Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân từ thực tiễn TAND huyện khoái châu, tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VŨ VĂN HẬU

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT
ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN
DÂN TỪ THỰC TIỄN TAND HUYỆN KHOÁI CHÂU,
TỈNH HƯNG YÊN

VŨ VĂN HẬU
2017-2019
HƯNG YÊN - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN
VŨ VĂN HẬU


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. PHẠM THU THỦY

HÀ NỘI - 2019

HƯNG YÊN - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan mọi kết quả trong đề tài này là công trình nghiên cứu của
riêng tôi và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình khoa học nào khác cho
tới thời điểm này.
Hà Nội, ngày…….tháng….….năm 2019
Tác giả luận văn

VŨ VĂN HẬU


LỜI CẢM ƠN

Để có được kết quả này, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành tới
Khoa Luật kinh tế cùng toàn bộ các cán bộ, giảng viên đã giảng dạy, hướng dẫn,
giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành bản luận văn.
Đặc biệt, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sỹ Phạm Thu
Thủy là giáo viên trực tiếp hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của TAND huyện Khoái
Châu, TAND tỉnh Hưng Yên đã tạo điều kiện cho em thu thập số liệu, những thông

tin cần thiết để hoàn thành luận văn.
Dù đã hết sức cố gắng, song chắc chắn luận văn không tránh khỏi những sai
sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy, cô để em
chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện luận văn đạt chất lượng tốt hơn!
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…….tháng….….năm 2019
Tác giả luận văn

VŨ VĂN HẬU


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................2
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1 ....................................................................................................................9
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI ..............................9
VÀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ........................................9
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai ...............................................................................9
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai ............................................................................9
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai .....................................................................15
1.1.3. Phân loại tranh chấp đất đai ............................................................................17
1.1.4. Nguyên nhân và hậu quả của tranh chấp đất đai .............................................18
1.2. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân ...........................22
1.2.1. Khái niệm giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án .....................................22
1.2.2. Sự cần thiết phải giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ..........................23
1.2.3. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai bằng Tòa án ...................................24
1.2.4. Các yếu tố đảm bảo cho hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai .....................26
1.3. Lý luận về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND

...................................................................................................................................29
1.3.1. Khái niệm về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
TAND ........................................................................................................................29
1.3.2. Đặc điểm pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
TAND ........................................................................................................................29
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ........................................................................................33
Chương 2 ..................................................................................................................34
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP HUYỆN VÀ


THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU,
...................................................................................................................................34
TỈNH HƯNG YÊN ..................................................................................................34
2.1. Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân ........................................................................................................34
2.1.1. Các quy định của pháp luật đất đai về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân ..............................................................................34
2.1.2. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về giải quyết tranh chấp đất đai
thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân ....................................................................40
2.1.3. Pháp luật tổ chức Tòa án về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền
của Tòa án nhân dân ..................................................................................................49
2.2. Thực tiễn thi hành về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên......................................................................................51
2.2.1. Tình hình giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân huyện Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên ................................................................................................51
2.2.2 Đánh giá hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên......................................................................................59
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................68
Chương 3. .................................................................................................................69

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TAND CẤP HUYỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TẠI TAND HUYỆN KHOÁI
CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN ....................................................................................69
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm
quyền của TAND ......................................................................................................69
3.1.1. Định hướng, yêu cầu hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
thuộc thẩm quyền của TAND ...................................................................................69


3.1.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của TAND .............................................................................................70
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai tại TAND huyện Khoái Châu ..............................................................................76
3.2.1. Tăng cường kiểm tra, giám sát giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND ........76
3.2.2. Nâng cao nghiệp vụ đội ngũ cán bộ Tòa án ....................................................77
3.2.3. Hướng dẫn cụ thể và thống nhất cho những trường hợp còn vướng mắc.......78
3.2.4. Cơ chế phối hợp trong giải quyết các tranh chấp đất đai ................................80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................82
KẾT LUẬN ..............................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................84


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

GCNQSDĐ


Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

LUẬT ĐẤT ĐAI Luật đất đai
QSDĐ

Quyền sử dụng đất

TCĐĐ

Tranh chấp đất đai

TAND

Tòa án nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, đất đai luôn luôn được coi là tài nguyên đặt biệt trong cuộc
sống của loài người. Trải qua nhiều thế hệ, mỗi tấc đất trở thành “tấc vàng”, vô
cùng quý giá, thiêng liêng – nó là điều kiện để tồn tại, phát triển của con người và
các sinh vật khác trên trái đất.
Dưới sự tác động của con người, xét dưới góc độ kinh tế thị trường, đất đai
trở thành hàng hóa đặc biệt. Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất

của xã hội. Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất chính. Trong công nghiệp,
đất đai là cơ sở, làm địa điểm để tiến hành những thao tác, những hoạt động sản
xuất kinh doanh. Trong bối cảnh hiện nay, đất đai ngày càng trở nên khan hiếm và
có vai trò quyết định đối với sinh kế của người dân. Chính vì vậy, chính sách của
các quốc gia đều tập trung vào điều chỉnh quy hoạch, sử dụng đất đai một cách hiệu
quả.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, chính sách pháp luật về đất đai của
Đảng và Nhà nước đã có nhiều thay đổi để phù hợp với từng giai đoạn phát triển
của xã hội ta. Những năm gần đây, quá trình đô thị hóa ở nước ta diễn ra mạnh mẽ
nên những hoạt động, tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất cũng khá nhiều
và mức độ ngày càng nghiêm trọng. Do nhận thức của người dân về sở hữu đất đai
không đồng nhất với quy định của pháp luật; vẫn còn tồn tại các phong tục, tập
quán truyền thống, hương ước, luật tục với những quy định lạc hậu về sở hữu đất
đai chưa được loại bỏ đã “ăn sâu, bám rễ” trong tiềm thức của một bộ phận dân
chúng vốn ít có điều kiện tiếp xúc với pháp luật. Trong tiềm thức của một bộ phận
dân chúng (đặc biệt là những người dân sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng
xa hoặc người dân có trình độ học vấn thấp) vẫn tồn tại quan niệm đất đai là của
ông cha, tổ tiên để lại. Hoặc cũng có một số người dân quan niệm rằng đất đai là
của Nhà nước nhưng khi Nhà nước đã giao cho sử dụng ổn định lâu dài và cấp giấy

1


chứng nhận quyền sử dụng đất thì là của họ. Chính vì nhận thức không đúng này
nên trong điều kiện kinh tế thị trường, đất đai ngày càng trở nên có giá thì tình trạng
đòi lại đất của ông cha ngày càng gia tăng. Tuy vậy, nhiều quy định còn thiếu thống
nhất, việc giải thích, hướng dẫn của các cơ quan chức năng còn chưa kịp thời. Nên
tình hình giải quyết tranh chấp đất đai của các cơ quan chức năng nói chung và Tòa
án nhân dân nói riêng trong những năm qua còn chậm trễ, không thỏa đáng, gây ra
tình trang xử đi xử lại, khiếu kiện dài và nhiều lần. Điều này ảnh hưởng không tốt

đến niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Khoái Châu là một huyện đồng bằng của tỉnh Hưng Yên. Diện tích đất tự
nhiên của toàn huyện tính đến năm 2017 là 13.097,59 ha, đây là một trong những
địa bàn có diện tích khá lớn của tỉnh. Quá trình đô thị hóa diễn ra ở Khoái Châu
cũng rất mạnh mẽ nên đất đai ở đây ngày càng có giá trị. Do vậy, ở Khoái Châu tình
trạng tranh chấp đất đai cũng rất nghiêm trọng. Trong đó phần lớn các vụ việc liên
quan đến bồi thường khi giải phóng mặt bằng, thu hồi đất, tranh chấp liên quan đến
chuyển nhượng quyền sử dụng đất… Có những vụ việc khiếu kiện kéo dài, hơn nữa
do số lượng án tăng, tính chất ngày càng phức tạp và nhiều nguyên nhân khác nhau
mà hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân còn bộc lộ những hạn chế nhất định như
án bị hủy, bị sửa vẫn còn, việc xét xử kéo dài gây ảnh hưởng đến cuộc sống của
người dân và các cơ quan, tổ chức khác.
Chính vì thực trạng như vậy, nên tác giả chọn đề tài “Pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân từ thực tiễn Tòa án
nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đất đai là tài nguyên quý giá của quốc gia chính vì vậy, ở Việt Nam cũng
như trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về đất đai nói chung và
chính sách pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai. Có thể kể đến như:
Đinh Văn Ninh (2010), Một trăm mười một câu hỏi - đáp về khiếu nại hành
chính, khiếu kiện hành chính, tranh chấp đất đai và tố cáo, NXB Chính trị quốc gia,

2


Hà Nội. Trong công trình của mình, tác giả đề cập đến các câu hỏi đã được thu thập
về khiếu nại hành chính, khiếu kiện hành chính, tranh chấp đất đai và tố cáo cùng
lời giải đáp để người đọc tiếp cận với các kiến thức về khiếu nại, khiếu kiện hành
chính và các tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật hiện hành.
Nguyễn Văn Dũng (2018), Bàn về mối quan hệ giữa toà án với cơ quan có

thẩm quyền tại địa phương trong giải quyết tranh chấp đất đai, Tạp chí Tòa án
nhân dân tối cao, số 22, tr12-33. Trong bài viết này, tác giả bàn về mối quan hệ giữa
Toà án nhân dân với cơ quan có thẩm quyền tại địa phương trong giải quyết tranh
chấp đất đai, đưa ra một số vướng mắc, hạn chế và kiến nghị, đề xuất giải pháp
nhằm góp phần tháo gỡ các vướng mắc, nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ giải
quyết các vụ án tranh chấp đất đai.
Nguyễn Quang Toản (2016), Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai qua
thực tiễn tại tỉnh Hải Dương, Luận văn Thạc sĩ, Viện Đại học Mở Hà Nội. Trong
luận văn này, tác giả đề cập đến các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai
đồng thời phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại tỉnh Hải Dương từ
đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai và
nâng cao hiệu quả áp dụng giải quyết tranh chấp đất đai tại tỉnh Hải Dương.
Đặng Hùng Võ, Nguyễn Văn Thắng, T&C Consulting (2013), Báo cáo Cải
thiện quản trị đất đai tại Việt Nam, Dự án của Ngân hàng Thế giới. Trong báo cáo
này, các tác giả tập trung nghiên cứu nhằm cung cấp phương tiện để hiểu rõ hơn các
điểm mạnh và hạn chế trong lĩnh vực đất đai ở Việt Nam, tạo sự đồng thuận về tình
hình quản trị đất đai trong nước, xác định các hành động ưu tiên cải thiện thể chế và
quy định pháp quy, thí điểm các cách tiếp cận mới để cải thiện quản trị đất đai ở
phạm vi lớn hơn. Báo cáo trình bày đánh giá các khía cạnh của quản trị đất đai cũng
như phân tích chính sách, các kết luận và khuyến nghị chính sách.
Nguyễn Ngọc Chung (2017), Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai từ thực tiễn giải quyết tại các Tòa án trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, Luận văn
Thạc sĩ, Viện Đại học Mở Hà Nội. Trong luận văn này, tác giả tìm hiểu và hệ thống

3


hóa lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND, phản ánh, phân tích thực
trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND tỉnh Bắc Giang. Từ những phân tích
và đánh giá về quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật, tác giả đề xuất

một số giải pháp về hoàn thiện pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai tại TAND và
nâng cao hiệu quả áp dụng về vấn đề này tại TAND tỉnh Bắc Giang.
Báo cáo tham luận “Thực trạng giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án nhân
dân – Kiến nghị và giải pháp” của TS. Nguyễn Văn Cường và cử nhân Trần Văn
Tăng, Viện khoa học xét xử, Tòa án nhân dân tối cao tại hội thảo “Tình trạng tranh
chấp và khiếu kiện đất đai kéo dài: Thực trạng và giải pháp”, ngày 08 – 09 tháng
10 năm 2008 tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.
Bài viết “Giải quyết tranh chấp đất đai bằng tòa án qua thực tiễn tại một địa
phương” của Mai Thị Tú Oanh đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số
08/2009;...
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác của các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước về vấn đề tranh chấp đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai
nhưng với đề tài của mình, tác giả tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn về giải
quyết tranh chấp đất đai với thẩm quyền của TAND thông qua một địa bàn cụ thể là
TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp đất
đai và lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
TAND, làm rõ các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của TAND để thấy được ưu điểm và bất cập của hệ thống pháp luật về
vấn đề này, đặc biệt thông qua việc phản ánh, phân tích thực tiễn thi hành tại TAND
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn,
luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh

4


chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND cũng như giải pháp nâng cao hiệu quả
thực hiện tại TAND huyện Khoái Châu trong những năm tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung vào các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu về lý luận chung về tranh chấp đất đai, giải quyết tranh chấp đất
đai tại TAND và về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
TAND.
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp đất
đai thuộc thẩm quyền của TAND.
- Phản ánh, phân tích và đánh giá thực trạng vấn đề giải quyết tranh chấp đất
đai thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện thông qua thực tiễn giải quyết của
TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
- Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về vấn đề này ở TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và thực tiễn thực hiện tại
TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu các quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và thực tiễn thực hiện tại
TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Phạm vi về không gian: Tòa án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2013 đến nay.

5


5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chung nhất là phương pháp duy vật
biện chứng và phương pháp duy vật lịch sử. Đây là phương pháp luận chung nhất
trong nghiên cứu khoa học nói chung và nghiên cứu pháp luật nói riêng.
Phương pháp duy vật biện chứng được dùng để nghiên cứu các vấn đề pháp
luật về đất đai trong mối liên hệ với các ngành luật khác, cụ thể hơn là vấn đề về
thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của TAND. Từ đó, có thể rút ra được bản
chất của vấn đề để có thể có được những kết luận khoa học.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu các vấn đề về pháp
luật giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND trong các thời kì lịch
sử để nhận thấy sự kế thừa, phát triển và hướng tới khắc phục những vướng mắc
của pháp luật và hoàn thiện pháp luật hơn.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: Số liệu được thu thập từ các nguồn tài liệu
thứ cấp (báo cáo, số liệu thống kê của TAND huyện Khoái Châu, UBND, Viện
Kiểm sát…) về các vụ việc giải quyết tranh chấp đất đai trên địa bàn huyện Khoái
Châu được thực hiện từ năm 2013 đến nay để có thể có những phản ánh thực trạng
về vấn đề giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND một cách xác
thực nhất.
- Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu thập được xử lý bằng phần mềm
excel.
- Phương pháp phân tích: Các số liệu thu thập, các tài liệu khác sẽ được tác
giả phân tích trên cở sở phương pháp duy vật biện chứng và phương pháp duy vật
lịch sử để đưa ra nhận định lô gic và khoa học, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp.

6


- Phương pháp thống kê: Xử lý số liệu thu thập được bằng phương pháp này,
đồng thời để tài tổng hợp được những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân.

- Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh số liệu thực
tiễn qua các mốc thời gian đồng thời so sánh quy định pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân qua các giai đoạn khác nhau
của lịch sử, của địa phương khác trong cả nước và rút ra các kết luận, nhận định phù
hợp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài luận văn “Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm
quyền của TAND và thực tiễn thi hành tại TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng
Yên” có những đóng góp khoa học và thực tiễn nhất định. Với mục tiêu nghiên cứu
của đề tài và kết quả khi đạt được thì đề tài sẽ góp phần tìm hiểu và hệ thống hóa
các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai nói chung
và pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND nói riêng.
Mặt khác, đề tài còn phản ảnh, phân tích và đánh giá các quy định của pháp
luật hiện hành về vấn đề này thông qua thực tiễn thực hiện tại TAND huyện Khoái
Châu, tỉnh Hưng Yên. Từ đó, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của TAND và nâng cao
hiệu quả thực thi tại TAND huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của
luận văn gồm ba chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tranh chấp đất đai và lý luận pháp
luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân

7


Chương 2: Quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và thực tiễn thi hành tại Tòa án
nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai

thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện và nâng cao hiệu quả thực hiện tại Tòa
án nhân dân huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI THUỘC THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Đất đai là một tài sản vô cùng quý giá đối với bất kỳ quốc gia nào và trong
một xã hội luôn tồn tại những mâu thuẫn bởi mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là
động lực để phát triển xã hội. Chính vì vậy, tranh chấp đất đai là hiện tượng xã hội
xảy ra ở bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào trong lịch sử. Tranh chấp đất đai phát
sinh manh nha từ những bất đồng, mâu thuẫn giữa những người sử dụng đất với
nhau hoặc giữa họ với tổ chức, cá nhân khác về quyền và nghĩa vụ hay lợi ích trong
quá trình quản lý, sử dụng đất. Ngoài ra, còn tồn tại mâu thuẫn giai cấp đối kháng
không thể điều hoà được, đó là những tranh chấp đất đai mang “màu sắc” chính trị
thể hiện thành cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp sở hữu đất đai và các tư liệu sản
xuất chủ yếu khác của xã hội (giai cấp thống trị) với giai cấp lao động không có tư
liệu sản xuất phải đi làm thuê (giai cấp bị thống trị). Việc giải quyết triệt để các
tranh chấp đất đai dạng này được thực hiện bởi những cuộc cách mạng xã hội.
Thuật ngữ “tranh chấp đất đai” hiện được sử dụng phổ biến trong đời sống, xã hội
để chỉ những bất đồng, những “điểm nghẽn” trong quản lý và sử dụng đất. Tuy
nhiên, xét dưới góc độ học thuật thì tranh chấp đất đai là gì?.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co
nhau cái không rõ thuộc về bên nào; 2. Bất đồng, trái ngược nhau”1. Như vậy, theo


1

Nguyễn Như Ý (2009), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội, tr80

9


ngôn ngữ học, tranh chấp được hiểu là những bất đồng, trái ngược nhau giữa hai
hoặc nhiều người (hoặc nhiều bên) trong quan hệ xã hội. Trên thực tế, tranh chấp
xảy ra ở nhiều lĩnh vực của đời sống, xã hội với những loại hình rất phong phú, đa
dạng.
Trải nhiều giai đoạn với những chính sách đất đai khác nhau, hiện tượng
TCĐĐ đều được pháp luật chính thức ghi nhận và quy định việc giải quyết. Tuy
nhiên, cho đến trước khi Luật Đất đai 2003 ra đời, thuật ngữ “TCĐĐ” chưa một lần
được chính thức giải thích, mà chủ yếu là chỉ được “hiểu ngầm” qua các quy định
của pháp luật về giải quyết TCĐĐ, quy định về giải quyết các tranh chấp khác có
liên quan đến QSDĐ trong các đạo luật Luật Đất đai qua các thời kỳ và trong các
văn bản pháp luật có liên quan của các cơ quan nhà nước.
Luật Đất đai năm 2003 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26/11/2003, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2004 (thay thế Luật Đất đai năm 1993; Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật Đất đai năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất
đai năm 2001) lần đầu tiên đã định nghĩa: “Tranh chấp đất đai là tranh chấp về
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất
đai” 2. Theo khái niệm này, đối tượng tranh chấp trong TCĐĐ là quyền và nghĩa
vụ của NSDĐ.
Căn cứ quy định tại các Điều 105, 106 và 113 Luật đất đai năm 2003 thì
quyền của người sử dụng đất bao gồm 02 nhóm:

Nhóm thứ nhất, đó là những quyền chung của người sử dụng đất đã được quy
định ở Điều 105 Luật đất đai. Theo các Điều luật này, thì người có quyền sử dụng
đất hợp pháp có quyền khai thác công dụng và hiệu quả của đất. Họ được hưởng
thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất được Nhà nước hỗ trợ (thông qua việc
hưởng lợi từ các công trình Nhà nước); Nhà nước hướng dẫn, giúp đỡ trong việc cải

2

Khoản 26, Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai năm 2001

10


tạo, bồi bổ đất; đồng thời được Nhà nước bảo hộ quyền sử dụng đất khi bị người
khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình.
Nhóm thứ hai, đó là những quyền chung của người sử dụng đất đã được quy
định ở Điều 106, Điều 113 Luật đất đai. Theo đó, người có quyền sử dụng đất được
thực hiện các hành vi dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình,
đó là quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho
quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất;
được quyền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Bên cạnh các quyền thì người có quyền sử dụng đất còn phải tuân thủ đầy đủ
các nghĩa vụ chung được quy định tại các Điều 107, Điều 113 Luật đất đai.
Theo Giáo trình Luật đất đai của Trường Đại học Luật Hà Nội thì: “Tranh
chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và
nghĩa vụ giữa các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai”3Như vậy, có
thể hiểu khi có tranh chấp về những quyền và nghĩa nêu trên thì những tranh chấp
đó là tranh chấp về đất đai.
Kế thừa quy định đó Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận: “Tranh chấp đất đai là
tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong

quan hệ đất đai” 4.
Qua những quy định nêu trên, có thể rút ra khái niệm về tranh chấp đất đai
như sau: Tranh chấp đất đai là sự bất đồng, mâu thuẫn hay xung đột về mặt lợi ích,
về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ đất đai trong quá trình
quản lý và sử dụng đất đai.
Như vậy, trong khái niệm TCĐĐ có ba điểm cần làm rõ, cụ thể:

3

Trần Quang Huy (2008), Giáo trình Luật Đất đai, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an

nhân dân, Hà Nội.
4

Khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai năm 2013

11


Thứ nhất, TCĐĐ được nhận thức ở đây không chỉ trong quá trình sử dụng
đất đai, mà còn bao gồm cả quá trình quản lý đất đai. Việc nhận thức như vậy là
hoàn toàn phù hợp với xu hướng Nhà nước đang ngày càng mở rộng quyền cho
người sử dụng đất và các cơ quan Nhà nước được giao quản lý đất đai nếu không
tuân thủ pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng có
thể bị người sử dụng đất khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại chứ không còn đơn
thuần là mệnh lệnh hành chính một chiều.
Thứ hai, cần làm rõ TCĐĐ ở nước ta chính là tranh chấp quyền sử dụng đất
hay bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh chấp liên quan đến
quyền sử dụng đất? Về nội dung này, trong khoa học pháp lí hiện nay còn tồn tại hai
quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, TCĐĐ chỉ là tranh chấp về quyền sử dụng đất.
Theo đó, TCĐĐ không xác định được là tranh chấp tổng thể các quyền và nghĩa vụ
hay chỉ là tranh chấp từng quyền và nghĩa vụ đơn lẻ của người sử dụng đất do pháp
luật đất đai quy định, hay bao gồm cả tranh chấp những quyền và nghĩa vụ mà
người sử dụng đất có được khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác. Bên cạnh
đó, chủ thể tranh chấp vốn được gọi là “hai hay nhiều bên” cũng không được xác
định rõ ràng là chỉ bao gồm người sử dụng đất hay là tất cả các chủ thể có liên quan
đến quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất trong quan hệ TCĐĐ. Chính sự chung
chung này đã khiến cho nội dung của TCĐĐ nhiều lúc được mở rộng tối đa ở mức
độ có thể. Vì vậy, trường phái có quan điểm này cho rằng: Việc mở rộng khái niệm
TCĐĐ trong điều kiện của nước ta hiện nay là chưa hợp lý vì xuất phát từ chế độ sở
hữu toàn dân đối với toàn bộ đất đai mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu thì người
sử dụng đất chỉ có quyền sử dụng đối với đất đai. Vì vậy, cái mà họ tranh chấp khi
TCĐĐ chỉ có thể là quyền sử dụng đất. Mặt khác, các thuật ngữ TCĐĐ và tranh
chấp quyền sử dụng đất đã được sử dụng như những thuật ngữ thay thế nhau kể từ
khi có Luật Đất đai năm 1987 đến nay mà không có sự phân biệt. Hơn nữa, các
tranh chấp có liên quan đến quyền sử dụng đất của người sử dụng đất cũng đã từng
được quy định cụ thể trong một số văn bản hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết các

12


tranh chấp liên quan đến đất đai với tên gọi là tranh chấp liên quan đến quyền sử
dụng đất chứ không phải TCĐĐ một cách chung chung 5.
Theo đó, họ cho rằng, định nghĩa TCĐĐ theo Khoản 24, Điều 3 Luật Đất đai
năm 2013 do có nội hàm rất rộng nên đã gây nhiều cách hiểu không chính xác. Do
đó, TCĐĐ cần được hiểu là tranh chấp quyền sử dụng đối với diện tích đất cụ thể
giữa các chủ thể trong hoạt động quản lý, sử dụng đất. Còn các dạng tranh chấp
khác, đều được hiểu là tranh chấp liên quan đến đất đai và được giải quyết bởi cơ
quan Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự, mà không có sự ràng buộc với những quy

định về giải quyết tranh chấp trong pháp luật đất đai.
Quan điểm thứ hai, nhận định TCĐĐ bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng
đất và các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, bởi: Trong pháp luật đất đai,
trước khi Luật Đất đai năm 2003 được thông qua và có hiệu lực thi hành thì khái
niệm TCĐĐ hầu như chưa được ai đề cập một cách chính thống và giải thích cụ thể.
Mặc dù vậy, hiện tượng TCĐĐ trong xã hội được pháp luật ghi nhận và quy định
việc giải quyết. Luật đất đai 2003 lần đầu tiên ghi nhận khái niệm TCĐĐ. Kế thừa
quy định đó Khoản 24 Điều 3 Luật Đất đai năm 2013 ghi nhận: “Tranh chấp
đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều
bên trong quan hệ đất đai”. Vậy, đối tượng tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất. Nghĩa là, bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và các tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
Đồng thời, xem xét ở góc độ thực tiễn xét xử, ngành tòa án ở nước ta vẫn
thống kê các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất vào mục tranh chấp đất đai
nói chung. Bên cạnh đó, Thông tư liên tịch số 01 ngày 03/01/2002 hướng dẫn về
thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử
dụng đất sử dụng thuật ngữ khác là “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng

5

Nguyễn Văn Luật, Tưởng Duy Lượng (2011), Cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả

giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất tại Tòa án nhân dân, Đề tài khoa học cấp bộ, tr24.

13


đất” thuộc thẩm quyền của Toà án. Theo đó các tranh chấp liên quan đến quyền sử
dụng đất thuộc thẩm quyền của Toà án bao gồm:
- Tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất;

- Tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại
quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng
đất;
- Thừa kế quyền sử dụng đất;
- Tranh chấp về tài sản gắn liền với việc sử dụng đất.
Vậy, thuật ngữ “các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất” là một
thuật ngữ có nội hàm rất rộng, bao gồm cả tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài
sản gắn liền với đất. Theo suy luận logic thì tranh chấp về quyền sử dụng đất sẽ bao
gồm ba loại: tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng đất (thực chất là tranh
chấp quyền sử dụng đất hay cụ thể hơn là kiện đòi đất đang bị người khác chiếm giữ,
tranh chấp mốc giới); tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
cho thuê lại quyền sử dụng đất và thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị
quyền sử dụng đất; tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Không thể phủ nhận rằng,
ở mỗi quan điểm đều được lập luận dựa trên những căn cứ nhất định. Việc hiểu và
vận dụng “tranh chấp đất đai” bao gồm cả tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất là hợp lý cả về vấn đề logic ngôn ngữ và thực
tiễn áp dụng pháp luật trong giai đoạn hiện nay hơn cả.
Thứ ba, cần phân biệt TCĐĐ và khiếu nại liên quan đến đất đai. “Khiếu nại”
được quy định và điều chỉnh tại Luật Khiếu nại tố cáo, còn “tranh chấp đất đai” lại
được quy định và điều chỉnh tại Luật đất đai. Mặc dù Luật Đất đai cũng có quy định
về khiếu nại nhưng ở phạm vi hẹp là “khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính về quản lý đất đai”6. Khiếu nại thông thường xuất phát từ một mối quan
hệ không bình đẳng giữa cơ quan hành chính Nhà nước là cơ quan quản lý. Cơ quan
6

Điều 204, Luật Đất đai 2013

14



Nhà nước có quyền ban hành các quyết định hành chính có hiệu lực bắt buộc mọi cá
nhân, tổ chức phải thi hành. Cá nhân, tổ chức có nhiệm vụ chấp hành quyết định
hành chính đó nhưng đồng thời cũng có quyền khiếu nại với cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền. Ngược lại, tranh chấp giữa hai cá nhân hoặc cá nhân với tổ chức là sự
tranh chấp giữa hai chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ trước pháp
luật. Khi tranh chấp xảy ra thì người bị phía bên kia vi phạm có thể yêu cầu cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền đề nghị người có hành vi vi phạm chấm dứt hành vi vi
phạm đó, khôi phục lợi ích cho mình, hoặc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm
đó gây ra. Như vậy, có thể thấy sự khác biệt về bản chất giữa TCĐĐ và khiếu nại,
trong đó những tranh chấp mang tính dân sự và cần phải được giải quyết theo các
quy định của pháp luật về dân sự, ngược lại khiếu nại là “tranh chấp” có tính chất
hành chính.
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai có những đặc điểm chung của tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại, tranh chấp dân sự… đó là sự mâu thuẫn, bất đồng quan điểm
nhưng lại có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, chủ thể của tranh chấp đất đai không phải là chủ sở hữu đất đai.
Do tính đặc thù của chế độ sở hữu đất đai ở nước ta: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu. Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân (gọi chung là người sử dụng đất) sử dụng ổn định lâu dài hoặc
công nhận quyền sử dụng đất ổn định lâu dài của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất. Vì vậy, người sử dụng đất chỉ có thể là chủ thể quản lý đất đai hoặc
chủ thể sử dụng đất.
Thứ hai, do tính đặc thù của chế độ sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta nên
đối tượng của tranh chấp đất đai chỉ giới hạn trọng phạm vi tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ trong quản lý, sử dụng đất đai. Điều này có nghĩa là pháp luật chỉ thừa
nhận và giải quyết các tranh chấp về quản lý đất đai hoặc tranh chấp về sử dụng đất.
Các tranh chấp về quyền sở hữu đất đai như tranh chấp về đòi lại đất trước đây đã

15



hiến, tặng cho Nhà nước; tranh chấp về đòi lại đất mà Nhà nước đã chia cấp cho
người nông dân trong cải cách ruộng đất; tranh chấp về đòi lại đất trước đây đã góp
vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất để làm ăn tập thể nay hợp tác xã, tập đoàn sản
xuất bị giải thể v.v... sẽ không được thừa nhận và không xem xét giải quyết.
Thứ ba, trên thực tế, đất đai được sử dụng vào các mục đích khác nhau.
Quan hệ đất đai liên quan đến lợi ích của nhiều đối tượng trong xã hội: Nhà nước,
cộng đồng dân cư, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cơ sở tôn giáo, tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài sử dụng đất tại Việt Nam. Do đó,
tranh chấp đất đai phát sinh không chỉ liên quan đến lợi ích của một bên mà còn liên
quan đến lợi ích của nhiều bên. Vì vậy, tranh chấp đất đai nếu không giải quyết
nhanh chóng, dứt điểm, kịp thời thì sẽ gia tăng sự phức tạp. Trong vài năm trở lại
đây, xuất hiện ngày càng nhiều các vụ tranh chấp đất đai với tính chất phức tạp, kéo
dài thậm chí có thể dẫn đến vi phạm hình sự.
Thứ tư, quan hệ đất đai có liên quan đến những quan hệ xã hội khác thuộc
phạm vi điều chỉnh của một số đạo luật như Bộ luật dân sự, Luật xây dựng, Luật
nhà ở, Luật bảo vệ môi trường, Luật kinh doanh bất động sản, Luật bảo vệ và phát
triển rừng, Trên thực tế, TCĐĐ xảy ra liên quan đến nhà ở, công trình xây dựng,
cây cối và vật kiến trúc khác, nên khi giải quyết TCĐĐ, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không chỉ áp dụng Luật đất đai mà còn áp dụng các đạo luật khác có liên
quan để xem xét, giải quyết.
Thứ năm, tranh chấp đất đai có khả năng lôi kéo nhiều người, gây bất ổn
chính trị, mất ổn định xã hội. Đặc biệt là tranh chấp đất đai giữa các dòng họ, tài sản
chung khác... thuộc quyền sử dụng của nhiều chủ thể khiến cho việc giải quyết
tranh chấp rất khó khăn, dẫn đến việc các bên “tự giải quyết” tranh chấp một cách
manh động theo kiểu “xã hội đen”.... Điều này làm cho tính chất tranh chấp đất đai
rất phức tạp, việc giải quyết gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và kéo dài.
Thứ sáu, đất đai có vai trò quan trọng trên các khía cạnh chính trị, kinh tế,
xã hội; khi mà tranh chấp đất đai xảy ra nếu không giải quyết kịp thời thì có thể


16


phát triển thành vấn đề chính trị - xã hội như dẫn đến hận thù nhau, gây mất ổn định,
bất đồng trong nội bộ nhân dân, gây rối trật tự an ninh xã hội... Do vậy, về bản chất
tranh chấp đất đai chứa đựng ba phương diện chủ yếu: Phương diện quyền chi phối
đất đai, phương diện lợi ích, phương diện chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không phải
bất kỳ sự tranh chấp đất đai nào cũng chứa đựng cả ba phương diện trên, trong
những điều kiện cụ thể các phương diện đó có thể chuyển hóa lẫn nhau.
1.1.3. Phân loại tranh chấp đất đai
Nhóm thứ nhất: Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất. Đây là
tranh chấp phát sinh trong quá trình sử dụng đất không liên quan đến các giao dịch
về đất đai và tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất. Về bản chất khi giải quyết tranh
chấp này tòa án phải xác định quyền sử dụng đất thuộc về ai. Các tranh chấp phổ
biến trong trường hợp này là tranh chấp về ranh giới đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà
nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị trùng diện tích, người sử
dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất
hoặc chủ cũ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất
cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng.
Nhóm thứ hai: Tranh chấp liên quan đến các giao dịch về quyền sử dụng
đất (chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất, cho thuê,
cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng
đất…). Các tranh chấp này có thể là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng,
công nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu…Bản chất của
tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Thời hiệu
khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện
đối với các tranh chấp về hợp đồng nói chung.
Riêng đối với vụ án ly hôn khi các bên đương sự có tranh chấp quyền sử
dụng đất trong việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng, quan điểm của

chúng tôi cho rằng đây không phải thuộc loại quan hệ tranh chấp đất đai. Trong
quan hệ ly hôn, Tòa án giải quyết quan hệ trọng tâm là quan hệ mang tính nhân thân,

17


×