Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Bảo hiểm thất nghiệp trong luật việc làm năm 2013 từ thực tiễn tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRONG LUẬT VIỆC LÀM NĂM 2013
TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN THU HƯƠNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS LÊ THỊ HOÀI THU

HÀ NỘI - 2019

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu
sử dụng phân tích trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, đã công bố theo đúng quy định. Các
kết quả nghiên cứu trong luận án do tôi tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách
quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Các kết quả này chưa từngđược công bố trong
bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hương

2




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài luận văn và kết thúc khóa học, với tình cảm chân thành, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới trường Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi có môi trường
học tập tốt trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu tại trường. Tôi xin gửi lời cảm ơn tới
PGS.TS. Lê Thị Hoài Thu - cô đã giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và trực tiếp
hướng dẫn tôi hoàn thành đề tài luận văn tốt nghiệp này. Đồng thời, tôi xin bày tỏ lòng cảm
ơn tới thầy cô trong Khoa luật, bạn bè đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình
học tập và hoàn thành Khóa luận tốt nghiệp lần này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tác giả luận văn

Nguyễn Thu Hương

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................. 01
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................... 06
DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ THỊ .................................................................... 07
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT .................................................................................. 08
1.1. Khái niệm, ý nghĩa ............................................................................................ 08
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp ..................................................................... 08
1.1.2. Ý nghĩa bảo hiểm thất nghiệp ........................................................................ 12
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp .................................................. 14
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............................................... 14
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ................................................... 16

1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ...................................................... 19
1.3. Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp một số nước trên thế giới và gởi mở cho Việt Nam

26

1.3.1. Bảo Hiểm thất nghiệp tại Đức ........................................................................ 26
1.3.2. Bảo hiểm thất nghiệp tại Mỹ ........................................................................... 27
1.3.3. Bảo hiểm thất nghiệp ở ChiLe ........................................................................ 29
1.3.4. Những gợi mở cho Việt Nam........................................................................... 30
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRONG LUẬT
VIỆC LÀM 2013 VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 34
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ............................ 34
2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp ................................................. 34
2.1.2. Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp ........................................................... 37
2.1.3. Về quyền lợi hưởng bảo hiểm thất nghiệp ...................................................... 40
2.1.4. Về quỹ bảo hiểm thất nghiệp và quản lý quỹ ................................................. 45
2.1.5 Xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ........................................... 47
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo hiểm thất nghiệp tại thành phố Hà Nội ........ 48
2.2.1. Về thành công ................................................................................................ 48
2.2.2. Về hạn chế ....................................................................................................... 52
4


2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại ...................................................................... 55
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN BẢO HIỂM
THẤT NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ....................... 58
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả bảo hiểm thất nghiệp
trong Luật Việc làm năm 2013 ................................................................................. 58
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Việc làm

2013 và nâng cao hiệu quả thực hiện ........................................................................ 62
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện bảo biểm
thất nghiệp từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội ........................................................... 64
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 78

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHTN:

Bảo hiểm thất nghiệp

BHXH:

Bảo hiểm xã hội

ILO:

Tổ chức lao động quốc tế

LĐTBXH:

Lao động – thương binh và xã hội

NLĐ:


Người lao động

NSDLĐ:

Người sử dụng lao động

TCTN:

Trợ cấp thất nghiệp

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

6


DANH MỤC BẢNG BIỂU ĐỒ THỊ
Số hiệu
Phụ lục 1

Tên bảng

Trang

Tỷ trọng lực lượng lao động và tỷ lệ tham gia lực lượng
lao động theo thành thị/nông thôn và vùng kinh tế xã hội,

77


năm 2017
Phụ lục 2

Phân bố phần trăm lao động có việc làm theo nhóm
ngành kinh tế và khu vực kinh tế năm 2017

Phụ lục 3

Tình hình tham gia và đóng bảo hiểm thất nghiệp, giai
đoạn 2010 – 2015

7

78

79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp là một trong những vấn đề bức xúc ở Việt Nam nói chung và thủ đô Hà Nội nói
riêng. Đặc biệt sau khi mở rộng địa giới hành chính, dân số của thành phố tuy lớn nhưng sự
mất cân đối giữa cung và cầu lao động khá rõ nét, chất lượng cung qua đào tạo giảm hơn so
với trước đã làm cho một số lượng không nhỏ lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau đã
bị mất việc làm, đời sống khó khăn, ảnh hưởng đến trật tự an sinh xã hội. Bảo hiểm thất
nghiệp ra đời góp phần ổn định đời sống, hỗ trợ người lao động được học nghề, tư vấn giới
thiệu việc làm nhằm sớm đưa họ trở lại với thị trường lao động. Vì vậy, Bảo hiểm thất nghiệp
trở thành một chính sách cần thiết trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trước đây, chính
sách bảo hiểm thất nghiệp lần đầu tiên được xây dựng trong Bộ Luật lao động 2002, tuy nhiên

tới khi Luật Bảo hiểm xã hội ra đời năm 2006 bắt đầu được thực hiện từ ngày 01/01/2009,
pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp mới thực hiện được quy định cụ thể, chi tiết. Có thể nói,
đây chính là bước đầu hết sức tích cực mà theo đó, Nhà nước tiến hành những biện pháp hữu
hiệu để bảo hiểm thất nghiệp phát huy được vai trò, ý nghĩa quan trọng của mình đối với vấn
đề thất nghiệp trong xã hội. Bên cạnh những thành tựu thu được thì chính sách về bảo hiểm
thất nghiệp cũng không tránh được những vướng mắc bất cập còn tồn tại. Chế độ bảo hiểm
thất nghiệp đã được hoàn thiện một bước đáng kể trong Luật Việc làm 2013, thể hiện cái mới
của Nhà nước, đặt Bảo hiểm thất nghiệp gắn liền với “việc làm” thay vì nhìn nhận chế độ bảo
hiểm này dưới góc độ là một chế độ bảo hiểm xã hội thuần túy trước đây. Luật Việc làm có
hiệu lực 01/01/2015 với nhiều quy định mới về bảo hiểm thất nghiệp và việc nghiên cứu các
quy định mới này để giúp hoàn thiện thêm chính sách Bảo hiểm thất nghiệp, góp phần ổn định
kinh tế - xã hội trên địa bàn Hà Nội. Đây chính là lý do tôi chọn đề tài “ Bảo hiểm thất nghiệp
trong Luật Việc làm năm 2013 từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội” làm luận văn tốt
nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Tất cả các nước có nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp và giải
quyết vấn đề này luôn được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu. Vì vậy, Bảo hiểm thất

8


nghiệp trở thành mối quan tâm và là đề tài nghiên cứu của nhiều nhà khoa học từ trước tới
nay
- Giáo trình, sách tham khảo: Bao gồm giáo trình luật an sinh xã hội của một số cơ sở
đào tạo luật học, như: Giáo trình luật an sinh xã hội Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội năm
2013; Giáo trình bảo hiểm của Đại học Kinh tế quốc dân hà Nội năm 2004, Giáo trình bảo
hiểm xã hội của Đại học Lao động - xã hội năm 2011… Sách tham khảo “Pháp luật an sinh
xã hội - những vấn đề lý luận và thực tiễn” Nguyễn Hiền Phương. Theo đó, các công trình
này có đề cập đến một số nội dung liên quan đến BHTN và pháp luật về BHTN.
Đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn: Các đề tài khoa học cấp bộ, cấp cơ sở,

luận án, luận văn cũng có đề cập đến nội dung BHTN và pháp luật về BHTN tại Việt Nam.
Các đề tài nghiên cứu khoa học có thể kể đến như đề tài khoa học: “Giải pháp về bảo hiểm
thất nghiệp ở Việt Nam” của Bộ Lao động, thương binh và xã hội, năm 1996; Đề tài khoa
học: “Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội” của Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2005.
Các luận án, như: Luận án “Chế độ bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam” của tác giả Lê Thị Hoài Thu, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2004; Luận án
“Cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Hiền Phương, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2009.
Ngoài ra là các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành về an sinh xã hội, với những
phân tích tương đối chuyên sâu và có nhiều so sánh tham khảo với pháp luật nước ngoài. Đó
là: “Một số vấn đề về bảo hiểm thất nghiệp” của tác giả Trần Thị Thúy Lâm, đăng trên Tạp
chí Luật học số 3/2004; “Điều kiện, thời gian hưởng chế độ bảo hiểm thất nghiệp ở Việt
Nam” của TS Lê Thị Hoài Thu, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 4/2005; “Những
vấn đề cần quan tâm khi xây dựng chính sách bảo hiểm thất nghiệp” của Trần Thị Diệu Hồng,
đăng trên Tạp chí Lao động và xã hội, số 260/2005; “Quy định về bảo hiểm thất nghiệp trong
Công ước của Tổ chức lao động quốc tế ILO và một số nước trên thế giới” của tác giả Lê Thị
Hoài Thu; “Tham gia bảo hiểm thất nghiệp có lợi cho cả người lao động và người sử dụng
lao động” của tác giả Đặng Quang Điều đăng trên Tạp chí Lao động và xã hội, số 355/2009;
“Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp sau 3 năm thực hiện ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Thị Dung
đăng trên Tạp chí Luật học, số 9/2012; “Nhìn lại 5 năm thực hiện chính sách bảo hiểm thất
9


nghiệp ở Việt Nam”, Lê Thị Thanh Hà, Tạp chí qu ản lý nhà nước, số 7/2014. Ngoài việc xây
dựng hệ thống một số vấn đề lý luận, các công trình nghiên cứu này, ở các mức độ khác nhau,
đã đi sâu phân tích những bất cập trong quy định của pháp luật BHTN và thực tiễn thực hiện
ở Việt Nam, từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật BHTN.
Tuy vậy, theo tìm hiểu và khảo cứu của tác giả thì chưa có công trình nào ở cấp luận
văn nghiên cứu về thực tiễn thực hiện pháp luật BHTN trên địa bàn Hà Nội. Từ đó tác giả lựa

chọn đề tài “Bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Việc làm năm 2013 từ thực tiễn tại thành
phố Hà Nội” làm luận văn để góp phần củng cố và làm rõ hơn những vấn đề lý luận về BHTN
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu với mục đích làm rõ những vấn đề chung về BHTN, khái quát hệ
thống pháp luật về BHTN ở Việt nam hiện nay và đánh giá thực trạng quá trình áp dụng
BHTN tại thủ đô Hà Nội từ đó nhận ra những mặt làm được và những khiếm khuyết còn tồn
đọng để có hướng kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện pháp luật. Từ mục tiêu trên, luận văn tập
trung vào các nhiệm vụ chính sau đây:
Một là, nghiên cứu để làm sáng tỏ một số vấn đề chung về thất nghiệp, BHTN, pháp
luật về BHTN.
Hai là, phân tích thực trạng pháp luật hiện hành về BHTN ở Việt Nam và thực tiễn thực
hiện các quy định của pháp luật về BHTN tại địa bàn Hà Nội. Qua đó, rút ra những điểm tích
cực, những điểm còn tồn tại, bất cập trong các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thực
hiện pháp luật trên địa bàn Hà Nội
Ba là, đề xuất kiến nghị sửa đổi một số quy định của pháp luật hiện hành về
BHTN và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện BHTN trên địa bàn Hà Nội.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về BHTN trong Luật Việc
làm bao gồm: đối tượng tham gia BHTN, điều kiện hưởng BHTN, các chế độ của BHTN, quỹ
BHTN, xử lý vi phạm pháp luật về BHTN; cùng với đó là việc tâp trung phân tích, đánh giá
thực tiễn thực hiện pháp luật về BHTN trên địa bàn Hà Nội. Đồng thời có sự tham khảo pháp

10


luật quốc tế về BHTN để từ đó đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định
của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở của phương pháp luận về chủ nghĩa Mác – Lênin
kết hợp với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Bên cạnh đó luận văn cũng tham khảo

quan điểm của Đảng và Nhà nước về chính sách BHTN ở Việt Nam. Ngoài ra, những phương
pháp nghiên cứu khoa học kinh tế, xã hội phù hợp với từng vấn đề của đề tài cũng được vận
dụng như: phân tích, tổng hợp, so sánh, chứng minh, đối chiếu, thống kê, dự báo khoa học..
Các phương pháp này có thể được sử dụng riêng rẽ hoặc có thể được kết hợp với nhau để làm
sáng tỏ một vấn đề cụ thể.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa khoa học: Luận văn làm rõ hơn nữa vấn đề cơ bản về thất nghiệp, bảo hiểm
thất nghiệp. Cùng với đó phân tích thực trang pháp luật về BHTN theo Luật Việc làm tại Việt
Nam hiện nay và thực tiễn thực hiện BHTN tại địa bàn Hà Nội để từ đó tìm ra những bất cập,
hạn chế còn tồn tại.
Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có giá trị như một tài liệu tham khảo về vấn đề BHTN
tại Việt Nam. Đồng thời luận văn đưa ra một cái nhìn bao quát về việc thực hiện BHTN tại
Hà Nội, giúp các cơ quan quản lý tại địa phương này có thể xem xét nghiên cứu để có thể
ngày càng hoàn thiện chính sách BHTN tại nơi đây.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận
văn kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và sự điều chỉnh của pháp luật.
Chương 2. Thực trạng pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trong luật Việc làm 2013 và thực tiễn
thi hành tại thành phố Hà Nội
Chương 3. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và
nâng cao hiệu quả thực hiện bảo hiểm thất nghiệp từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội.

11


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ SỰ ĐIỀU
CHỈNH CỦA PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm, ý nghĩa
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp

Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế - xã hội mà hầu hết các nước trên thế giới phải
đương đầu. Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp là một hiện tượng khách quan và nó
được biểu hiện như một đặc trưng vốn có của kinh tế thị trường. Tác động của thất nghiệp
đến sự phát triển, ổn định kinh tế, chính trị và xã hội của mỗi quốc gia là rất lớn, nó đẩy người
lao động bị thất nghiệp vào tình cảnh túng quẫn, lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình trệ. Thất nghiệp gia tăng làm cho tình hình
chính trị xã hội bất ổn, các tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng làm băng hoại các giá trị đạo
đức, văn hóa của gia đình và xã hội. Thất nghiệp dẫn đến những thiệt hại nghiêm trọng về thu
nhập kinh tế quốc dân, sự lãng phí nguồn nhân lực do tỷ lệ thất nghiệp cao đi liền với sự giảm
sút thu nhập do không sản xuất. Đồng thời, thất nghiệp còn làm tăng chi tiêu của Chính phủ,
của doanh nghiệp và xã hội cho các trợ cấp thất nghiệp và các chi phí có liên quan như chi
phí đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng, dịch vụ việc làm. Vì vậy, hạn chế thất nghiệp và đảm bảo
ổn định đời sống người lao động trong trường hợp bị thất nghiệp là mục tiêu chung của các
quốc gia và các tổ chức quốc tế và khu vực.
Để giải quyết tình trạng thất nghiệp, nhiều biện pháp đã được thực hiện nhằm trợ giúp
kịp thời cho những người thất nghiệp trong thời gian chưa tìm được việc làm và tạo cơ hội
cho họ học nghề, tìm kiếm công việc mới. Tại Việt Nam, Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp
lý quan trọng nhất sau cương lĩnh của Đảng, là đạo luật gốc, quy định những vấn đề hết sức
cơ bản của một Nhà nước. Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề an sinh xã hội, cụ thể tại Điều
34 – Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. An sinh
xã hội là các chương trình hành động của nhà nước, nhằm thúc đẩy phúc lợi của người dân
thông qua các biễn pháp hỗ trợ, để đảm bảo quyền tiếp cận các điều kiện sống tốt hơn và trong
đó quyền được tham gia bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động. Do đó, quyền được
tham gia bảo hiểm thất nghiệp chính là quyền con người mà nhà nước bảo vệ và bảo đảm thực
hiện. Nếu như trong Bộ luật lao động đã đưa ra một số biện pháp nhằm hỗ trợ cho những
12


người lao động bị thất nghiệp như trợ cấp thôi việc và trợ cấp mất việc thì trong lĩnh vực An
sinh xã hội chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) áp dụng bắt buộc đối với người lao động

và người sử dụng lao động; có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, được quy định
trong Luật Bảo hiểm xã hội (LBHXH) số 71/2006/QH11 đã được Quốc hội nước Cộng hoà
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI - kỳ họp thứ chín thông qua ngày 29 tháng 6 năm 2006;
Nghị định số 127/2008/NĐ-CP - ngày 12 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp; thông
tư số 32/2010/TT-BLĐTBXH - ngày 25 tháng 10 năm 2010 của Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP - ngày 12
tháng 12 năm 2008 nêu trên.
Sau nhiều năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trong thực tiễn và đồng thời nhận được
những ý kiến đóng góp khác nhau từ những học giả, nhà nghiên cứu về lĩnh vực thất nghiệp,
nhà nước đã có điều chỉnh mang tính đột phá khi chuyển toàn bộ chế độ bảo hiểm thất nghiệp
quy định ở Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 sang Luật Việc làm năm 2013. Chúng ta tiếp thu
và bước đầu áp dụng theo mô hình bảo hiểm thất nghiệp là “chế độ bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm
việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Xét đến cùng thì bảo hiểm thất nghiệp
không phải là biện pháp giải quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị động, mà bảo hiểm thất
nghiệp có vai trò chủ động trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất
nghiệp, giúp người lao động trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất
nghiệp, giúp người lao động nhanh chóng tìm được việc làm.
Dưới góc độ kinh tế xã hội, BHTN được hiểu là: giải pháp nhằm khắc phục hậu quả
của tình trạng thất nghiệp, giúp người thất nghiệp tạm thời đảm bảo cuộc sống và tìm kiếm
việc làm thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền tệ quỹ này được hình thành do sự
đóng góp của người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ), có sự hỗ trợ của
Nhà nước, được sử dụng để trả trợ cấp cho người thất nghiệp, cũng như tiến hành các biện
pháp nhằm nhanh chóng giúp người thất nghiệp có được việc làm mới.
Theo công ước 102 của ILO BHTN là một trong chín nhánh của Bảo hiểm xã hội
(BHXH). Việc chi trả trợ cấp thất nghiệp nhằm hỗ trợ một phần thu nhập cho NLĐ bị mất
13



việc làm và giúp họ có điều kiện học nghề, tạo cơ hội tiếp tục tham gia thị trường lao động.
Cùng với các chế độ BHXH khác chế độ BHTN đã góp phần hoàn thiện và nâng cao khả
năng bảo vệ NLĐ của hệ thống pháp luật BHXH.
Để phù hợp với công ước của ILO, dảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật lao
động, phù hợp với mục đích của BHTN, trong định hướng xây dựng chế độ BHTN ở Việt
Nam, BHTN được coi là một chế độ của BHXH. Theo đó, “Bảo hiểm thất nghiệp là tổng thể
các quy phạm pháp luật quy định về việc đóng góp và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi
trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho người lao động bị mất việc làm và thực hiện
các biện pháp đưa người thất nghiệp trở lại làm việc”. BHTN vì thế thường được hiểu là một
chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho NLĐ bị mất thu
nhập do thất nghiệp.
Giống như các chế độ BHXH khác, BHTN cũng xuất phát từ quan hệ lao động, có
mục đích bù đắp thu nhập của NLĐ. Bên cạnh đó, BHTN còn có một số đặc trưng riêng:
Thứ nhất, BHTN xuất phát từ quan hệ lao động nhưng khi thực hiện lại chủ yếu thuộc
về lĩnh vực việc làm. Việc thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp luôn được gắn liền với vấn đề
giải quyết việc làm cho NLĐ. BHTN do đó vừa có chức năng hỗ trợ khó khăn cho người thất
nghiệp khi tạm thời mất thu nhập vừa có chức năng xúc tiến những hoạt động tìm kiếm và tạo
việc làm cho NLĐ.
Thứ hai, BHTN không chỉ thu và chi trả trợ cấp thất nghiệp mà còn thực hiện các biện
pháp để đưa NLĐ trở lại thị trường lao động. Do đó, cơ quan BHTN vừa có trách nhiệm đăng
ký thất nghiệp, kiểm tra các điều kiện của NLĐ trước khi trả trợ cấp thất nghiệp vừa phải kịp
thới nắm bắt các thông tin về thị trường lao động để giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp
cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác biệt giữa hoạt động quản lý thất nghiệp với các loại
hình BHXH khác. Đồng thời, vấn đề này cũng tạo nên những quan điểm thống nhất về việc
nên giao cho cơ quan nào chịu trách nhiệm quản lý hoạt động BHTN. Có ý kiến cho rằng nên
giao cho cơ quan BHXH thống nhất quản lý các chế độ BHXH (trong đó có BHTN). Nhưng
cũng có những ý kiến khác cho rằng nên giao cho cơ quan quản lý lao động các cấp quản lý
để chủ động thực hiện chức năng đăng ký thất nghiệp, chi trả trợ cấp thất nghiệp, cũng như
tiến hành các hoạt động tìm kiếm và giới thiệu việc làm. Như vậy khác với cơ quan quản lý
14



BHXH thông thường chỉ thực hiện chức năng thu, chi BHXH các cơ quan quản lý BHTN còn
phải tiến hành các hoạt động nghiệp vụ nhằm giải quyết việc làm, bên cạnh các nghiệp vụ
BHXH thuần túy.
Thứ ba, đối tượng áp dụng chế độ BHTN là những người trong độ tuổi lao động, có
sức lao động nhưng bị mất việc làm, tạm thời không có thu nhập và sẵn sàng trở lại làm việc.
Như vậy,khác với các loại hình BHXH khác, đối tượng của BHTN là những NLĐ bị chấm
dứt quan hệ lao động một cách không tự nguyện. Còn đối tượng của các chế độ BHXH khác
là những người lao động vẫn đang tồn tại quan hệ lao động như chế độ trợ cấp ốm đau, thai
sản hoặc chấm dứt quan hệ lao động do không có khả năng tiếp tục làm việc như tử tuất, hưu
trí.
Thứ tư, việc thực hiện chế độ BHTN rất phức tạp và khó quản lý. Quy mô và tỷ lệ thất
nghiệp không thể dự đoán chính xác , gây khó khăn rất lớn trong việc hạch toán và cân đối
thu – chi của quỹ BHTN. Hoạt động của BHTN lại có mối quan hệ mật thiết với hệ thống đào
tạo nghề, các trung tâm giới thiệu việc làm và chương trình quốc gia về việc làm nên đòi hỏi
phải có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan quản lý BHTN với các cơ quan chức năng khác
trong lĩnh vực lao động việc làm. Đây là hai chức năng cơ bản của BHTN và cũng là điểm
khác biệt cơ bản của BHTN so với các chế độ BHXH khác.
Thứ năm, việc xác định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp khó khăn hơn so với các
chế độ BHXH khác. Sở dĩ như vậy vì ranh giới để phân định giữa có việc làm và không có
việc làm, giữa có thu nhập và không có thu nhập không rõ ràng, khó xác định và kiểm tra
trong thực tế. Vì vậy, việc xác định đúng các đối tượng đủ điều kiện để chi trả trợ cấp thất
nghiệp trong thực tế gặp nhiều khó khăn.
1.1.2. Ý nghĩa bảo hiểm thất nghiệp
BHXH - trong đó có BHTN cho NLĐ là một chế định rất quan trọng trong nền kinh tế
thị trường. Nó góp phần phát triển một xã hội hài hòa các lợi ích của NLĐ cũng như của
NSDLĐ, các chế độ của bảo hiểm thất nghiệp giúp cho việc kiểm soát nguồn nhân lực hiệu
quả, đưa người lao động bị thất nghiệp sớm ổn định công việc. Giảm nỗi lo lãng phí nguồn
nhân lực. Tận dụng nguồn nhân lực thất nghiệp hiệu quả đồng nghĩa với việc tận dụng tốt lực

lượng lao động vào sản xuất, giúp gia tăng sản xuất về hành hóa dịch vụ, phát triển nền kinh
15


tế cho nên hướng phát triển của nền kinh tế thị trường sớm hay muộn cũng cần thiết phải đưa
định chế này vào. Đây là một điểm mới và cần thiết, việc thực hiện BHTN góp phần đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo NLĐ, đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội. Đặc biệt trong nền kinh
tế thị trường thì tình trạng NLĐ mất việc làm là điều dễ xảy ra. BHTN sẽ tạo thế chủ động
trong việc hỗ trợ NLĐ trong thời gian mất việc làm và là cơ sở từng bước đáp ứng yêu cầu
hội nhập kinh tế, quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO.
Đối người lao động, việc thực hiện BHTN góp phần đáp ứng nguyện vọng của đông đảo
NLĐ, đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường thì tình trạng
NLĐ mất việc làm là điều dễ xảy ra. BHTN sẽ tạo thế chủ động trong việc hỗ trợ NLĐ trong
thời gian mất việc làm BHTN vừa giúp đỡ họ ổn định cuộc sống khi bị mất việc làm thông
qua khoản trợ cấp thất nghiệp, vừa tạo cơ hội để cho họ có thể tiếp tục tham gia thị trường lao
động. BHTN là một chế độ mới rất cần thiết đối với NLĐ trong nền kinh tế thị trường và có
tính nhân văn cao vì nó không những đảm bảo mức sống của chính NLĐ khi bị mất việc mà
còn là sự chia sẻ rủi ro của những NLĐ đang làm việc đối với người bị mất việc làm.
Đối với người sử dụng lao động, nhờ có chế độ BHTN nên khi những người lao động
trong doanh nghiệp bị mất việc làm, họ không phải bỏ ra một khoản chi phí lớn để giải quyết
chế độ cho người lao động. Nhờ vậy gánh nặng tài chính của doanh nghiệp được san sẻ, đặc
biệt trong những thời kỳ khó khăn, buộc phải thu hẹp sản xuất, nhiều người lao động thất
nghiệp. Với người sử dụng lao động, khi họ được đảm bảo tham gia bảo hiểm thất nghiệp cho
người lao động cũng chính là tạo ra một cơ hội cho họ đến gần hơn với người lao động, để
giữ lại cho mình người lao động có tay nghề, có kinh nghiệm. Người sử dụng lao động không
đảm bảo được các chế độ an sinh xã hội cho người lao động, họ sẽ mất đi người lao động làm
việc cho họ, từ đó không thể sản xuất và tạo ra thu nhập và lợi nhuận cho bản thân họ. Lúc
này các đối thủ cạnh tranh sẽ thừa cơ hội để thu hút người lao động, có tay nghề cao phía họ.
Hơn nữa, khi tham gia bảo hiểm thất nghiệp và biết rõ quyền được trợ cấp thất nghiệp, người
lao động sẽ yên tâm làm việc tạo ra năng suất và chất lượng trong quá trình sản xuất. Điều

này góp phần tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng sức lao động.
Đối với nhà nước, BHTN là một loại hình bảo hiểm tiến bộ không chỉ có ý nghĩa hỗ trợ
NLĐ khi mất việc làm mà còn có giá trị ổn định kinh tế - xã hội đối với đất nước. Nhờ có
16


BHTN ngân sách nhà nước sẽ giảm bớt chi phí khi nạn thất nghiệp gia tăng trong giai đoạn
khủng hoảng kinh tế, tạo sự chủ động về tài chính cho nhà nước. Nhờ được hỗ trợ khó khăn
khi mất việc làm, quan hệ giữa NLĐ với doanh nghiệp và Nhà nước bớt căng thẳng, các cuộc
bãi công, biểu tình cũng được hạn chế. Nhà nước nhờ đó giảm bớt các mối lo đối phó với sự
bất ổn gia tăng về chính trị - xã hội. Các tệ nạn xã hội và phạm tội do thất nghiệp cũng hạn
chế ở một mức độ nhất định. Đặc biệt đối với những nước phát triển theo cơ chế kinh tế thị
trường thì chế độ BHTN thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế, hạn
chế những mặt tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Bảo hiểm thất nghiệp còn là một
chính sách xã hội có ý nghĩa lớn. Nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ tạo sự ổn định về mặt
xã hội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội là do thiếu việc làm do con người
bị bần cùng hóa, thất nghiệp đi kèm với không thu nhập, mà con người thì bao giờ cũng có
nhu cầu về ăn, ở, mặc đi lại… đó là những nhu cầu tối thiểu trong cuộc sống. Khi người lao
động bị mất việc làm, thất nghiệp sẽ tác động rất lớn đến tinh thần và tâm lý của họ. Để ngăn
chặn và hạn chế hành vi tiêu cực xảy ra cho xã hội có lẽ không có biện pháp nào phát huy tác
dụng như chính sách trợ cấp thất nghiệp. Rõ ràng chính sách này người lao động sẽ yên tâm
phần nào về cuộc sống để tiến tới cải thiện đời sống của gia đình mình trong tương lai góp
phần ổn định xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị. Bảo hiểm
thất nghiệp có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị. Bảo hiểm thất nghiệp là động lực giúp người
lao động thấy được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với người lao động để họ yên tâm
sản xuất, góp phần ổn định chính trị đất nước.
Về mặt pháp lý, BHTN thể hiện tính ưu việt trong chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước ta. BHTN thể hiện tính ưu việt hơn so với trợ cấp thôi việc và mất việc ở chỗ người lao
động tham gia BHTN không chỉ được đảm bảo trợ cấp bằng tiền để trang trải cho cuộc sống
mà còn được giúp đỡ về mặt tinh thần, không phải lo lắng khi ốm đau, được hỗ trợ đào tạo

nghề và tìm việc. Tham gia BHTN còn có lợi cho người sử dụng lao động thể hiện ở chỗ:
trước đây khi chi trả trợ cấp thôi việc, mất việc người sử dụng lao động phải lập quỹ dự phòng
trợ cấp mất việc từ lợi nhuận của doanh nghiệp; chi trả trợ cấp thôi việc bằng chi phí đầu vào
và hạch toán vào giá thành, làm tăng chi phí cho sản xuất kinh doanh. Nay tham gia BHTN
NSDLĐ chỉ đóng góp 1% quỹ tiền lương của doanh nghiệp. Còn lại mọi chi trả trợ cấp cho
17


người lao động do cơ quan BHXH chi trả, ngành lao động, thương binh và xã hội chịu trách
nhiệm quản lý lao động thất nghiệp, đào tạo và giới thiệu việc làm cho người lao động. Do
đó, sự ra đời của BHTN đã tạo ra sự đồng bộ trong việc ban hành văn bản pháp luật.
1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp
Trên thế giới, vấn đề BHTN bắt đầu được ghi nhận trong các văn bản pháp lý của các
quốc gia kể từ sau cuộc đại cách mạng công nghiệp lần thứ 2 và cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX, khi mà khoảng thời gian này là sự bùng nổ của nạn thất nghiệp, sự phân hóa giai cấp,
tầng lớp sâu sắc. Quốc gia đầu tiên áp dụng và thực hiện chính sách pháp luật về BHTN là
vương quốc Anh bắt đầu thực hiện từ năm 1911, tiếp theo là Italia. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
thực hiện vào năm 1935, cộng hòa Pháp thực hiện năm 1958, Trung Quốc thực hiện năm
1986. Tính đến nay đã có hơn 70 quốc gia thực hiện chế độ BHTN. BHTN không chỉ là một
chính sách riêng của bất kỳ quốc gia nào mà nó còn được thừa nhận trong cộng đồng quốc
tế.
Tại Việt Nam, trước đây chúng ta theo trường phái Anh, Mỹ, Thụy Điển khi quy định
BHTN nằm trong hệ thống BHXH theo từ điển tiếng Việt “ BHTN được hiểu là sự “bảo đảm
những quyền và lợi ích cho người lao động, công nhân, viên chức khi không làm việc do bị
mất việc làm”. Các quan điểm trên chỉ mới đề cập BHTN như một chế độ trợ cấp về tài chính
cho người lao động khi bị mất việc làm, điều này đã bó hẹp BHTN như một chế độ BHXH
mà không làm rõ được hết vai trò quan trọng của BHTN trong thực tế là sự thúc đẩy, sự
chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp giảm thất nghiệp, tìm và tạo việc làm cho người lao động.
Sau nhiều năm thực hiện BHTN trong thực tiễn và đồng thời nhận được những ý kiến

đóng góp khác nhau từ những học giả, nhà nghiên cứu về lĩnh vực thất nghiệp. Nhà nước đã
có điều chỉnh mang tính đột phá khi chuyển toàn bộ chế độ BHTN quy định ở luật BHXH
năm 2006 sang Luật Việc làm 2013. Chúng ta đã tiếp thu và bước đầu áp dụng theo mô hình
BHTN của Nhật Bản khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013 đã định nghĩa BHTN là “ chế độ
nhằm bù đắp một phần lao động của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao
động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào quỹ BHTN”. Xét cho đến
cùng BHTN không phải là biện pháp giải quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị động, mà
18


BHTN có vai trò chủ động trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất
nghiệp, giúp người lao động nhanh chóng tìm được việc làm
Như vậy, có thể hiểu khái niệm pháp luật BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ về việc đóng góp và sử dụng quỹ BHTN, chi
trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho NLĐ bị mất việc làm và thực hiện các biện
pháp hỗ trợ nhằm đưa người thất nghiệp trở lại thị trường lao động và tìm được việc làm.
Pháp luật BHTN, kể từ khi xuất hiện đến nay, luôn phát huy tác dụng trong việc
tạo cơ sở pháp lý để các bên quan hệ BHTN thực hiện các nghĩa vụ đóng phí BHTN để
được hưởng chế độ khi bị mất việc làm. Đồng thời pháp luật BHTN luôn là hình thức bảo
hiểm bắt buộc, theo đó NLĐ và NSDLĐ khi đủ điều kiện bắt buộc phải tham gia đóng phí
vào quỹ BHTN, nhằm để tạo điều kiện vật chất và tinh thần cho NLĐ khi bị mất việc
làm không có thu nhập.
1.2.2. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Nguyên tắc của BHTN là khung pháp lý chung mang tính chất chủ đạo, định hướng và
chi phối toàn bộ các quy định pháp luật về BHTN. Vì BHTN là một phần không thể thiếu
trong chế độ an sinh – xã hội nên BHTN phải tuân theo những quy tắc chung của pháp luật
an sinh xã hội. Theo quy định tại Điều 41 Luật việc làm quy định các quy tắc về BHTN gồm
có:
Thứ nhất, bảo đảm sự chia sẻ rủi ro giữa người tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp là một phần không thể thiếu trong chế độ an sinh xã hội của bất

kỳ quốc gia nào và là một trong những nguyên tắc cực kỳ quan trọng của chế độ an sinh xã
hội là bảo đảm sự chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia, do đó nguyên tắc này cũng là
nguyên tắc của BHTN. Nguyên tắc này xuất phát từ sự tương trợ giữa người tham gia, đặt lợi
ích cộng đồng, tập thể lên lợi ích một cá nhân cụ thể hay nói cách khác là lấy số đông bù số
ít. Một nguyên tắc thể hiện rõ tính nhân văn xã hội
Theo nguyên tắc này, không phải bất cứ ai tham gia BHTN cũng được hưởng BHTN.
Nếu như vậy dường như có sự bất công khong công bằng đối với tất cả những người tham gia
và đóng bảo hiểm theo thời hạn quy định. Tuy nhiên đó chỉ làm một góc nhìn mang tính chất
“ngắn hạn”, không đảm bảo tính chất lâu dài. Khi người lao động gặp rủi ro và bị mất việc
19


làm thì BHTN như là chiếc phao cứu sinh giúp họ tạm ổn định cược sống trong một khoảng
thời gian nhất định. Mọi người tham gia đều phải ý thức được rằng càng nhiều người tham
gia thì gánh nặng đóng góp đới với từng người càng có cơ hội để giảm xuống. Ngược lại, khi
NLĐ gặp rủi ro, phần họ được hưởng từ đó mà có điều kiện để tăng lên. Chính vì vậy, việc
tham gia BHTN là điều kiện bắt buộc đối với không chỉ riêng NLĐ mà cả người sử dụng lao
động khu họ giao kết hợp đồng. Chỉ khi có sự chung tay và chia sẻ của một cộng đồng thì
BHTN mới thực sự hiệu quả
Thứ hai, mức đóng bảo hiểm thất nghiệp dựa trên cơ sở tiền lương của người lao động
Khác với các loại bảo hiểm dân sự hay thương mại thì bảo hiểm thất nghiệp mang tính
chất của chế độ an sinh – xã hội. Trong khi các loại bảo hiểm kia bảo đảm về tài sản thì bảo
hiểm thất nghiệp bảo đảm cho người lao động về vấn đề tài chính mà cụ thể phần thu nhấp.
Mức thu nhập được bảo hiểm chính là mức tiền lương hay mức tiền công hàng tháng do nhà
nước quy định thống nhất. Vấn đề tiền lương luôn là một vấn đề được quan tâm hàng đầu
trong bất kỳ hợp đồng lao động hay hợp đồng làm việc nào. Chỉ khi xác định rõ mức tiền
lương dựa trên tính chất công việc và khả năng của người lao động thì chúng ta mới có thể
quy định được mức đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Về cơ bản, mức đóng bảo hiểm thất nghiệp dựa trên cơ sở tiền lương của người lao động.
Nếu người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do nhà nước quy định thì

tiền lương hàng tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương theo ngạch, bậc và các khoản
phụ trách chức vụ và thâm niên công tác, còn đối với trường hợp NLĐ đóng theo mức do
người sử dụng lao động đề ra thì tiền lương đóng bảo hiểm thất nghiệp là tiền lương đã được
thống nhất trong hợp đồng lao động mà người lao động và người sử dụng lao động đã ký
trước đó.
Thứ ba, mức hưởng của bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian
đóng BHTN.
Nguyên tắc này dựa trên mối quan hệ giữa sự đóng góp và hưởng thụ của NLĐ, có đóng
thì mới có hưởng. Tuy nhiên cần phải có sự tương xứng về tỷ lệ đóng góp và hưởng thụ nhằm
tạo ra sự công bằng, hợp lý cho người lao động cũng như đảm bảo sự an toàn và ổn định của
quỹ BHTN tránh tình trạng nhà nước phải bù đắp và hỗ trợ quá nhiều. Nhà nước phải tính
20


toán như thế nào cho phù hợp để mức hưởng có thể đáp ứng được mức sống tối thiểu của
người lao động và tạo ra những điều kiện phù hợp và thuận lợi cho họ trong việc tìm kiếm
việc làm nhằm nhanh chóngo thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Nhà nước cũng phải làm sao
để cân đối giữa mức hưởng và thời gian hưởng không để tình trạng người lao động được
hưởng trợ cấp quá thấp trong khoảng thời gian ngắn vì nếu không họ sẽ gặp rất nhiều khó
khăn trong việc ổn định cuộc sống và nhanh chóng tìm được việc. Hay nếu người lao động
được hưởng trợ cấp cao trong thời gian dài thì sẽ lãng phí tiền của trong việc chi trả bảo hiểm
thất nghiệp cũng như sẽ sinh ra tâm lý ỷ lại và lười lao động của họ.
Ngoài ra, nguyên tắc này cũng có mối quan hệ khăng khít với nguyên tắc chia sẻ rủi ro,
lấy số đông bù số ít. Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ mang tính chất kinh tế thông qua các
khoản trợ cấp thất nghiệp mà nó còn mang tính chất xã hội sâu sắc, có sự chung tay góp sức
của cả cộng đồng nhằm giúp người lao động vượt qua khó khăn sau khi rơi vào tình trạng mất
việc làm
Thứ tư, việc bảo hiểm thất nghiệp phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, đảm bảo kịp thời
và đầy đủ quyền lợi của người tham gia.
Đối với bất kỳ người lao động nào họ ý thức được rằng một khi do rủi ro hay bất trắc

mà mất việc lafmt hì họ sẽ ngay lập tức rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính cũng như
trong việc cân bằng cuocj sống đồng thời chúng ta cũng không thể dự đoán trước khi nào rủi
ro sẽ đến với họ. Do vậy, các quy định về bảo hiểm thất nghiệp phải đảm bảo yếu tố kịp thời
lường trước được khả năng có thẻ xảy ra đới với người lao động. Các thủ tục trong việc tham
gia bảo hiểm thất nghiệp, điều kiện và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp phải đơn giản chính
xác, dễ dàng và đáp ứng đầy đủ cơ bản quyền lợi cho người lao động tránh để xảy ra tình
trạng thủ tục rườm rà, qua nhiều khâu gây khó khăn vă phải mất thời gian cho NLĐ.
Không những giúp NLĐ dễ dàng trong việc hưởng trợ cấp thất nghiệp, các quy định
phải làm thế nào để hỗ trợ NLĐ quay lại thị trường lao động một cách nhanh nhất và sớm có
việc làm. Các hoạt động như hỗ trợ tìm kiếm việc làm, hỗ trợ học nghề cần được quy định
mọt các cụ thể, hợp lý và dễ dàng cho người lao động tiếp cận và tìm hiểu.
Trên thực tế có rất nhiều tình trạng NLĐ có đủ các điều kiện để hưởng BHTN nhưng lại
không được hưởng vì những rào cản vướng mắc trong quá trình quản lý và thực hiện như
21


thiếu các thủ tục cần có, quá hạn hoàn thiện hồ sơ. Vì thế, Nhà nước và người sử dụng lao
động nên tạo những điều kiện thuận lợi nhất để giúp họ có thể hưởng các quyền lợi chính
đáng của minh khi tham gia vào chế độ BHTN
Thứ năm, quỹ BHTN được quản lý tập trung thống nhất, công khai minh bạch, đảm bảo
an toàn và được Nhà nước bảo hộ.
Theo nguyên tắc này thì Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền quản lý quỹ BHTN. Do
quỹ BHTN là quỹ tài chính tập trung, vì vậy, Nhà nước có vai trò chủ đạo và thống nhất trong
việc quản lý và sử dụng quỹ. Hoạt độngt hu chi và sử dụng quỹ sẽ được báo cáo thường xuyên
để nhà nước dễ dàng nắm bắt. Nhà nước cũng sẽ chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch hoạt
động xem xét mức hỗ trợ cho quỹ BHTN cũng như việc hỗ trợ quỹ BHTN để từ dó tạo ra sự
đồng bộ thống nhất trong trình quản lý và sử dụng quỹ. Bê cạnh đó, Nhà nước thiết lập một
hệ thóng cơ quan công quyền từ TW đến địa phương thống nhất trong việc quản lý và sử dụng
quỹ BHTN. Các kế hoạch thu chi của quỹ BHTN phải được công khai và báo cáo thường
xuyên đến nhà nước, việc sử dụng quỹ và việc đầu tư quỹ phải đảm bảo minh bạch và an toàn

cho quỹ BHTN, tránh để xảy ra trường hợp vỡ quỹ, gây ra những thiệt hại cho các bên tham
gia.
1.2.3. Nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp
Đối với mỗi quốc gia khi xây dựng hệ thống chính sách pháp luật về BHTN, đều cần
những nội dung cơ bản làm nền tảng. Các nội dung này xoay quanh các vấn đề về đối tượng
tham gia BHTN, điều kiện hưởng BHTN, các chế độ của BHTN, quỹ BHTN; thủ tục thực
hiện BHTN và tổ chức chính sách BHTN; xử lý vi phạm về BHTN.

 Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp
Trong vấn đề BHTN thì đối tượng tham gia là nội dung được quan tâm đầu tiên mang
tính chất bắt buộc nhằm xác định chủ thể đủ điều kiện tham gia vào BHTN. Đối với mỗi quốc
gia thì tuy vào tình hình xã hội – việc làm mà có những quy định khác nhau, có thể mở rộng
thêm cũng như bó hẹp đới tượng tham gia BHTN về cơ bản, đối tượng tham gia BHTN gồm
3 chủ thể là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước

* Về phía NLĐ
22


Theo Điều 2 Công ước số 44 của ILO về “Công ước về bảo đảm tiền trợ cấp cho người
thất nghiệp không tự nguyện” năm 1934, BHTN được áp dụng tới tất cả những NLĐ được trả
tiền công, tiền lương. Tuy vậy, tùy vào hoàn cảnh của mỗi quốc gia tham gia Công ước này
có thể đặt thêm những ngoại lệ về đối tượng tham gia BHTN như người giúp việc, người làm
việc tại nhà, lao động theo mùa vụ, hay những người công tác ổn định trong lĩnh vực công.
Không những vậy, một số quốc gia còn đặt điều kiện về độ tuổi tham gia BHTN, quốc
tịch hay thời hạn lao động để xác định đối tượng tham gia BHTN. Về độ tuổi thì BHTN
thường được áp dụng tới những người trong độ tuổi lao động. Tuy nhiên các quốc gia có
những quy định khá khác nhau về độ tuổi tham gia BHTN, thường độ tuổi này được tính từ
năm 16 tuổi đến năm 60, thậm chí ở Nhật Bản độ tuổi tham gia BHTN của NLĐ lên đến con
số 65, cao hơn nhiều so với các quốc gia khác, hay như Hàn Quốc, Nam Phi không đặt ra

yêu cầu về quốc tịch của NLĐ khi tham gia vào BHTN như Việt Nam và Trung Quốc đang
áp dụng.

* Về phía NSDLĐ:
Bên cạnh NLĐ, thì trong việc xây dựng pháp luật về BHTN, hầu hết các quốc gia cũng đưa
NSDLĐ vào là một trong những đối tượng tham gia BHTN giống như NLĐ. NSDLĐ tham gia
BHTN có thể là cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã đủ điều kiện theo pháp luật lao
động được phép sử dụng lao động. Tuy vậy, vai trò của NSDLĐ chỉ dừng lại ở việc đóng phí
BHTN vào quỹ BHTN, chứ không được hưởng các lợi ích từ BHTN như NLĐ.
Một chủ thể nữa cũng được xem xét là đối tượng tham gia BHTN, đó là nhà nước. Tuy
nhiên, mức độ tham gia của nhà nước vào BHTN ở các quốc gia là rất khác nhau. Việc nhà
nước tham gia đóng phí BHTN thường tập trung ở các quốc gia đang phát triển cũng như
bước đầu mới triển khai thực hiện chính sách BHTN như Việt Nam. Còn đối với những quốc
gia có nền kinh tế phát triển, BHTN được thực hiện lâu đời, nguồn quỹ dồi dào, thì nhà nước
không đóng phí mà chỉ đóng vai trò bảo trợ khi thiếu và quản lý quỹ.

 Điều kiện hưởng bảo hiểm thất nghiệp
Điều kiện hưởng BHTN là tổng thể các yêu cầu mà pháp luật đặt ra nhằm xác định đâu
là đối tượng được hưởng BHTN và đâu là đối tượng không được hưởng BHTN. Không phải
bất cứ NLĐ nào đã tham gia đóng BHTN sẽ nghiễm nhiên được hưởng BHTN khi họ mất
23


việc làm. Một NLĐ được hưởng BHTN thì chắc chắn họ phải là người tham gia BHTN, có
nghĩa vụ đóng phí BHTN hàng tháng trong một thời gian nhất định cho chính mình đồng
thời đáp ứng các yêu cầu về việc chấm dứt hợp đồng lao động, về việc nộp hồ sơ hưởng
BHTN, và khoảng thời gian chưa được tìm việc làm sau khi đã nộp hồ sơ trên. Còn NLĐ
tham gia BHTN thì chưa chắc họ đã là người được hưởng các chế độ của BHTN, vì họ có
thể thiếu một trong các điều kiện do pháp luật quy định như NLĐ đơn phương chấm dứt hợp
đồng trái pháp luật, hay không nộp hồ sơ hưởng TCTN đúng thời hạn quy định của luật...

Theo Công ước số 44 của ILO thì NLĐ chỉ được hưởng BHTN khi đáp ứng đủ các yêu
cầu đã được đặt ra ví du như về khả năng lao động và sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu
việc làm, về thời gian đóng, về nguyên nhân thất nghiệp, đã đăng ký tìm việc tại trung tâm
giới thiệu việc làm hoặc tại các cơ quan có thẩm quyền do nhà nước quản lý. Hay như tại Đan
Mạch, để NLĐ được hưởng TCTN thì họ phải đáp ứng đủ điều kiện như sau: NLĐ phải đóng
bảo hiểm ít nhất 52 tuần (tương ứng 1924 giờ làm việc) trong vòng 3 năm trước khi bị thất
nghiệp; NLĐ phải đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm lao động và phải sẵn sàng làm việc
khi được giới thiệu một công việc phù hợp; Không những vậy, việc thất nghiệp của NLĐ
không phải xuất phát từ việc tự ý rời việc, chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật hay
tranh chấp lao động khác. Hay tại Hoa Kỳ để được hưởng TCTN NLĐ phải đáp ứng đủ các
yêu cầu, gồm có: phải là người thất nghiệp theo luật định, phải lao động ổn định tối thiểu 6
tháng ở các ngành nghề quy định BHTN và có đủ các yêu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp như
về thời hạn đóng, lý do thất nghiệp do ở các bang hay liên bang quy định cụ thể [2]
Nhìn chung, để được hưởng BHTN thì NLĐ cần đáp ứng ít nhất các điều kiện về thời
gian tham gia BHTN; nguyên nhân thất nghiệp, thủ tực hương BHTN, khả năng lao động và
sẵn sàng làm việc khi được giới thiệu việc làm mới

 Các chế độ của bảo hiểm thất nghiệp
- Trợ cấp thất nghiệp
Trợ cấp thất nghiệp là việc NLĐ khi mất việc làm được hõ trợ một khoản tiền từ quỹ
BHTN sau khi đáp ứng đủ các điều kiện do pháp luật quy định. Các quy định về trợ cấp thất
nghiệp gồm các quy định về thời gian hưởng TCTN, mức hưởng và thủ tục hưởng

24


Mức hưởng TCTN về cơ bản được hiểu là tỷ lệ % trên mức lương bình quân của NLĐ
và biểu hiện thông qua một khoản tiền lấy từ quỹ BHTN. Mức hưởng trợ cấp thường phụ
thuộc và hai yếu tố, đó là cơ sở, mức đóng và thời gian đóng. Nếu NLĐ cơ sở mức đóng càng
cao và thời gian đóng càng lâu thì mức hưởng càng cao. Ở mỗi quốc gia họ đều có cách tính

tỷ lệ hưởng riêng, tuy nhiên trên tất cả đều phải đảm bảo mức sống tối thiểu cho NLĐ bị thất
nghiệp. Nguyên tắc cơ bản mà tất cả các quốc gia đều áp dụng đó là mức hưởng trợ cấp bao
giờ cũng phải thấp hơn mức thu nhập của người lao động trước khi bị mất việc làm cũng
không quá thấp nhằm tránh trường hợp NLĐ không đủ tiền để trang trải và ổng định cuộc
sống. Theo luật Bảo hiểm việc làm Nhật bản thì mức hưởng trợ cấp thất nghiệp giao động từ
50 – 80% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi thất
nghiệp. Đối với những người lao động từ 60 -64 tuổi thì mức hưởng dao động trong khoảng
45 – 80%. Mức trợ cấp tối thiểu là 1,668 yên/ngày và tối đa không quá 7,935 yên.
Tại Đức, họ quy định mức hưởng của người lao động còn phụ thuộc vào yếu tố con cái.
Nếu người lao động có con thì khi thất nghiệp tỷ lệ hưởng là 57%, còn nếu không có con thì
mức hưởng chỉ là 53%. Những người lao động thất nghiệp có con sẽ được hưởng cao hơn vì
họ cần nhiều chi phí hơn để lo cho cuộc sống gia đình, khi những đứa trẻ của họ còn nhỏ
không đủ khả năng chi trả cho cuộc sống. Hay như ở Hà Lan mức hưởng cho 2 tháng đầu là
75% trung bình của 12 tháng tiền lương trước khi thất nghiệp và 70% cho tháng hưởng thứ
3.[26]
Thời gian hưởng TCTN là khoảng thời gian mà NLĐ thất nghiệp nhận các khản trợ cấp
hàng tháng dưới dạng tiền mặc do quỹ BHTN chi trả. Đối với nhiều quốc gia thì việc quy
định thời gian hưởng TCTN đều dựa trên thời gian đóng BHTN, khả năng tài chính của quỹ
BHTN, tình hình chung của thị trường lao động – việc làm. Theo công ước số 168 của ILO
thì thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp có thể lên đến 26 tuần đối với một chu kỳ thất nghiệp
và 39 tuần trong mỗi giai đoạn 24 tháng. Thông thường thì trong khảng thời gian hưởng trợ
cấp giao động từ 12 – 16 tuần, một số nơi thậm chí có thể kéo dài hơn ví dụ như ở Mỹ có
một số bang thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp vượt qua con số 26 như bang Massachusetts
là 30 tuần, bang Montana là 28 tuần, hay như ở Cannada là 45 tuần hưởng trợ cấp thất nghiệp,
thậm chí ở Italia số tuần hưởng trợ cấp thất nghiệp có thể lên đến 78 tuần. ở Áo thì thời gian
25


×