với đặc thù chuyên môn của môn thể thao nhất định.


15

+ Chuẩn bị thể lực chuyên môn cơ bản mà mục đích của nó là việc phát
triển một cách rộng rãi các tố chất vận động thoả mãn những đòi hỏi của môn
thể thao.[38]
Qua nghiên cứu tổng hợp nhiều quan điểm khác nhau trong lĩnh vực

huấn luyện thể lực cho VĐV, chúng ta thấy rằng, về nguyên tắc trong một chu
kỳ huấn luyện lớn đầu tiên phải tiến hành việc huấn luyện thể lực chung, trên
nền tảng đó mới tiến hành việc huấn luyện thể lực chuyên môn cơ sở. Đây chính
là nền tảng để tiến hành việc huấn luyện thể lực chuyên môn cơ sở, mà nhờ vào
đó tiến hành bước thứ 3 - phát triển ở mức cao hơn các tố chất chuyên môn cơ
bản, phù hợp với đòi hỏi của môn thể thao.
Như vậy có thể nói rằng, việc phát triển các tố chất thể lực chung ở bước
1 càng chặt chẽ bao nhiêu thì ở bước 2 và bước 3 mới có điều kiện phát triển một
cách cao hơn, chất lượng hơn. Sự phát triển tố chất vận động phải phù hợp với
đặc thù mỗi môn thể thao. Song cần phải nhớ rằng, mức độ phát triển thể lực
chung và chuyên môn cơ sở (ở bước 1 và bước 2) là một quá trình liên tục không
gián đoạn và phải được duy trì một cách ổn định. Nó chỉ thay đổi - phát triển ở
mức mới do những yêu cầu của nhiệm vụ huấn luyện trong giai đoạn sau.
Mặt khác, trong một chu kỳ huấn luyện cần thiết phải đảm bảo sự hợp lý
giữa huấn luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn cơ sở. Quá
trình huấn luyện thể lực theo 3 bước cho các VĐV được áp dụng trong một chu
kỳ huấn luyện, mà thông thường 2 bước đầu được tiến hành ở thời kỳ chuẩn bị,
còn bước 3 ở thời kỳ thi đấu. Ở thời kỳ chuyển tiếp, thường chỉ còn lại việc
chuẩn bị thể lực chung. Với quy trình đào tạo VĐV hiện đại, quá trình này được
tiến hành nhiều năm và liên tục. Vì thế, quy trình huấn luyện thể lực 3 bước nêu
trên cũng là một quá trình liên tục, nhiều năm. Song, đòi hỏi phải có sự tăng lên
cả về mặt số lượng, chất lượng và như vậy, có thể tồn tại nhiều phương án pha
trộn khác nhau về tỷ lệ giữa huấn luyện thể lực chung với huấn luyện thể lực
chuyên môn cơ sở và huấn luyện thể lực chuyên môn cơ bản.
Cuối cùng, cần chú ý quá trình huấn luyện thể lực theo 3 bước trên cho


16

VĐV, chỉ là một phần của quá trình đào tạo VĐV. Trong quá trình huấn luyện

thể lực chung, VĐV phát triển thể lực một cách toàn diện, mà sự phát triển này
được gọi là năng lực thể chất. Nó được đánh giá bởi mức độ phát triển về khả
năng sức mạnh, sức nhanh, sức bền, mềm dẻo, khéo léo, khả năng làm việc của
tất cả các cơ quan chức phận. Dưới ảnh hưởng của quá trình chuẩn bị thể lực
chung, sức khoẻ của VĐV được tăng cường các hệ thống cơ quan, chức phận
của cơ thể được hoàn thiện. Và như vậy, khả năng tiếp nhận lượng vận động của
VĐV cũng được nâng lên. Chính điều này đã dẫn đến mức độ phát triển tố chất
thể lực cao hơn. Quá trình phát triển thể lực chung có một ý nghĩa quan trọng
trong việc giáo dục các phẩm chất tâm lý và ý chí, vì trong quá trình thực hiện
các bài tập phát triển thể lực chung, VĐV phải vượt qua những khó khăn ở mức
độ khác nhau do việc thực hiện các bài tập mang lại.
Việc huấn luyện thể lực chung phải đạt được khả năng làm việc của các
cơ quan chức phận ở mức độ cao. Đó chính là nhiệm vụ cơ bản của quá trình
chuẩn bị thể lực chung. Chuẩn bị thể lực chung cho VĐV nhờ vào các bài tập có
và không có dụng cụ, đồng thời cũng có thể nhờ vào việc sử dụng bài tập của
các môn thể thao khác. Vai trò quan trọng trong quá trình chuẩn bị thể lực chung
là việc chọn lựa các bài tập buộc cơ thể phải huy động một số lượng lớn cơ bắp,
các cơ quan chức phận của cơ thể tham gia (bài tập chạy, bài tập thể dục...).
Song, mặt khác cũng cần thiết phải chọn lựa các bài tập chỉ có những ảnh hưởng
nhất định. Nói một cách khác, các bài tập này phải hướng tới việc phát triển một
bộ phận nào đó của cơ thể hoặc tổng hợp các bộ phận, các tố chất vận động, có
tác dụng làm tăng cường khả năng thể chất VĐV nói chung. Điểm đặc biệt của
quá trình chuẩn bị thể lực chung là phải củng cố được những điểm còn yếu trong
cơ thể, những cơ quan chậm phát triển .
Huấn luyện thể lực chuyên môn là hướng đến việc củng cố và nâng cao
khả năng làm việc của các cơ quan chức phận, các tố chất vận động phù hợp với
đòi hỏi của mỗi môn thể thao lựa chọn.
Thể lực chuyên môn cơ sở được hình thành và phát triển trên cơ sở phát



17

triển thể lực chung - huấn luyện thể lực chung là nền tảng, còn việc chọn lựa các
biện pháp phù hợp mang những nét đặc trưng riêng của môn thể thao, là tiền đề
hình thành nên các tố chất thể lực chuyên môn sau này. Việc hình thành thể lực
chuyên môn cơ sở của các môn thể thao không có chu kỳ là tương đối khó khăn,
ở đây có 2 cách lựa chọn.
- Thứ nhất: Bằng cách lặp lại nhiều lần những hoạt động chính, đặc trưng
của môn thể thao chọn lựa.
- Thứ hai: Lặp lại nguyên vẹn các bài tập thi đấu của chính môn thể thao đó.
Trên đây là các quan điểm của các chuyên gia nước ngoài về huấn luyện
thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn trong huấn luyện thể thao.
Qua tham khảo các nguồn tư liệu, các công trình nghiên cứu khoa học
của nhiều chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực lý luận và phương pháp huấn
luyện thể thao trong nước như: Lê Văn Lẫm, Lê Bửu, Dương Nghiệp Chí, Phạm
Trọng Thanh, Nguyễn Toán, Nguyễn Thế Truyền, Phạm Danh Tốn..., chúng ta
thấy các nhà khoa học đều cho rằng: “Quá trình huấn luyện thể lực cho VĐV là
hướng đến việc củng cố và nâng cao khả năng chức phận của hệ thống cơ quan
trước lượng vận động thể lực (bài tập thể chất) và như vậy đồng thời đã tác động
đến quá trình phát triển của các tố chất vận động”. Đây có thể coi là quan điểm
có xu hướng sư phạm trong quá trình giáo dục các tố chất vận động.
1.2. Vai trò và đặc điểm huấn luyện thể lực cho VĐV Quần vợt.
1.2.1. Vai trò của huấn luyện thể lực trong Quần vợt hiện đại.
Huấn luyện thể lực cho VĐV là cơ sở quan trọng để nâng cao thành tích thi
đấu Quần vợt. Nội dung chính của huấn luyện thể lực là phát triển toàn diện các
tố chất thể lực cơ bản của môn học như sức mạnh, sức nhanh, sức bền và khả
năng khéo léo mềm dẻo. Yêu cầu của việc huấn luyện các tố chất này luôn đòi
hỏi ở sự kết hợp khéo léo giữa huấn luyện thể lực chung và thể lực chuyên môn.
- Huấn luyện thể lực chung: Là nền tảng cho việc phát triển các tố chất thể
lực chuyên môn. Điều này đòi hỏi người HLV phải biết phát triển toàn diện các

tố chất thể lực cho VĐV bằng các bài tập phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, do


18

đặc điểm tập luyện và thi đấu của môn Quần vợt nên việc phát triển thể lực
chung cho VĐV cũng cần lưu ý đến việc sử dụng các bài tập có khả năng nâng
cao các tố chất đặc trưng của môn này.
- Huấn luyện thể lực chuyên môn là quá trình phát triển những năng lực
vận thể chất tương ứng với môn Quần vợt như sức mạnh tốc độ, sức nhanh phản
ứng, sức nhanh động tác, sức bền mạnh và sức bền tốc độ, cũng như những năng
lực phối hợp vận động khác nhau để đạt được những thành tích thể thao cao.
Các bài tập sử dụng trong huấn luyện thể lực chuyên môn đòi hỏi phải có hình
thức và nội dung gần với đặc điểm tập luyện và thi đấu Quần vợt. Mức độ phát
triển các tố chất thể lực này được đánh giá trên cơ sở khả năng chịu đựng của cơ
thể đối với LVĐ có cường độ thi đấu cao và kéo dài không chỉ trong mỗi trận
đấu mà còn phải liên tục trong cả một giải thi đấu nhiều ngày.
Trong quá trình huấn luyện Quần vợt, đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa
giữa huấn luyện thể lực chung với thể lực chuyên môn theo xu hướng tăng dần
tỷ trọng phát triển các tố chất thể lực chuyên môn của môn học và chỉ có như
vậy mới có thể nâng cao được thành tích thể thao của môn này.
Từ đó chúng ta thấy rằng những yêu cầu về thể lực vô cùng cần thiết với xu
hướng phát triển của Quần vợt hiện đại và cũng là cơ sở để hoàn chỉnh các mặt
kỹ thuật, chiến thuật. Bởi thế trong Quần vợt, ở bất kỳ trình độ nào, nội dung
huấn luyện thể lực cũng giữ một vị trí vô cùng quan trọng và đòi hỏi phải dành
một tỷ lệ thời gian thích đáng.
1.2.2. Ý nghĩa, nhiệm vụ và nội dung huấn luyện thể lực.
Ý nghĩa của huấn luyện thể lực.
Huấn luyện thể lực là một bộ phận quan trọng của công tác huấn luyện môn
Quần vợt. Thông qua công tác huấn luyện thể lực có thể tăng cường sức khoẻ

cho VĐV, nhằm phát triển một cách toàn diện các tổ chất thể lực, nâng cao năng
lực hoạt động của cơ thể. Huấn luyện thể lực tốt sẽ tạo tiền đề cho việc huấn
luyện kỹ thuật và chiến thuật. Nó có ý nghĩa rất lớn và đóng vai trò quan trọng
thúc đẩy việc nắm vững kỹ thuật, chiến thuật, sức chịu đựng cường độ lớn, LVĐ


19

lớn, nhằm nâng cao thành tích, đề phòng chấn thương, kéo dài tuổi thọ VĐV (duy trì
thành tích thể thao).
Theo xu hướng phát triển và hoàn thiện môn Quần vợt bằng phương thức tấn
công và phòng thủ, chức năng nhiệm vụ của VĐV ngày càng mở rộng, tốc độ thi đấu
ngày một tăng cao, sự đối kháng càng quyết liệt, cho nên việc huấn luyện thể lực đối
với VĐV Quần vợt cũng yêu cầu ngày càng cao. Hiện nay, huấn luyện thể lực không
những được giới Quần vợt quốc tế đặc biệt coi trọng, mà trong phần lý luận và
phương pháp huấn luyện cũng được đề cập đến. Nhiều thành tựu nghiên cứu khoa học
và kiến thức cũng như sự hiểu biết trên lĩnh vực này cũng được mở rộng và phát triển.
Trong công tác huấn luyện toàn diện, tính hệ thống và tính khoa học cũng được hoàn
thiện dần dần. Tất cả những điều trên đều có tác dụng rất lớn trong việc thúc đẩy phát
triển nhanh trình độ môn Quần vợt.
Nội dung và nhiệm vụ của huấn luyện thể lực.
Huấn luyện thể lực cho VĐV Quần vợt bao gồm hai phương diện: Huấn
luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn.
Huấn luyện thể lực chung là sự huấn luyện thể lực mà người ta sử dụng
nhiều dạng bài tập khác nhau nhằm phục vụ nhu cầu đối với VĐV Quần vợt
nhằm thúc đẩy, tăng cường sức khoẻ cho VĐV, nâng cao năng lực hoạt động của
hệ thống cơ quan nội tạng nhằm đạt mục tiêu là phát triển toàn diện tố chất thể
lực và cải thiện hình thái cơ thể cho VĐV.
Còn huấn luyện thể lực chuyên môn là sự huấn luyện trong đó vận dụng
nhiều bài tập thể lực nhằm nâng cao tố chất thể lực chuyên môn, hoàn thiện việc

thực hiện các động tác kỹ thuật và chiến thuật chuyên môn, các bài tập đó phải
có mối quan hệ trực tiếp với thi đấu Quần vợt.
Trong môn Quần vợt nói riêng và các môn thể thao nói chung, mối quan hệ
giữa huấn luyện giữa thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn rất mật
thiết. Chúng thúc đẩy lẫn nhau phát triển. Thực tế chứng minh điều này, là quy
luật chuyển dịch trực tiếp của tố chất vận động. Sự huấn luyện thể lực chung
một cách hoàn hảo sẽ là cơ sở tốt cho việc huấn luyện thể lực chuyên môn,


20

ngược lại, huấn luyện thể lực chuyên môn tốt, ở trình độ nhất định sẽ thúc đẩy
trình độ huấn luyện thể lực chung. Nhờ sự huấn luyện toàn diện, tố chất thể lực
được phát triển một cách toàn diện, đồng thời VĐV nắm vững kỹ năng vận động
với LVĐ lớn. Việc kích thích sự hưng phấn của các trung khu thần kinh vận
động nhằm thúc đẩy việc nắm vững và hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo vận động và
có tác dụng hoàn thiện hệ thần kinh thực vật một cách tương ứng.
Mối quan hệ giữa thể lực chung và thể lực chuyên môn một mặt có tác dụng
thúc đẩy lẫn nhau phát triển, nhưng còn mặt ngược lại là kiềm chế lẫn nhau, hạn chế
nhau và gây cản trở nhau, cho nên giữa chúng có những điểm khác nhau, không thể
thay thế cho nhau, nếu không nắm các đặc điểm này sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát
triển của chúng. Do đó, các bài tập dược sử dụng huấn luyện tố chất thể lực cho
VĐV Quần vợt, nhất thiết phải căn cứ vào mối quan hệ giữa huấn luyện thể lực
chung và huấn luyện thể lực chuyên môn mà tiến hành chọn các bài tập. Chỉ khi nào
bố trí sắp xếp một cách khoa học, hợp lý và tiến hành một cách thận trọng, tỉ mỉ thì
mới thu được một trình độ huấn luyện cao.
Khi tiến hành các dạng huấn luyện tố chất thể lực, cần phải nghĩ rằng giữa
chúng với nhau không phát triển một cách cô lập, mà có mối liên hệ ảnh hưởng đến
nhau, thúc đẩy lẫn nhau và kiềm chế lẫn nhau. Bởi vì tất cả các tố chất thể lực đều là
hình thức biểu hiện ra của hoạt động cơ bắp, mà hoạt động của cơ bắp lại chịu sử chỉ

huy thống nhất của hệ thống thần kinh trung ương. Nó thực hiện bởi sự thay đổi sinh
lý nhất định và sự phản ứng về sinh hoá. Chính vì thế, đồng thời với sự phát triển
một tố chất thể lực nào đó thì nhất định các tố chất thể lực khác cũng chịu ảnh hưởng
hoặc ít hoặc nhiều, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp. Thông thường nếu phát triển một tố
chất nào đó mà ảnh hưởng đến sự phát triển của một tố chất thể lực khác thì người ta
gọi đó là sự chuyển dịch tố chất vận động.
Ví dụ: Khi phát triển tố chất sức bền tốc độ, nhất định có ảnh hưởng đến
sự phát triển tố chất sức nhanh và ngược lại.
Sự chuyển dịch tố chất vận động là vấn đề thực tiễn trong công tác huấn
luyện tố chất thể lực, chỉ có tìm hiểu sâu trong thực tiễn, nắm vững các quy luật


×