Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án gây ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.64 KB, 39 trang )

C LỤC
Lời Mở Đầu……………………………………………………………………………...........1
CHƯƠNG I:LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA
1.1 Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển quy định pháp luật về bồi thường thiệt hại
do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra
1.1.1 Giai đoạn trước khi có nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11………….……………5

1.1.2 Giai đoạn sau khi có Nghị Quyết 388/2003/NQ-UBNTVQH11…...…………..6
1.2 Khái niệm và đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố

tụng hình sự gây ra gây ra
1.2.1 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng……………………..8
1.2.2 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra....10
1.2.3 Đặc điểm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra…….13

1.3Những nguyên tắc bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố
tụng hình sự gây ra
1.3.1 Kịp thời, công khai, đúng pháp luật………………………………..…………………15
1.3.2Ðược tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường với
người bị thiệt hại hoặc đại diện hợp pháp của họ…………………………………………..15
1.3.3Ðược trả một lần bằng tiền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác…………..…16
1.4Sự cần thiết của chế định bồi thường thiệt hại cho ngưới bị oan trong tố tụng hình sự
1.4.1 Đối với Nhà Nước…………………………………………….……………………..16
1.4.2 Đối Với người bị oan,người bị thiệt hại………………………..……………………17
1.4.3 Đối với Cơ quan tiến hành tố tụng hình sự………………………………………….17

1.4.4 Đối với xã hội…………….……………………………………………………18
CHƯƠNG II:NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA
2.1 Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng hình


sự gây ra
2.1.1 Phải có văn bản của cơ quan nhà nước xác định rõ hành vi của người thi hành công vụ là
trái pháp luật, hoặc phải có văn bản của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự
xác định người bị thiệt hại thuộc trường hợp được bồi thường……………………20
2.1.2 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra..........22
2.1.3Có thiệt hại thực tế do người tiến hành tố tụng hình sự gây ra đối với người bị thiệt
hại....................................................................................................................................22

1


2.2 Các trường hợp được và không được bồi thường thiệt hại trong tố tụng hình sự theo
Luật trách nhiệm bồi thường nhà nước 2009
2.2.1 Các trường hợp được bồi thường…………………...……………………………….26
2.2.2 Những trường hợp không được bồi thường trách nhiệm …………………………...30
2.3Chủ thể có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây
ra

2.3.1Trách nhiệm bồi thường của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số họat động điều tra……………………………………………………….38
2.3.2Trách nhiệm bồi thường của Viện kiểm Sát Nhân Dân trong hoạt động tố tụng hình sự39
2.3.3Trách nhiệm bồi thường của Toà án nhân dân………………………………………...41

2.4 Kinh phí bồi thường, thủ tục chi trả,trách nhiệm hoàn trả về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây ra
2.4.1 Lập dự toán và quyết toán kinh phí bồi thường………………………...….....44
2.4.2 Trình tự thủ tục chi trả tiền bồi thường…………………..…………………..44
2.4.3 Trách nhiệm hoàn trả về bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng hình sự gây
ra………………………………………………………………………………………..…….45
CHƯƠNG 3 THỰC TIỄN ÁP DỤNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI

DO CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG HÌNH SỰ GÂY RA.MỘT SỐ BẤT CẶP VÀ GIẢI
PHÁP
3.1Thực tiễn áp dụng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan tiến hành tố tụng
hình sự gây ra
3.1.1Tình hình về bồi thường thiệt hại do cơ quan tuến hành tố tụng hình sự gây ra………48
3.2 Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện về mặt pháp lý liên quan đến vấn đề bồi thường
thiệt hại do tố tụng hình sự gây ra
3.2.1 Chưa có quy định cụ thể về việc xin lỗi, cải chính công khai ……………………….49
3.2.2Quy định về thời hạn thực hiện thủ tục bồi thường còn chưa khả thi…………………54
Kết Luận………………………………………………………………………………….....57

2


LỜI MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự là một loại hoạt động của Nhà nước nhằm đưa bản án,
quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực hiện trên thực tế.
Thông qua thi hành án dân sự, những phán quyết của Tòa án nhân danh Nhà nước
về mặt dân sự, sẽ được thi hành, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, công dân, góp phần giữ vững kỷ cương, phép nước, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, thi hành án nói chung, thi hành án
dân sự nói riêng đã trở thành một nguyên tắc hiến định. Điều 136 Hiến pháp năm
1992 quy định: "Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực
pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan
phải nghiêm chỉnh chấp hành. Hoạt động thi hành án dân sự khá phức tạp, khả
năng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác nhau nên dễ
xảy những hành vi trái pháp luật của chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành
án gây ra cho nên việc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường thiệt hại là rất cần
thiết.Quyền được bồi thường khi bị xâm phạm là quyền cơ bản của công dân được

ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Việc yêu cầu Nhà nước bồi thường thiệt hại
là một quyền cơ bản của chủ thể dân sự. Ngoài ra, trong Nhà nước pháp quyền,
mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Như vậy, Nhà nước với các cá nhân, tổ
chức khác bình đẳng trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau. Khi
có hành vi gây thiệt hại cho các chủ thể khác, Nhà nước cũng có nghĩa vụ bồi
thường một cách bình đẳng như các chủ thể khác trong xã hội, theo đó TNBTCNN
là một loại trách nhiệm pháp lý, được Nhà nước thừa nhận và chịu trách nhiệm
khôi phucc̣ những thiệt hại về tài sản, bù đắp những tổn thất về tinh thần do hành vi
vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ gây ra trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thi hành án dân sự là công tác phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong
đời sống xã hội, trực tiếp ảnh hưởng đến quyền về tài sản, nhân thân của các bên
đương sự và những người có liên quan. Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định
3


của tòa án sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ về tài sản
của các bên đương sự. Do vậy Thi hành án (THA) là hoạt động có khả năng gây
thiệt hại tương đối phổ biến, Trong quá trình tổ chức THA, việc áp dụng các quyết
định cũng như thực hiện hành vi của người có thẩm quyền, cơ quan THADS đều
có nguy cơ gây ra thiệt hại cho cá nhân, tổ chức có liên quan dẫn đến việc Nhà
nước phải bồi thường.Thực tế nhiều năm qua cho thấy, các quy định pháp luật về
giải quyết bồi thường thiệt hại do cơ quan THA gây ra đã bộc lộ nhiều bất cập. Vì
vậy, việc nghiên cứu đề tài “ Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thi
hành án gây ra” mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi
thực tiễn nhằm khắc phục những sai sót trong quá trình thực thi pháp luật
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về TNBTCNN trong hoạt
động THADS, đồng thời tìm hiểu thực tiễn áp dụng bồi thường thiệt hại trong

THADS tại Việt Nam. Từ đó nêu lên những bất cập, vướng mắc còn tồn tại của
pháp luật Việt Nam về TNBTCNN trong hoạt động THADS. Từ đó đề ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về TNBTCNN trong hoạt động THADS.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận có liên quan đến
TNBTCNN thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật TNBTCNN nói chung và
TNBTCNN trong lĩnh vực THADS nói riêng; các quy định của pháp luật về lĩnh
vực THADS và những thông tin, tư liệu, đánh giá thực tiễn công tác bồi thường
nhà nước, đặc biệt là trong luật THADS.
Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước là lĩnh vực có phạm vi rộng, có liên
quan tới nhiều hoạt động như quản lý hành chính; tố tụng, thi hành án; thủ tục giải
quyết bồi thường thiệt hại; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; kinh
phí bồi thường và trách nhiệm hoàn trả của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt
hại. Chính vì vậy, trong phạm vi có hạn, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số nội
dung liên quan đến TNBTCNN chỉ trong hoaṭ đôngc̣ của cơ quan THADS trên
phạm vi quy định của pháp luật
BỐ CỤC ĐỀ TÀI
4


Gồm 3 chương
Chương 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
DO CƠ QUAN THI HÀNH ÁN GÂY RA
Chương 2 CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH
NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CƠ QUAN THI HÀNH ÁN
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẦM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CƠ QUAN THI HÀNH ÁN GÂY
RA

CHƯƠNG 1


5


LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO CƠ
QUAN THI HÀNH ÁN GÂY RA
1.1 Quá trình hình thành quy định bồi thường thiệt hại trong hoạt động thi

hành án dân sự
1. Thời kỳ từ tháng 8/1945 đến năm 1989
Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 cho đến trước khi có Pháp lệnh Thi
hành án dân sự năm 1989, là giai đoạn mà tổ chức hoạt động thi hành án dân sự
chưa được dựa trên một văn bản pháp luật chính thức có hiệu lực pháp lý cao do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, thậm chí có thời kỳ này chỉ căn cứ vào
Điều lệ tạm thời về công tác Chấp hành án ban hành kèm theo Công văn số
827/CV ngày 23/10/1979 của Tòa án nhân dân tối cao. Công tác thi hành án dân sự
đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Toà án. Tuy nhiên, về vấn đề quản lý Nhà nước,
hình thức tổ chức và pháp luật thi hành án dân sự có thể được chia thành các giai
đoạn 1945 -1949, 1950 - 1980, 1981 - 1989.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời, hệ thống cơ quan Tư pháp mới được thiết lập trong cả nước. Trên cơ sở
Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc cho giữ tạm thời các
luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật chung
thống nhất cho toàn quốc, nếu những đạo luật ấy “không trái với các nguyên tắc
độc lập của Nhà nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà” Cũng theo tinh
thần Sắc lệnh ngày 10/10/1945, những quy định về thủ tục thi hành án dân sự tiếp
tục được áp dụng, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tư pháp trong những năm đầu
của chính quyền cách mạng. Tuy nhiên, tổ chức Thừa phát lại - hình thức tổ chức
và hoạt động thi hành án dân sự đầu tiên của chế độ mới, không còn mang ý nghĩa
là công cụ của chính quyền thực dân phong kiến như trước đây, mà trở thành công

cụ đắc lực trong việc thi hành các bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án nhân
dân.
2.Giai đoạn từ tháng 5 - 1950 đến năm 1980:
Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL về “cải cách
bộ máy tư pháp và luật tố tụng“ tạo nên sự thay đổi có tính chất bước ngoặt trong
6


tổ chức và hoạt động tư pháp nói chung và tổ chức hoạt động thi hành án dân sự
nói riêng
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hoạt động của cơ quan, cá nhân thực
hành công vụ của nhà nước gây ra lỗi phải bồi thường được ghi nhận từ rất sớm
trong pháp luật của Nhà nước ta. Điều này được thể hiện ngay từ Hiến pháp năm
1959, cụ thể tại Điều 29 quy định: “Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của
nhân viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”. Trên cơ sở Hiến pháp
năm 1959, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960. Điều 24
của Luật này đã xác định: “Tại các tòa án nhân dân địa phương có nhân viên chấp
hành án làm nhiệm vụ thi hành những bản án và quyết định dân sự, những khoản
xử về bồi thường và tài sản trong các bản án, quyết định hình sự” Ngày 13/10/1972,
Chánh án tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số 186/TC về tổ chức, nhiệm
vụ, quyền hạn của Chấp hành viên. Tên gọi “Chấp hành viên” ra đời từ và đó tồn
tại cho đến ngày nay. Theo quyết định 186/TC, Chấp hành viên (CHV) được đặt tại
các tòa án nhân dân thành phố thuộc tỉnh, huyện, thị xã, khu phố và tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương. Để đưa công tác thi hành án từng bước đi vào nề nếp,
TAND tối cao đã ban hành Điều lệ tạm thời về công tác thi hành án (kèm theo
công văn số 827/CV ngày 23/10/1979) quy định khá chi tiết, cụ thể về trình tự, thủ
tục THA. Tại Điều 6 của bản Điều lệ nêu trên có quy định: "Khi bản án hoặc quyết
định của TA đã có hiệu lực pháp luật hoặc theo pháp luật phải chấp hành khẩn cấp,
TA đã xét xử bản án đó phải trích lục án cho CHV nơi phải chấp hành án và
VKSND cùng cấp chậm nhất là trong ba ngày... Sau khi nhận được trích lục bản

án, chậm nhất là ba ngày CHV phải tống đạt trích lục án cho những người phải
chấp hành án, những người được chấp hành án và những người có quyền lợi liên
quan; hướng dẫn cho họ cách tự nguyện chấp hành án và ấn định cho họ một thời
gian để họ tự nguyện thi hành".
Tuy nhiên, trong một thời gian dài, đất nước ta phải trải qua cuộc chiến
tranh giành độc lập gian khổ, nhiệm vụ hàng đầu của Nhà nước cũng như toàn thể
quốc dân đồng bào là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Sau
khi giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, chúng ta lại bắt tay vào khôi phục
7


kinh tế và kiến thiết nước nhà nên chúng ta chưa có điều kiện quan tâm xây dựng
đầy đủ và đồng bộ chế định bồi thường nhà nước cũng như triển khai trên thực tế
chế định này. Ngay khi nền kinh tế dần đi vào ổn định, đất nước đạt được những
bước tiến lớn trên nhiều lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác nước ngoài
đặc biệt với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước ta đã ban hành nhiều văn bản thể hiện tính chịu trách nhiệm của Nhà nước
đối với quyền và lợi ích của nhân dân.
Chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước đã được Nhà nước ta
ghi nhận từ sau khi thành lập nước. Hiến pháp năm 1980 khẳng định pháp luật bảo
hộ tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân bên cạnh việc xác định
mọi hành động xâm phạm quyền lợi chính đáng của công dân phải được kịp thời
sửa chữa và xử lý nghiêm minh.
3.Giai đoạn từ năm 1981 đến năm 1993
Ngày 18/7/1982, Bộ Tư pháp và TAND tối cao đã ký thông tư liên ngành số
472 về “quản lý công tác THA trong thời kỳ trước mắt” quy định: ở địa phương tại
các TAND tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương có Phòng THA nằm trong cơ cấu
bộ máy và biên chế của TA để giúp Chánh án chỉ đạo công tác THA; ở các TA
huyện,quận,thị xã,thành phố thuộc tỉnh có CHV hoặc cán bộ làm công tác THA
dưới sự chỉ đạo của Chánh án. Việc quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực thi nhiệm vụ

của CHV vẫn do Chánh án TAND cùng cấp đảm nhiệm như đã quy định trong
Quyết định số 186-TC ngày 13/10/1972. Biên chế của TAND địa phương do Bộ
Tư pháp phân bổ. Căn cứ vào nhu cầu của công tác THA, Chánh án TAND tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương xác định số lượng và bổ nhiệm CHV hoặc cử cán
bộ làm công tác THA của TA mình và TA cấp dưới. Cơ chế quản lý công tác THA
đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Tư pháp và TA từ Trung
ương đến địa phương, đặc biệt là giữa các cơ quan Tư pháp và TA địa phương nơi
công tác THA được trực tiếp thực hiện. Có thể thấy rằng, trong thời kỳ này tổ chức
bộ máy cũng như nguyên tắc hoạt động của cơ quan THA chưa được chú trọng.
Mặt khác, tổ chức và hoạt động THA là một giai đoạn khép kín trong TA và tuỳ
thuộc vào sự chỉ đạo của Chánh án TAND địa phương
8


Lần đầu tiên pháp lệnh THADS ngày 28/8/1989, có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1990, một hình thức văn bản pháp lý có hiệu lực đã được ban hành, đặt cơ
sở pháp lý cho việc tăng cường, hoàn thiện tổ chức và hoạt động THADS. Trên cơ
sở đó, quy chế CHV đã được ban hành kèm theo nghị định số 68/HĐBT ngày
06/3/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Theo quy định của Pháp lệnh THADS năm
1989 và Quy chế CHV, thì chỉ có CHV là người được nhà nước giao trách nhiệm
thi hành các bản án quyết định của TA. Mặc dù cơ chế THA đã từng bước được
hoàn thiện, đội ngũ cán bộ làm công tác này được củng cố, tăng cường một bước,
nhưng sự chỉ đạo điều hành công tác THA vẫn chưa được thay đổi phù hợp.
CQTHA, CHV thuộc TA, do TA trực tiếp chỉ đạo về nghiệp vụ và chịu trách nhiệm
báo cáo cấp trên về kết quả của hoạt động THA. Mọi quyết định quan trọng trong
thủ tục THA đều thuộc thẩm quyền của Chánh án.
4.Thời kỳ từ khi ban hành Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 đến
trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008
Hiến pháp năm 1992 và các Luật về tổ chức bộ máy Nhà nước được Quốc hội
khoá IX thông qua vào tháng 10/1992, đã đặt ra những nguyên tắc nền tảng cho

quá trình cải cách Tư pháp. Để thực hiện các quy định về cải cách công tác THA,
tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX ngày 6/10/1992 đã thông qua Nghị quyết về
việc bàn giao công tác THA từ TAND các cấp sang các cơ quan của Chính phủ
“chậm nhất vào tháng 6/1993”. Pháp lệnh THADS ban hành ngày 21/4/1993, có
hiệu lực ngày 01/6/1993 thay thế Pháp lệnh THADS ban hành ngày 28/8/1989.
Pháp lệnh THADS ngày 21/4/1993 đã tạo ra bước ngoặt về tổ chức và hoạt động
của công tác THADS ở nước ta, đưa công tác này sang một giai đoạn phát triển
mới, đáp ứng yếu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Bắt đầu từ ngày
01/7/1993, tổ chức và hoạt động THADS chính thức tiến hành theo cơ chế mới.
Chế độ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan nhà nước nói chung thực
sự được hình thành trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995.
Theo Điều 623 của Bộ luật này, thì cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do
công chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Và cơ quan tiến
hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra
9


trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và THA (Điều 624). Tại các
Pháp lệnh THADS năm 1993 và 2004, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chấp
hành viên tiếp tục được cụ thể hóa. Theo Điều 14, Điều 47 của PLTHADS năm
1993, chấp hành viên không thi hành đúng bản án, quyết định của tòa án, trì hoãn
việc THA, áp dụng biện pháp cưỡng chế THA trái pháp luật, vi phạm phẩm chất
đạo đức của người chấp hành viên, thì bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.Khoản 4, Điều 67 của PLTHADS
năm 2004 cũng quy định, thủ trưởng cơ quan THA cố ý không ra quyết định THA
hoặc ra các quyết định về THA trái pháp luật, chấp hành viên không thi hành đúng
bản án, quyết định của tòa án, áp dụng biện pháp cưỡng chế THA trái pháp luật, vi
phạm quy chế chấp hành viên thì bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình
sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Như vậy trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do cơ quan THADS gây ra được cá thể hóa thành trách nhiệm cá nhân của người

có thẩm quyền trực tiếp gây ra thiệt hại. Về phạm vi, trách nhiệm bồi thường phát
sinh trên cơ sở các sai phạm của cá nhân chấp hành viên trong trình tự, thủ tục
THA và cả các vi phạm về phẩm chất, đạo đức mà thực tế các sai phạm đó gây ra
thiệt hại Như vậy, theo các văn bản pháp luật này, trong THADS chưa xác định chế
độ trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước gây thiệt hại.
Chế độ trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan nhà nước nói chung thực
sự được hình thành trên cơ sở quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 1995.
Theo Điều 623 của Bộ luật này, thì cơ quan nhà nước phải bồi thường thiệt hại do
công chức, viên chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ. Và cơ quan tiến
hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của mình gây ra
trong khi thực hiện nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử và THA (Điều 624).
Theo Luật THADS năm 2008, phạm vi trách bồi thường thiệt hại trong hoạt
động THADS được xác định rất rộng. Về nguyên tắc, mọi cơ quan, tổ chức và cá
nhân vi phạm quy định của Luật THADS mà gây thiệt hại thì phải bồi thường
(Điều 10). Theo đó, toàn bộ các quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan
THADS, Chấp hành viên trong quá trình tổ chức THA đều có thể làm phát sinh
trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 140 Luật THADS quy định: trong quá trình
10


tổ chức THA, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khiếu nại
đối với mọi quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên
nếu có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền,
lợi ích hợp pháp của người đó. Đối tượng bị khiếu nại bao gồm:
Quyết định, hành vi về THA trước khi áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp
cưỡng chế (bắt đầu từ thủ tục nhận đơn yêu cầu THA)
- Quyết định về áp dụng các biện pháp bảo đảm THA (phong toả tài khoản; tạm
giữ tài sản, giấy tờ; tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài
sản);
- Quyết định, hành vi về áp dụng các biện pháp cưỡng chế;

- Quyết định, hành vi sau khi áp dụng biện pháp cưỡng chế.
Từ thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây
ra và thực tiễn thi hành cho thấy pháp luật trong lĩnh vực này còn nhiều bất cập,
chưa đầy đủ và đồng bộ, thiếu cụ thể, thiếu tính khả thi, do vậy, việc ban hành Luật
Bồi thường nhà nước là cần thiết. Đồng thời, việc ban hành Luật bồi thường nhà
nước cũng là nhằm thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Vì vậy, việc ban hành Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước là cần thiết, nhằm thể chế hoá đường lối, chủ
trương của Đảng; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bồi thường nhà nước, tạo cơ
chế hữu hiệu hơn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức, bảo đảm sự hoạt động ổn định của các cơ quan công quyền; phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và năng lực chuyên môn của đội
ngũ cán bộ, công chức hiện nay. Chính vì vậy, mà việc ban hành “Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước” do Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày
18/6/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010, là kịp thời để đáp
ứng các yêu cầu của xã hội đang phát triển đa dạng nhiều mặt.
4 Thời kỳ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đến hiện nay
Ngày 14/11/2008, Quốc hội Khoá XII, kỳ họp thứ tư đã thông qua Luật thi
hành án dân sự số 26/2008/QH12 và Nghị quyết về việc thi hành Luật thi hành án
11


dân sự số 24/2008/QH12. Đây là hai văn bản pháp lý có ý nghĩa quan trọng, góp
phần nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự. Do đặc thù trong lĩnh vực thi
hành án là giai đoạn cuối cùng của quá trình tố tụng, nó trực tiếp tác động đến lợi
ích của các bên đương sự nên phần lớn việc khiếu nại đều tập trung ở giai đoạn
này, mặc dù sai sót có thể không thuộc về các cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, với
tinh thần trách nhiệm, lương tâm đạo đức nghề nghiệp của chấp hành viên và vinh
dự lớn lao được Đảng và Nhà nước giao trọng trách tổ chức thi hành bản án, quyết

định của Toà án nhằm đảm bảo thực thi công lý trên thực tế nên trong thời gian qua
hiệu quả công tác thi hành không ngừng được nâng cao, các sai sót, vi phạm của
cán bộ thi hành án dần dần được hạn chế, khắc phục. Sau mỗi vụ có sai sót, gây
thiệt hại thì bản thân mỗi chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án đều bị xử
lý nghiêm khắc và rút kinh nghiệm chung trong toàn ngành.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được triển khai vào thực tế .
Chính vì vậy, việc ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi)
là hết sức cần thiết. Để bảo đảm việc thực thi pháp luật về TNBTCNN trong hoạt
động THADS. Đặc biệt năm 2013, Hiến pháp sửa đổi đã được Quốc hội thông qua,
theo đó việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được đề cao. Chính vì
vậy, việc ban hành Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) là hết sức
cần thiết . Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp
luật. Để bảo đảm thực hiện tốt quyền con người và những quyền cơ bản của công
dân theo quy định nêu trên, ngày 20 tháng 6 năm 2017, Quốc hội khóa XIV, kỳ
họp thứ 3 đã thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2018 (sau đây gọi tắt là Luật TNBTNN năm
2017), thay thế cho Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 (sau đây
gọi tắt là Luật TNBTNN năm 2009).
1.2 Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án
gây ra
12


1.2.1 Khái niệm về hoạt động của thi hành án
Theo từ điển Luật học thì hành án dân sự là “ khâu cuối cùng kết thúc
một vụ án được xét xử nhằm làm cho phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp
luật" Như vây, thi hành án cóthể đươcc̣ hiểu là thực hiện bản án quyết định. của

Tòa án đã có hiệu lực trên thực tế. Bản án, quyết đinḥ của Tòa án được hiểu là
văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên Tòa, giải quyết
về các vấn đề trong các vu c̣án hình sư,c̣dân sư,c̣ hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao
đôngc̣, hành chính. Trong đó, người có quyền thi hành án yêu cầu người có
nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ thi hành án của họ đối với mình và
người có nghĩa vụ thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ của mình vì lợi ích của
người có quyền thi hành án.
1.2.2Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thiệt hại được hiểu là “mất mát, hư hỏng nặng nề
về người và của”[1]. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì thiệt hại là “tổn thất về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
tài sản của cá nhân, tổ chức được pháp luật bảo vệ”. BLDS Việt Nam năm 1995
quy định tại Điều 310: “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh
thần”. BLDS Việt Nam năm 2005 quy định tại Điều 307: “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại bao gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần.” Như vậy, theo quan điểm phổ biến hiện
nay thì thiệt hại bao gồm: thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về
tinh thần bao gồm: tổn thất về danh dự, uy tín, nhân phẩm hoặc suy sụp về tâm lý,
tình cảm của cá nhân và thiệt hại về vật chất bao gồm: tài sản bị mất, hủy hoại, bị
hư hỏng; chi phí phải bỏ ra để khắc phục, ngăn chặn thiệt hại cùng những hoa lợi,
lợi tức không thu được mà đáng ra thu được. Tóm lại, thiệt hại có thể hiểu là sự
không nguyên vẹn như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động từ
bên ngoài.
Bồi thường, theo Đại từ điển tiếng Việt, là việc “đền bù những tổn thất đã gây
ra”[2]. Về mặt pháp lý, bồi thường thiệt hại là một dạng nghĩa vụ dân sự phát sinh
13


do gây thiệt hại. Trong pháp luật dân sự, bồi thường thiệt hại là việc đền bù những

tổn thất và khắc phục những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra; vì vậy, bồi thường
thiệt hại là hình thức trách nhiệm dân sự nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại
phải khắc phục hậu quả bằng cách bù đắp, đền bù tổn thất về vật chất và tổn thất
về tinh thần cho bên bị thiệt hại. Với quan niệm thiệt hại là sự không nguyên vẹn
như trạng thái ban đầu của sự vật sau khi chịu sự tác động bên ngoài, vì vậy bồi
thường thiệt hại có thể hiểu là trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu của sự
vật hiện tượng. Về mặt pháp lý, thiệt hại là những tổn thất về tài sản, tổn thất về
tính mạng, sức khỏe, uy tín, danh dự, nhân phẩm; vì vậy, bồi thường thiệt hại là sự
khôi phục lại những tổn thất trên bằng giá trị vật chất hoặc những cách thức và tiêu
chí do pháp luật quy định.
Đối tượng của thi hành án dân sự trước hết là các bản án, quyết định giải
quyết các vụ việc dân sự, sau đó là các quyết định về tài sản trong các bản án
hình sự, hành chính của toà.Yếu tố “dân sự”c̣ đươcc̣ hiểu là các bản án, quyết
đinḥ dân sư,c̣kinh tế, lao đôngc̣, hôn nhân và gia đình, quyết đinḥ về tài sản trong
bản án, quyết định hình sự về bồi thường thiệt hại, bản án, quyết đinḥ dân sư
c̣của Tòa án nước ngoài, quyết đinḥ của Trongc̣ tài nước ngoài được Tòa án Việt
Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam.
Hoạt động thi hành án dân sự là một dạng của hoạt động tư pháp nhưng có
những đặc thù riêng. Và vấn đề phải chịu trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
khi các hành vi, quyết định trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án, chấp
hành viên có các đặc trưng sau:
- Phải là các quyết định, hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự, chấp hành viên trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự.
- Các quyết định, hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự,
chấp hành viên thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước qui định tại điều
38 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
- Các quyết định, hành vi trái pháp luật của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân
sự, chấp hành viên phải được xác định trong giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc
14



quyết định giải quyết khiếu nại lần hai của cơ quan có thẩm quyền giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự theo qui định
1.3 Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án gây ra

Thi hành án là một trong các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước thuộc phạm vi
điều chỉnh của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, trong đó thi hành án
dân sự là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm, cũng dễ phát sinh nhiều yêu cầu bồi
thường.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại từ hành vi xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân là trách nhiệm pháp lý được xác định với mọi chủ thể. Vì
vậy, khi Nhà nước thực hiện công quyền gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì
cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của Nhà nước không chỉ nhằm khôi phục các tổn thất tài sản mà còn phải bù đắp
những tổn thất tinh thần cho các cá nhân, tổ chức bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại của Nhà nước là trách nhiệm khôi phục những tổn thất về tài
sản, bù đắp những tổn thất về tinh thần trong trường hợp cán bộ, công chức nhà
nước có hành vi trái pháp luật trong khi thi hành công vụgây thiệt hại về tài sản,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của cá nhân, tài sản, uy tín của tổ chức, quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác.
Trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà nước gồm các yếu
tố cơ bản sau: chủ thể; khách thể; các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại.
Về chủ thể, các bên trong quan hệ về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
luôn luôn bao gồm bên gây thiệt hại - Nhà nước, và bên bị thiệt hại là các cá nhân,
tổ chức, chủ thể khác; trong đó, Nhà nước luôn luôn là một bên trong quan hệ về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại này. Việc quy định trực tiếp trách nhiệm bồi
thường thuộc về một cơ quan đại diện chung hay trách nhiệm thuộc về từng cơ
quan cụ thể thuộc về chính sách pháp lý của mỗi quốc gia, tuy nhiên cần phải
khẳng định rằng một bên chủ thể có trách nhiệm luôn luôn là Nhà nước; cơ quan

thực hiện trách nhiệm bồi thường không nhân danh mình mà nhân danh Nhà
15


nước thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng như nhân danh Nhà nước khi
thực hiện công vụ.
Về khách thể, trong các quan hệ pháp luật, khách thể là lợi ích vật chất hoặc
tinh thần mà các chủ thể pháp luật mong muốn đạt được khi tham gia các quan hệ
pháp luật. Trong quan hệ pháp luật dân sự, khách thể là đối tượng mà các chủ thể
quan tâm, hướng tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào khi tham gia quan hệ pháp
luật dân sự. Trên thực tế, khi hoạt động công quyền gây ra thiệt hại, thì đó là
những thiệt hại vật chất, thiệt hại tinh thần của các cá nhân, tổ chức; tuy nhiên có
một thiệt hại mà không thể đo, đếm được là lòng tin của người dân vào hiệu quả
hoạt động cũng như uy tín của Nhà nước. Chính vì vậy, khách thể trong trường
hợp này là quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và lợi ích của Nhà nước vì khi
xảy ra bất kỳ một vụ oan, sai thì không chỉ có công dân là người duy nhất bị thiệt
hại mà luôn kéo theo những tổn thất của Nhà nước. Một mặt, Nhà nước phải bồi
thường vật chất, tinh thần cho người bị oan. Mặt khác, thiệt hại của Nhà nước
tưởng chừng như vô hình nhưng hậu quả trên thực tế vẫn có thể dễ dàng nhận thấy
được. Đó là sự giảm sút uy tín của Nhà nước, là sự xói mòn lòng tin của nhân dân
đối với Nhà nước.
Về các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trước hết, điều
kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại được hiểu là tổng hợp các yếu tố
cấu thành nên trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Quan điểm chính thống hiện nay
cho rằng các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm: có thiệt
hại xảy ra, có hành vi vi phạm pháp luật, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi
phạm pháp luật và thiệt hại đã xảy ra, người gây thiệt hại phải có lỗi. Trong quan
hệ bồi thường thiệt hại của Nhà nước thì các điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm:
(1) Có thiệt hại xảy ra;

(2) Có hành vi trái pháp luật trong quá trình thi hành công vụ;
(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.
1.5 Ý nghĩa của quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cơ quan
thi hành án gây ra

16


Thi hành án là hoạt động có khả năng gây thiệt hại tương đối phổ biến.
Trong quá trình tổ chức hoạt động thi hành án, việc áp dụng quyết định cũng
như thực hiện hành vi của người có thẩm quyền đều có nguy cơ gây ra thiệt
hại cho cá nhân, tổ chức có liên quan. Việc ban hành Luật TNBTCNN nói
chung và trong hoạt động THADS nói riêng nhằm giải quyết thực trạng này là
cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Thứ nhất, TNBTCNN trong hoạt động THADS bảo đảm cho quá trình
THADS được thực hiện một cách nhanh chóng và đúng đắn, tránh được sự
lạm quyền từ những người có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết định dân
sự và đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong
hoạt động THADS
Thứ hai, các thiệt hại của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong THADS được bồi
thường một cách nhanh chóng thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước đối với Nhân
dân, từ đó sẽ củng cố được lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, chế định TNBTCNN trong hoạt động THADS sẽ giúp hạn chế các
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động THADS, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.
Thứ tư, Luật TNBTCNN ra đời đã tạo một cơ chế pháp lý rõ ràng về
TNBTCNN trong hoạt động THADS, điều này đã giúp cho cán bộ, công chức hoạt
động trong lĩnh vực THADS có thể tự tin thực hiện nhiệm vụ được giao một cách
hiệu quả, không còn tâm lý lo sợ phải bồi thường nếu mình làm sai, bên cạnh đó
cũng nâng cao hơn ý thức tuân thủ pháp luật của cán bộ, công chức thi hành công

vụ trong hoạt động THADS
CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI DO CƠ QUAN THI HÀNH ÁN GÂY RA
2.1 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án do hoạt động thi

hành án
17


2.1.1 Căn cứ phát sinh việc bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án gây ra
THADS là lĩnh vực phức tạp, do nhiều nguyên nhân chủ quan khác nhau,
trong đó một phần xuất phát từ nhận thức pháp luật nên trong quá trình thi hành án,
đội ngũ chấp hành viên của các cơ quan THADS có thể có những hành vi trái pháp
luật gây phát sinh trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, qua thực tế một số sai
phạm thường gặp cụ thể là:
+ Ra quyết định và tổ chức thực hiện không đúng thẩm quyền
+ Ra quyết định không đủ căn cứ quy định của pháp luật
+ Vi phạm trình tự, thủ tục trong quá trình tổ chức thi hành án
+ Hiểu chưa đúng các quy định của pháp luật, không kịp thời cập nhật quy
định mới của pháp luật về thi hành án và pháp luật khác có liên quan mà thực thiện
theo thói quen kinh nghiệm nên dẫn tới việc ra quyết định và tổ chức thực hiện các
quyết định thi hành án trái pháp luật
Có văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xác định hành vi của người thi
hành công vu c̣là trái pháp luật.
Theo quy đinḥ taị Khoản 3, Điêu 3LuâṭTNBTCNN 2009 và các văn bản
hướng dâñ thi hành, văn bản xác đinḥ hành vi trái pháp luâṭ của người thi hành
công vu c̣cóthể là quyết đinḥ giải quyết khiếu nại của người cóthẩm quyền đã có
hiêụ lưcc̣ pháp luâṭ, theo quyết đinḥ xử lý tố cáo của cơ quan hoăcc̣ người cóthẩm
quyền theo quy đinḥ của pháp luâṭ hoăcc̣ bản án , quyết đinḥ của cơ quan tiến hành

tố tung đã có hiêụ lưcc̣ pháp luâṭ.Hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ
thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường quy định tại Điều 38, Luật TNBTCNN
gây ra trong các trường hợp sau đây:
Ra hoặc cố ý không ra quyết định:
a) Thi hành án;
b) Thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định về thi hành án;
c) Áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án;
d) Cưỡng chế thi hành án;
đ) Thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Toà án.
e) Hoãn thi hành án;
g) Tạm đình chỉ, đình chỉ thi hành án;
18


h) Tiếp tục thi hành án.
2. Tổ chức thi hành hoặc cố ý không tổ chức thi hành quyết định quy định tại
khoản 1 Điều này.
Đây là căn cứ để có thể xác định có hay không trách nhiệm bồi thường của
người thi hành công vụ khi họ có hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại bởi
không phải mọi trường hợp TNBTCNN cũng phát sinh khi người thi hành công vụ
có hành vi trái pháp luật và gây ra thiệt hại.
Có thiệt hại thực tế xảy ra là một trong những căn cứ xác định
TNBTCNN trong hoạt động THADS, đồng thời đây cũng là căn cứ để quyết định
mức bồi thường thiệt hại Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại thực tế xảy ra và
hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ. Theo đó hành vi trái pháp luật
của người thi hành công vụ phải luôn là nguyên nhân dẫn tới những thiệt hại thực
tế xảy ra và ngược lại, thiệt hại xảy ra chính là kết quả của hành vi trái pháp luật
đó.
Đối với trường hợp người thi hành công vụ không ra quyết định hoặc không
tổ chức thi hành quyết định về THADS quy định tại Điều 38 Luật TNBTCNN thì

trách nhiệm bồi thường của Nhà nước chỉ phát sinh khi có đủ các điều kiện sau:
Có đủ các điều kiện quy định như đối với trường hợp ra quyết định hoặc tổ
chức thi hành quyết định về THADS
Có lỗi cố ý của người thi hành công vụ. Theo đó, để được Nhà nước bồi
thường trong trường hợp người thi hành công vụ không ra quyết định hoặc không
tổ chức thi hành quyết định về THADS quy định tại Điều 38,Luật TNBTCNN thì
cần phải chứng minh được yếu tố có lỗi cố ý của người thi hành công vụ . Điều 5
TTLT số24/2011/TTLT – BTP – BQP đã quy định cụ thể việc xác định lỗi cố ý của
người thi hành công vụ:
Một là, trong trường hợp các văn bản của cơ quan có thẩm quyền như Quyết
định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền theo quy định tại Điều 142 Luật
THADS, kết luận nội dung tố cáo của người có thẩm quyền theo quy định tại Điều
157 Luật THADS, bản án, quyết định của Toà án có thẩm quyền đã có hiệu lực
19


pháp luật đã xác định lỗi cố ý của người thi hành công vụ thì cơ quan có trách
nhiệm bồi thường căn cứ vào văn bản đó để thực hiện việc giải quyết bồi thường
cho người bị thiệt hại.
Hai là, trong trường hợp văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định
người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật chưa xác định lỗi cố ý của người
thi hành công vụ thì căn cứ vào bản án, quyết định của Toà án, quyết định giải
quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc
các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp, cơ quan có trách nhiệm bồi thường
xác định lỗi cố ý của người thi hành công vụ trên cơ sở áp dụng quy định tại khoản
2 Điều 308 BLDS năm 2005.

20



2.2.2Chủ thể trong việc bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án dân sự
gây ra
a) Người gây thiệt hại:
Căn cứ vào Điều 14, Điều 40, Luật TNBTCNN; Khoản 1 Điều 5 Nghị định
16/2010/NĐ-CP và Điều 10 TTLT số 24/2011/TTLT-BTP-BQP thì cơ quan có
trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS được xác định cụ thể như sau:
Cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong hoạt động THADS là cơ quan
THADS trực tiếp quản lý người thi hành công vụ có hành vi trái pháp luật gây ra
thiệt hại;
Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Tổng
cục THADS thi cơ quan có trách nhiệm bồi thường là Tổng cục THADS;
Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Cục
THADS cấp tỉnh, Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng thì cơ quan có trách nhiệm bồi
thường là Cục THADS cấp tỉnh, Cục Thi hành án Bộ Quốc phòng;
Trường hợp người thi hành công vụ gây ra thiệt hại là công chức của Chi cục
THADS cấp huyện, Phòng Thi hành án cấp quân khu thì cơ quan có trách nhiệm
bồi thường là Chi cục THADS cấp huyện, Phòng Thi hành án cấp quân khu;
Trường hợp cơ quan THADS giao cho tổ chức, cá nhân khác thực hiện nhiệm
vụ liên quan đến hoạt động THADS mà gây ra thiệt hại trong phạm vi trách nhiệm
bồi thường theo quy định của Luật TNBTCNN thì cơ quan THADS đó có trách
nhiệm bồi thường;
Trường hợp cơ quan THADS quản lý người thi hành công vụ đã được chia
tách, sáp nhập, hợp nhất hoặc bị giải thể thì cơ quan THADS kế thừa chức năng,
nhiệm vụ của cơ quan đó là cơ quan có trách nhiệm bồi thường.
Tuy nhiên trong trường hợp cơ quan THADS quản lý người thi hành công
vụ bị giải thể mà không có cơ quan nào kế thừa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan


THADS đã bị giải thể thì cơ quan đã ra quyết định giải thể là cơ quan có
TNBTTH;

Trường hợp tại thời điểm thụ lý đơn yêu cầu bồi thường mà người thi hành
công vụ gây ra thiệt hại không còn làm việc tại cơ quan THADS quản lý người đó
thì cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan quản lý người thi hành công vụ
tại thời điểm gây ra thiệt hại;
Trường hợp có sự ủy quyền hoặc ủy thác thực hiện công vụ giữa các cơ quan
THADS thì cơ quan THADS ủy quyền hoặc THADS ủy thác là cơ quan có trách
nhiệm bồi thường;
Ngoài ra, trong trường hợp cơ quan THADS được ủy quyền, cơ quan THADS
nhận ủy thác thực hiện không đúng nội dung ủy quyền, ủy thác mà gây ra thiệt hại
thì cơ quan thi hành án nhận ủy quyền, ủy thác đó phải có trách nhiệm bồi thường.
b)Người bị thiệt hại:
Điều 2 Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước quy định đối tượng được
bồi thường như sau: “Cá nhân, tổ chức bị thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh
thần (sau đây gọi chung là người bị thiệt hại) trong các trường hợp quy định tại
Luật này thì được Nhà nước bồi thường.” Như vậy, những người được pháp luật
thừa nhận là người được Nhà nước bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ
gây ra là người bị thiệt hại.

Nội dung vụ việc:
Theo đơn khởi kiện, năm 1995, ông Vũ Đức Liêm mua một mảnh đất
750m2 ở xã Hố Nai (huyện Thống Nhất, Đồng Nai) cất nhà ở.
Năm 1996, toàn bộ nhà và đất này bị Thi hành án huyện Thống Nhất (nay là
huyện Trảng Bom) ra quyết định cưỡng chế kê biên, phát mại để thi hành bản án
của vợ ông.


Ông Liêm đã khiếu nại, khối tài sản này là tài sản chung vợ chồng, việc ra
quyết định cưỡng chế kê biên phần tài sản của ông để thi hành bản án của vợ ông
là sai. Dù vậy, ngày 7.3.1997, cơ quan thi hành án vẫn bán đấu giá toàn bộ khối tài
sản này và cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu giá.

Sau nhiều lần xử đi, xử lại, ngày 19.1.2010 Tòa phúc thẩm TAND Tối cao ra
phán quyết hành vi của ông Đỗ Ngọc Chất (nguyên đội trưởng đội Thi hành án) và
Phùng Văn San (chấp hành viên) có sai phạm trong việc ra quyết định cưỡng chế
kê biên, phát mãi tài sản của ông Liêm, phạm tội “thiếu trách nhiệm…”.
Từ đó, ông Liêm kiện đòi bồi thường theo Luật Trách nhiệm Bồi thường
Nhà nước. Cụ thể, ông Liêm yêu cầu cơ quan thi hành án phải bồi thường cho ông
toàn bộ tài sản phát mãi sai, tiền thuê chỗ ở từ đó đến nay (15 năm), hoa lợi khai
thác tài sản, tổng cộng là 8,3 tỉ đồng.TAND huyện Trảng Bom (Đồng Nai) ngày
23.7.2012 xử sơ thẩm xác định cán bộ của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trảng
Bom đã kê biên, bán đấu giá tài sản của ông Liêm không đúng quy định, Hội đồng
xét xử tuyên chấp nhận một phần yêu cầu của ông Liêm tuyên buộc Chi cục Thi
hành án (THA) dân sự huyện Trảng Bom (Đồng Nai) bồi thường cho ông Vũ Đức
Liêm (ngụ ở Trảng Bom, Đồng Nai) một nửa giá trị mảnh đất của vợ chồng ông
Liêm, tương đương gần 2,4 tỉ đồng và 180 triệu đồng tiền thuê nhà trong 15 năm từ
1997 đến nay.
Xét tình huống trên ta thấy, ông Đỗ Ngọc Chất (nguyên đội trưởng đội THA)
và Phùng Văn San (chấp hành viên) chính là nhóm đối tượng cán bộ, công chức
thực hiện nhiệm vụ thi hành án đã ra quyết định kê biên toàn bộ nhà và đất để thi
hành bản án của vợ ông mà việc ra quyết định này là sai. Như vậy, chủ thể gây
thiệt hại ở đây chính là ông Nguyễn Đỗ Chất và Phùng Văn San. Ông Vũ Đức
Liêm là người trực tiếp chịu sự tác động đối với quyết định thi hành án của THA
huyện Thống Nhất (nay là huyện Trảng Bom) về việc kê biên, phát mãi để thi hành
bản án của vợ ông. Mà việc cán bộ của Chi cục THA dân sự huyện Trảng Bom đã


kê biên, bán đấu giá tài sản của ông Liêm không đúng quy định, như vậy đã làm
ảnh hưởng, gây thiệt hại đối với ông Vũ Đức Liêm. Do đó, có thể khẳng định
người bị thiệt hại là ông Vũ Đức Liêm.
2.3 Cơ chế trong việc bồi thường thiệt hại do cơ quan thi hành án dân sự gây
ra

Thủ tục giải quyết bồi thường trong hoạt động THADS theo trình tự thực
hiện và giải quyết yêu cầu bồi thường của người bị thiệt hại trong hoạt động
THADS thể hiện như sau:
Người bị thiệt hại yêu cầu cơ quan, tổ chức quản lý người thi hành công vụ
đã gây thiệt hại bồi thường thiệt hại cho mình.
Trong trường hợp cơ quan, tổ chức quản lý người thi hành công vụ tiến
hành hòa giải, thương lượng thành thì việc giải quyết yêu cầu bồi thường được
tiến hành theo quy định của pháp luật và thỏa thuận của các bên.Nếu hai bên
không thỏa thuận được thì người bị thiệt hại có thể khởi kiện ra Tòa án và phán
quyết của Tòa án sẽ là căn cứ để giải quyết yêu cầu bồi thường .
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành, trình tự thủ tục giải quyết
việc bồi thường thiệt hại cũng theo hướng cơ bản trên, theo đó, trong hoạt động
THADS, thủ tục bồi thường thiệt hại sẽ diễn ra theo trình tự sau
Các thủ tục và thời hạn thực hiện các thủ tục trong quy trình giải quyết bồi
thường được quy định tại Luật TNBTCNN và Nghị định số 16/2010/NĐ-CP, bao
gồm:
- Thủ tục thụ lý đơn yêu cầu bồi thường (05 ngày phải ra thông báo),
- Thủ tục cử người đại diện (ngay sau khi có thông báo thụ lý),
- Thủ tục xác minh thiệt hại (tối đa 40 ngày kể từ khi có thông báo thụ lý),
- Thủ tục thương lượng giải quyết bồi thường (tối đa 45 ngày kể từ ngày kết
thúc xác minh thiệt hại),


- Thủ tục ban hành quyết định giải quyết bồi thường (10 ngày kể từ khi kết
thúc thương lượng),
- Thủ tục chuyển giao và hiệu lực của quyết định giải quyết bồi thường (ngay
sau khi ban hành quyết định)
Đề nghị cấp kinh phí bồi thường và chi trả bồi thường; được quy định tại
Điều 52, Điều 54 Luật TNBTCNN và Thông tư liên tịch số 71/2012/TTLT-BTCBTP ngày 09/5/2012 quy định việc lập dự toán, quản lý sử dụng và quyết toán kinh
phí thực hiện trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

Xem xét thực hiện trách nhiệm hoàn trả đối với người thi hành công vụ gây
thiệt hại; được quy định Chương VII Luật TNBTCNN, Chương III Nghị định số
16/2010/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 04/2014/TTLT-BTP-TANDTCVKSNDTC ngày 23/01/2014 hướng dẫn thực hiện trách nhiệm hoàn trả của người
thi hành công vụ.
Tình huống trên được áp dụng trong hoạt động thi hành án dân sự. Năm
1996, toàn bộ nhà và đất của ông Liêm bị THA huyện Thống Nhất (nay là huyện
Trảng Bom) ra quyết định cưỡng chế kê biên, phát mại để thi hành bản án của vợ
ông, do đó vi phạm vào điểm d Khoản 1 Điều 38 là: “Cưỡng chế thi hành án”. Ông
Liêm đã khiếu nại, khối tài sản này là tài sản chung vợ chồng, việc kê biên phần tài
sản của ông để thi hành bản án của vợ ông là sai. Dù vậy, ngày 7.3.1997, THA vẫn
bán đấu giá toàn bộ khối tài sản này và cưỡng chế giao tài sản cho người trúng đấu
giá.
Qua tình huống, ta thấy được hành vi trái pháp luật của THA huyện Thống
Nhất là đã ra quyết định cưỡng chế, có hành vi kê biên tài sản, sau đó bán đấu giá
toàn bộ tài sản mà không đủ căn cứ, khối tài sản này là tài sản chung của vợ chồng
ông Liêm, vậy mà nó lại bị kê biên để thi hành bản án của vợ ông. Mà trên thực tế
việc làm này có một hậu quả pháp lý không hề nhỏ khi đã phát mại tài sản của vợ


×