Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai từ thực tiễn huyện ứng hòa, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT
ĐAI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KIM LÀNH

HÀ NỘI - 2018

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ KIM LÀNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THỊ HƯƠNG LAN


HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và có kế thừa
các công trình nghiên cứu trước đó có liên quan đến đề tài.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kim Lành


LỜI CẢM ƠN
Trong hơn 2 năm học tập, nghiên cứu chương trình cao học Luật Kinh tế tại
Viện Đại học Mở Hà Nội, chúng tôi đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới, những
kinh nghiệm quý báu, là hành trang cho chúng tôi tiếp tục thực hiện tốt hơn nhiệm
vụ của mình.
Luận văn này là một phần kết quả quan trọng trong quá trình đào tạo cao
học. Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu
Viện Đại học Mở, các Thầy, Cô giáo trong và ngoài Viện Đại học Mở đã tận tình
giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn TS. Phạm Thị Hương Lan – người đã hướng dẫn tôi trong
suốt quá trình làm Luận văn. Cô giáo đã cho tôi thêm nhiều kiến thức về khoa học,
cách tiếp cận và nghiên cứu về giải quyết khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong

lĩnh vực đất đai cũng như giúp tôi rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan của UBND huyện Ứng Hòa,
thành phố Hà Nội giúp đỡ để tôi có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập trong suốt
thời gian qua.
Mặc dù tôi đã có cố gắng trong quá trình làm luận văn, song không thể tránh
khỏi những hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý và giúp đỡ quý
báu của các Thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng

năm 2018

Tác giả luận văn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Nguyên nghĩa

Ký hiệu

1

Giải quyết khiếu nại

GQKN

2


Luật Đất đai

LĐĐ

3

Quyền sử dụng đất

QSDĐ

4

Sử dụng đất

SDĐ

6

Ủy ban nhân dân

UBND


MỤC LỤC
MỤC LỤC
6
MỞ ĐẦU
1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT

KHIẾU NẠI TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI
7
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
7
1.1.1. Khiếu nại và khiếu nại hành chính
7
1.1.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
10
1.1.3. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
14
1.1.4. Vai trò của giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
15
1.2. Lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
18
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
18
1.2.2. Nội dung pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
24
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN Ở HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
35
2.1. Pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
35
2.1.1. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai trước khi có Luật Khiếu nại năm 2011
35
2.1.2. Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai từ khi có Luật Khiếu nại năm
2011 đến nay
40
2.1.3. Đánh giá chung pháp luật giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai

44
2.2. Tổ chức áp dụng pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai tại
huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
50
2.2.1. Khái quát chung về huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
50
2.2.2. Tình hình khiếu nại trong lĩnh vực đất đai ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội
54
2.2.3. Áp dụng pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai ở huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội
58
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
69
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
69
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên nền tảng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
69
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên cơ sở tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, thực hiện công bằng xã hội
70
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên cơ sở đảm bảo tính hệ thống,
đồng bộ
70
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai theo hướng mở
rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
71
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội

73


3.2.1. Rà soát, hệ thống hóa thường xuyên và sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm
pháp luật giải quyết khiếu nại đất đai
73
3.2.2. Đổi mới phương thức thực hiện quy trình xây dựng ban hành văn bản quy
phạm pháp luật giải quyết khiếu nại
77
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học pháp lý và công tác bồi
dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức liên quan đến hoạt động xây dựng pháp
luật giải quyết khiếu nại
78
3.2.4. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của quyền khiếu nại của công dân, của
công tác giải quyết khiếu nại, huy động sức mạnh đồng bộ của các cơ quan, tổ chức
trong việc giải quyết khiếu nại
79
3.2.5. Tập trung giải quyết dứt điểm các khiếu nại kéo dài, phức tạp, kiên quyết xử lý
cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật giải quyết khiếu nại
81
3.2.6. Tăng cường đối thoại với người dân trong giải quyết khiếu nại
82
3.2.7. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công tác chỉ đạo, điều hành
việc giải quyết khiếu nại, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc
giải quyết khiếu nại
83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài sản,
nguồn lực to lớn của đất nước, là nguồn sống của nhân dân. Với vị trí, vai trò quan
trọng như vậy, trong những năm qua, đất đai đã góp phần quan trọng thúc đẩy kinh
tế, xã hội của nước ta phát triển mạnh mẽ, cải thiện đáng kể đời sống của nhân dân.
Với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về đất đai, đặc biệt là Luật Đất
đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003, mới đây nhất là
Luật Đất đai năm 2013, hệ thống quy phạm pháp luật về đất đai đã từng bước được
hoàn thiện, cơ bản đáp ứng yêu cầu công tác quản lý nhà nước về đất đai trong các
thời kỳ, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh
và tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, hộ gia đình, cơ quan, tổ chức trong quản lý,
sử dụng đất đai.
Quản lý nhà nước về đất đai là một hoạt động khó khăn, phức tạp, nhất là
đối với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta - một đất nước còn non trẻ nhưng đã phải
tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đầy gian khổ,
hy sinh; sau gần 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, những tàn dư của thời kỳ tập
trung quan liêu bao cấp vẫn là một trở ngại không nhỏ đối với công tác quản lý đất
đai. Chính vì vậy, trong thực tiễn quản lý đất đai chắc chắn khó tránh khỏi những
bất đồng về quan điểm, quyền, lợi ích giữa một bên là cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai và một bên là người sử dụng đất. Mặt khác, cũng chính vì vị trí, vai trò là
“tài nguyên đặc biệt của quốc gia” nên đất đai ngày càng có giá trị về kinh tế, đặc
biệt là ở những đô thị lớn hay những nơi đã, đang và chuẩn bị triển khai dự án xây
dựng kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế, xã hội... Đây cũng là một trong những
nguyên nhân dẫn đến ngày càng có nhiều vụ việc tranh chấp, khiếu nại liên quan
đến đất đai.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, trong những năm

1



qua, công tác giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành
phố Hà Nội có những chuyển biến tích cực, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản
lý nhà nước về đất đai, đồng thời góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, xã hội của địa phương.
Bên cạnh đó, công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa
bàn huyện Ứng Hòa cũng còn những hạn chế như: một số vụ việc chưa được giải
quyết kịp thời hoặc được giải quyết nhưng chưa đúng quy định của pháp luật; tinh
thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực hiện nhiệm vụ giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai chưa cao; việc giải quyết khiếu nại, giải
quyết tranh chấp về đất đai có nơi làm chưa triệt để, còn có biểu hiện ngại khó,
ngại va chạm, chưa thực hiện tốt việc tổ chức đối thoại với người khiếu nại; một số
vụ việc đã thanh tra, kiểm tra, có kết luận nhưng chậm ban hành quyết định giải
quyết khiếu nại; kiến thức, ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của một bộ phận cán bộ, công chức,
nhân dân còn hạn chế…
Chính vì vậy, việc nghiên cứu những quy định của pháp luật về khiếu nại và
giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; đánh giá tình hình khiếu nại trong lĩnh vực
đất đai, kết quả thực hiện công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa
bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội để làm rõ những ưu điểm, hạn chế, nguyên
nhân của những hạn chế trong công tác giải quyết khiếu nại về đất đai, từ đó tìm ra
quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
đất đai trên địa bàn huyện là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ mục đích và ý nghĩa đó, tôi lựa chọn Đề tài “Pháp luật về giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai từ thực tiễn huyện Ứng Hòa, thành phố
Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, trong khoa học pháp lý đã có nhiều bài viết, công trình


2


nghiên cứu về pháp luật khiếu nại hành chính, giải quyết khiếu nại hành chính,
cũng như khiếu nại về đất đai và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai. Từ
nhiều hướng và mức độ tiếp cận khác nhau, các bài viết, công trình nghiên cứu đã
làm sáng tỏ những vấn đề mang tính lý luận về khiếu nại hành chính, khiếu nại đất
đai, thực trạng quy định của pháp luật về khiếu nại hành chính, khiếu nại về đất
đai, thực trạng công tác giải quyết khiếu nại hành chính, khiếu nại đất đai, từ đó
đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về khiếu nại hành chính, khiếu
nại về đất đai, cũng như những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
giải quyết khiếu nại hành chính, khiếu nại về đất đai. Một số công trình mà tác giả
đã được tiếp cận như: Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ), Khiếu nại,
tố cáo hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính ở Việt Nam hiện nay,
Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội năm 2012; Lê Văn Thành (2012), Áp
dụng pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai của Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay, Luận án Tiến sỹ Luật học; Nguyễn Thị Thu Hằng (2011),
Giải quyết khiếu nại về đất đai tại các khu công nghiệp của các cơ quan hành chính
nhà nước ở tỉnh Bắc Giang hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học.
Ngoài các công trình nêu trên, còn có một số công trình là luận văn thạc sỹ
quản lý hành chính công ở Việt Nam như: Bùi Thị Thúy Ngân (2011), Giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong công tác giải phóng mặt bằng ở thành phố Hà Nội; Trần
Văn Anh (2010), Nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại,
tố cáo ở cấp xã của tỉnh Bắc Ninh; Trần Anh Hùng (2007), Thủ tục giải quyết
khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố Hồ Chí
Minh; Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực quản lý
đất đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện tỉnh Khánh Hòa; Phạm Thị Hồng Uyên
(2011), Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai tôn giáo trên địa bàn
thành phố Hà Nội hiện nay; Lê Hồng Oanh Ngọc (2009), Nâng cao hiệu quả giải

quyết khiếu nại ở thành phố Hà Nội…
Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu về giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà

3


Nội. Do đó, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh
vực đất đai từ thực tiễn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội” vừa có ý nghĩa thực
tiễn vừa có giá trị nhất định về lý luận.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Phân tích thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của
các cơ quan hành chính trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở
đó, đưa ra quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn huyện Ứng
Hòa, thành phố Hà Nội; góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, lợi
ích của nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ở địa
phương.
3.2. Nhiệm vụ

- Làm rõ quan niệm về khiếu nại, khiếu nại hành chính, khiếu nại về đất
đai; các nguyên tắc, ý nghĩa, tiêu chí đánh giá hiệu quả, các yếu tố tác động đến
công tác giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.

- Nắm vững nội dung quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai: quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, người
bị khiếu nại; các trường hợp không thụ lý giải quyết khiếu nại; thời hiệu khiếu nại,
thời hạn giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai; thẩm quyền, thủ tục giải quyết
khiếu nại về đất đai.


- Phân tích, đánh giá khái quát các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động giải
quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội; thực
trạng công tác giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước
trên địa bàn huyện (làm rõ ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế).

- Đưa ra một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước trên

4


địa bàn huyện Ứng Hòa trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề những quy định của pháp luật về giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai và áp dụng pháp luật về giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực đất đai ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Giải quyết khiếu nại các quyết định hành chính trong quản lý đất đai trên
địa bàn huyện Ứng Hòa và những bất cập trong quá trình giải quyết trong thời gian
từ năm 2013 đến hết năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận triết học Mác - Lê nin: phương
pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời có sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích - tổng hợp, logic, so sánh, thống kê, tổng
kết thực tiễn trong quá trình giải quyết các vấn đề đặt ra của đề tài và kế thừa
những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài của các tác giả trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của đề tài
- Về mặt lý luận: Luận văn là nguồn tư liệu tổng hợp về các quy định của

pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.
- Về mặt thực tiễn: Từ việc phân tích các đề xuất tại Luận văn có thể là
những gợi ý để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về khiếu nại, giải quyết
khiếu nại trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội nói
riêng, mở rộng ở thành phố Hà Nội và cả nước nói chung, góp phần nâng cao nhận
thức, ý thức trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện quyền
khiếu nại và giải quyết khiếu nại.

5


7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật về giải quyết khiếu nại trong
lĩnh vực đất đai.
Chương 2: Thực trạng ph¸p luËt về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực
đất đai và thực tiễn ở huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả của pháp luật về giải
quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai.

6


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG LĨNH
VỰC ĐẤT ĐAI
1.1. Một số vấn đề lý luận về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.1.1. Khiếu nại và khiếu nại hành chính
1.1.1.1. Khiếu nại

Khiếu nại là một hiện tượng xã hội, do đó có nhiều quan niệm và cách
hiểu khác nhau về khiếu nại. Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ
biên, “khiếu nại” được hiểu là “thắc mắc, đề nghị xem lại những kết luận, quyết
định do cấp có thẩm quyền đã làm, đã chuẩn y”. [47, tr.904]
Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ Luật học thì “khiếu nại” là: Những đề
nghị của công dân, cơ quan, tổ chức với cơ quan nhà nước hoặc người có chức
vụ về sự vi phạm hoặc cho là vi phạm quyền và lợi ích chính đáng của họ;
khiếu nại được thể hiện dưới hình thức viết hoặc trình bày miệng. Nếu là khiếu
nại viết thì đơn khiếu nại phải được ký bởi chính người có quyền hoặc lợi ích bị
vi phạm hoặc người giám hộ của người đó, trong đó ghi rõ họ, tên, địa chỉ (hoặc
nơi công tác, học tập). [16, tr.67]
Dưới góc độ xã hội, khiếu nại là hiện tượng phát sinh trong đời sống xã
hội, đó là sự phản ứng có tính tự nhiên của chủ thể này đối với hành vi của chủ
thể khác khi họ cho rằng hành vi đó không phù hợp với các quy tắc, chuẩn
mực trong đời sống cộng đồng, xâm phạm đến quyền, lợi ích của mình. Như vậy,
theo quan niệm này thì khiếu nại phản ánh hiện tượng vi phạm những quy tắc
của cộng đồng và xã hội cần phải có phương thức giải quyết. [26, tr.10].
Dưới góc độ chính trị - pháp lý, khiếu nại là một quyền tự do, dân chủ
quan trọng của công dân được Hiến pháp, pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện
bởi bộ máy nhà nước. Quyền khiếu nại được coi là “quyền để bảo vệ quyền”,

7


là công cụ pháp lý để công dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị
hành vi của người khác xâm phạm, nghĩa là “khiếu nại được sử dụng khi quyền
chủ thể khác của chính người khiếu nại hoặc của người được bảo hộ bị xâm
phạm”. [45, tr.720]
Xét trong mối quan hệ giữa nhà nước (chủ thể quản lý) với công dân (đối
tượng quản lý) thì khiếu nại là sự phản ứng của đối tượng quản lý đối với chủ thể

quản lý (nhà nước hoặc nhân viên nhà nước). Do đó, khiếu nại là kênh thông tin
“phản hồi” của đối tượng quản lý với các chủ thể quản lý về những tồn tại khuyết
điểm của hệ thống quản lý nhà nước. Thông qua khiếu nại và giải quyết khiếu nại,
nhà nước kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và hoàn thiện hoạt động
quản lý của mình. Khiếu nại là một kênh thông tin có giá trị quan trọng, phản ánh
hoạt động của bộ máy nhà nước. Vì vậy, khiếu nại còn được coi là công cụ để công
dân và các thiết chế chính trị - xã hội giám sát việc thực thi quyền lực nhà nước của
các cơ quan nhà nước. [26, tr.10].
1.1.1.2. Khiếu nại hành chính
Là một hiện tượng xã hội nên khiếu nại có thể xảy ra ở nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Do đó, dựa vào các tiêu chí khác nhau có thể phân loại khiếu
nại thành các nhóm khác nhau. Xét trong mối quan hệ giữa công dân với nhà
nước, khiếu nại có thể xảy ra ở cả 3 lĩnh vực thực hiện quyền lực nhà nước: lĩnh
vực lập pháp, lĩnh vực hành pháp và lĩnh vực tư pháp.
Trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước, quyền khiếu nại của công dân
là quyền khiếu nại hành chính. Theo Từ điển Luật học, khiếu nại hành chính là
việc “yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định
hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức, viên
chức khi có căn cứ cho rằng các quyết định hay hành vi đó xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình.” [48, tr.422]
Dưới góc độ pháp lý, khiếu nại hành chính là quyền công dân, được ghi
nhận trong Hiến pháp, được bảo đảm bởi hệ thống các văn bản pháp luật và bộ

8


máy các cơ quan nhà nước. Khiếu nại hành chính là một trong những biểu hiện
của mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, phát sinh trong quan hệ pháp luật
hành chính, khi mà đối tượng quản lý cho rằng những quyết định hành chính,
hành vi hành chính của chủ thể quản lý là trái pháp luật, xâm phạm đến

quyền, lợi ích hợp pháp của bản thân. Khi công dân thực hiện quyền khiếu
nại hành chính, phát sinh mối quan hệ pháp lý giữa chủ thể quản lý với đối tượng
quản lý. Trong mối quan hệ pháp lý này, đối tượng quản lý có quyền yêu cầu
chủ thể quản lý xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính, chủ thể
quản lý có nghĩa vụ phải giải quyết khiếu nại hành chính và bảo đảm cho công
dân thực hiện quyền khiếu nại hành chính; ngược lại, công dân cũng phải có
nghĩa vụ thực hiện quyền khiếu nại hành chính theo các quy định của pháp luật.
Khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại năm 2011 quy định:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo
thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem
xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước,
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho
rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp
pháp của mình. [36]
“Người khiếu nại” có thể là công dân, cơ quan, tổ chức, hoặc cán bộ,công
chức thực hiện việc khiếu nại. Cơ quan,tổ chức có quyền khiếu nại bao gồm: cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức
xã hội – nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. [36]
Dựa vào quy định trên của Luật Khiếu nại năm 2011 có thể phân loại đối
tượng của khiếu nại hành chính thành hai nhóm:
Một là, quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính
nhà nước. Cơ quan hành chính nhà nước bao gồm: Uỷ ban nhân dân các cấp; cơ
quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; cơ quan thuộc sở và tương đương; sở và
tương đương; cơ quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc

9


Chính phủ; bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Hai là, quyết định hành chính, hành vi hành chính của người có thẩm quyền

trong cơ quan hành chính nhà nước, tức là của cá nhân, bao gồm: Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân các cấp; thủ trưởng cơ quan thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; thủ trưởng
cơ quan thuộc sở và tương đương; Giám đốc sở và tương đương; thủ trưởng cơ
quan thuộc bộ, thuộc cơ quan ngang bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ; Bộ trưởng,
thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; và các cá nhân có thẩm
quyền trong các cơ quan thuộc nhóm thứ nhất.
Từ những phân tích trên, có thể thống nhất quan niệm về khiếu nại
hành chính như sau: “Khiếu nại hành chính là việc công dân, cơ quan, tổ chức
theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định đề nghị cơ quan nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền trong cơ quan nhà nước xem xét lại quyết định hành chính, hành vi
hành chính khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính
đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
1.1.2. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.1.2.1. Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Tại Điều 4 Luật Đất đai năm 2013 quy định: "Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao quyền sử dụng
đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai". Người SDĐ, người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến SDĐ có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai. Có thể thấy khiếu nại về đất
đai là một dạng khiếu nại hành chính, chỉ việc khiếu nại của các chủ thể là người
nhằm hướng tới lợi ích của họ trong lĩnh vực đất đai. Chủ thể khiếu nại đất đai rất đa
dạng, là người SDĐ được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ, nhận
chuyển QSDĐ theo quy định của pháp luật về đất đai. Các chủ thể có quyền khiếu nại
đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành
vi hành chính về đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định hành chính, hành vi
hành chính đó xâm phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

10



Khiếu nại về đất đai là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân theo
thủ tục do Luật Khiếu nại quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến lĩnh vực
đất đai của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước, khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái
pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Khiếu nại trong lĩnh vực đất đai có các đặc điểm sau:

- Đối tượng khiếu nại là các quyết định hành chính, hành vi hành chính đều
liên quan tới quản lý đất đai của nhà nước mang tính đặc thù, bao gồm: Quyết định
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích SDĐ;
quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư; quyết định về cấp
hoặc thu hồi Giấy chứng nhận QSDĐ; quyết định gia hạn thời hạn SDĐ;

- Hành vi hành chính trong quản lý đất đai bị khiếu nại là hành vi của cán
bộ, công chức nhà nước khi giải quyết công việc hành chính trong quản lý đất đai;

- Việc GQKN, tranh chấp về đất đai liên quan đến thẩm quyền của nhiều cơ
quan khác nhau: Cơ quan tài nguyên và môi trường thực hiện chức năng quản lý đất
đai, cơ quan tài chính quản lý chính sách tài chính về đất đai, cơ quan xây dựng
quản lý về nhà ở; thanh tra và Ủy ban nhân dân (UBND) các cấp…
Phương thức giải quyết được thực hiện dưới nhiều phương diện khác nhau
thông qua mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội.
1.1.2.2. Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
Giải quyết khiếu nại được hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền bằng các hoạt động thẩm tra, xác minh, kết luận và ra quyết định GQKN của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xem xét lại các quyết định hành chính,
hành vi hành chính của cơ quan có thẩm quyền ban hành khi có căn cứ cho rằng các
quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp


11


của người khiếu nại.
Tại Điều 2, Khoản 11 Luật Khiếu nại năm 2011 thì giải quyết khiếu nại là
việc thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết khiếu nại. Ở đây có thể
thấy GQKN bao gồm các công việc: Xác minh để làm rõ các tình tiết sự việc; kết
luận về nội dung khiếu nại, trong đó xác định rõ khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá
nhân là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ; căn cứ vào quy định của pháp luật
xử lý từng vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại từ đó quyết định giữ nguyên, sửa
đổi hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính bị khiếu nại, chấm
dứt quyết định hành chính, bị khiếu nại; quyết định việc bồi thường thiệt hại cho
người khiếu nại (nếu có) hoặc giải quyết các vấn đề cụ thể khác trong nội dung
khiếu nại. Yêu cầu của việc GQKN là phải tuân theo đúng quy định của pháp luật;
tức là phải đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục giải quyết; trong đó việc xác định
đúng cơ quan có thẩm quyền là vấn đề rất quan trọng. Tại Khoản 2 Điều 204 Luật
Đất đai năm 2013 quy định về trình tự, thủ tục GQKN quyết định hành chính, hành
vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại.
- Các quyết định hành chính về đất đai gồm:
+ Quyết định giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất;
+Quyết định bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư;
+ Quyết định cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;
+ Quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất.
- Các hành vi hành chính về đất đai là hành vi của cơ quan hành chính
nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi
thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của Luật đất đai.
Các "quyết định hành chính về đất đai", "hành vi hành chính về đất đai" nêu
trên của cơ quan hành chính nhà nước vừa là đối tượng vừa là khách thể của quản lý

hành chính nhà nước. Khi ban hành các quyết định cũng như hành vi hành chính của
người có thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền không phù hợp với các quy định của
pháp luật về đất đai, làm ảnh hưởng tới quyền, lợi ích hợp pháp của công dân thì việc

12


công dân có thể phản ứng lại những quyết định này nhằm yêu cầu người ra quyết định
hoặc có hành vi không đúng xem xét và sửa đổi cho phù hợp. Chính vì vậy, GQKN từ
phương diện pháp lý nêu trên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm trong
việc tiến hành thẩm tra, xác minh (thông qua các hoạt động tác nghiệp) để xác định rõ
bản chất sự việc, nội dung khiếu nại kết luận về tính đúng sai của sự việc, yêu cầu của
người khiếu nại, từ đó đề xuất với thủ trưởng hướng GQKN.
Việc GQKN về đất đai hình thành trên cơ sở phát sinh từ việc yêu cầu thực
hiện quyền khiếu nại của công dân. Công dân có quyền yêu cầu từ phía nhà nước cụ
thể từ các cơ quan, người có thẩm quyền GQKN về đất đai giải quyết theo trình tự
việc khiếu nại. Tuy nhiên, việc phân định thẩm quyền GQKN về đất đai căn cứ vào
nội dung, tính chất vụ việc khiếu nại.
Theo đó khái niệm GQKN về đất đai được hiểu là việc thụ lý, xác minh, kết
luận và ra quyết định GQKN đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính
trong quản lý đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người có thẩm quyền.
Bản chất việc GQKN về đất đai là một hoạt động quản lý nhà nước trong
lĩnh vực đất đai. Do đó đòi hỏi hoạt động này phải tuân thủ theo những nguyên tắc
và trình tự thủ tục nhất định nhằm đảm bảo tính hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai. GQKN về đất đai là một hình thức GQKN nói chung
vì vậy, GQKN về đất đai mang các đặc điểm của GQKN đó là:
Thứ nhất, GQKN về đất đai là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tính
quyền lực nhà nước thể hiện qua hoạt động xem xét, đánh giá, giải quyết theo trình tự
thủ tục của người có thẩm quyền như thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước (Chủ
tịch UBND các cấp, thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về đất đai như cơ quan tài

nguyên môi trường các cấp, cơ quan thanh tra nhà nước…) về tính đúng sai, tính hợp
pháp, hợp lý của quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai. Mặt khác, kết
quả GQKN về đất đai là quyết định bằng văn bản, khi quyết định có hiệu lực buộc các
chủ thể có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành, trong một số trường hợp được Nhà
nước bảo đảm bằng biện pháp cưỡng chế.

13


Thứ hai, GQKN về đất đai phải tuân theo những hình thức, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Trình tự thủ tục phải công khai, dân chủ, bảo đảm đúng thẩm
quyền. Khiếu nại cấp dưới do cơ quan cấp trên giải quyết và đến một cấp nhất định thì
chấm dứt việc giải quyết, nếu người khiếu nại không đồng ý thì vụ việc được đưa ra
tòa án để giải quyết. GQKN về đất đai bao gồm GQKN lần đầu và GQKN lần hai.
Đây là điểm khác biệt so với giải quyết tố cáo. Giải quyết tố cáo được phân theo
luồng, đồng thời không có điểm dừng, trường hợp giải quyết không đúng, người dân
tố cáo tiếp thì cơ quan nhà nước phải có trách nhiệm xem xét, giải quyết tiếp.
Thứ ba, GQKN về đất đai mang tính cá biệt, cụ thể. Việc GQKN về đất đai
được thực hiện đối với từng trường hợp cụ thể. Quyết định về kết quả GQKN được
áp dụng cho từng đối tượng được xác định trong văn bản và có hiệu lực ngay sau
đó. Việc thực hiện và áp dụng nó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý
đối với các chủ thể khác.
Thứ tư, GQKN về đất đai phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định bao gồm
nguyên tắc pháp chế, nguyên tắc khách quan, nguyên tắc công khai minh bạch,
nguyên tắc dân chủ, nguyên tắc kịp thời, nguyên tắc đối thoại. Các nguyên tắc cơ
bản là những định hướng, những tư tưởng xuyên suốt trong quá trình GQKN về đất
đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Những tư tưởng đó phải trên cơ sở định
hướng của Đảng, của Nhà nước về bảo đảm, bảo vệ quyền con người, về tính công
bằng của pháp luật, về tính công khai minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước,
về tính dân chủ nhân dân.

1.1.3. Nguyên tắc giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
- Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai theo đúng quy định của pháp
luật. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong quá trình giải quyết khiếu nại. Phải căn cứ
vào pháp luật mới xác định được đúng, sai, tính chất, mức độ vi phạm; giải quyết
triệt để, chấm dứt việc khiếu nại bảo vệ những lợi ích hợp pháp.
- Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai phải đảm bảo dân chủ, công
khai. Thực hiện nguyên tắc này, người được giao giải quyết khiếu nại phải lắng

14


nghe ý kiến của của các bên, đảm bảo dân chủ, bình đẳng trước pháp luật.
- Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai phải thực sự khách quan, thận
trọng và vô tư. Nguyên tắc này đòi hỏi nhìn nhận sự việc phải trung thực, không
phụ thuộc vào ý muốn của các bên đương sự. Kết hợp giải quyết khiếu nại về đất
đai với việc giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về đất đai.
Thông qua quá trình này làm cho mọi người hiểu và thừa nhận, nghiêm chỉnh chấp
hành quyết định của cơ quan đã giải quyết khiếu nại.
- Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai phải kịp thời, nhanh chóng,
ngăn chặn và loại trừ các hành vi vi phạm pháp luật đất đai.
1.1.4. Vai trò của giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
- Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan trọng trong việc
bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
Trong quá trình quản lý nhà nước nói chung và quản lý hành chính nhà nước
về đất đai nói riêng, các cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong các cơ
quan đó không tránh khỏi việc ban hành các quyết định hay có hành vi xâm phạm
quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và công dân. Để tránh hậu quả đó,
pháp luật quy định cơ quan, tổ chức và công dân có quyền đề nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi hành chính nhằm bảo vệ lợi ích
của mình. GQKN là thực hiện sự bảo đảm của nhà nước đối với quyền khiếu nại

của công dân, cơ quan, tổ chức được hiến pháp ghi nhận, là một hình thức biểu hiện
của dân chủ trực tiếp, đấu tranh các việc làm trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức Về phía các cơ quan nhà nước, thông
qua việc khiếu nại của người SDĐ các cơ quan nhà nước biết được một hành vi sai
phạm có thể xảy ra trên thực tế hoặc một quyết định không đúng đã được ban hành
để trên cơ sở đó và các quy định của pháp luật, các cơ quan nhà nước sẽ tiến hành
xem xét lại hành vi hoặc quyết định bị khiếu nại. Áp dụng pháp luật giải quyết
nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại của người SDĐ gắn liền với
việc khôi phục kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của họ.

15


- Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan trọng trong việc
nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
Mục đích của GQKN chính là nhằm đảm bảo cho các quy định pháp luật
liên quan đến các quyền, lợi ích của cơ quan, tổ chức, công dân được thực hiện
nghiêm chỉnh. Thông qua GQKN về đất đai, Đảng và Nhà nước ta phát hiện ra
những bất hợp lý của chính sách, pháp luật đất đai, kiểm tra được tính đúng đắn, sự
phù hợp của đường lối, chính sách, pháp luật đất đai đã ban hành, từ đó có cơ sở
nghiên cứu để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp trước đòi hỏi, yêu
cầu của thực tiễn nhằm hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động quản lý nhà nước. Ngoài ra, qua hoạt động áp dụng pháp luật GQKN
về đất đai còn là phương thức bảo đảm sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai và hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước trong
thực hiện chức trách, nhiệm vụ của mình. Thông thường thì cơ quan nhà nước,
công chức nhà nước chỉ thấy công việc một chiều từ trên xuống nên có hạn chế là
không thấy hết những sai sót, khuyết điểm, bất hợp lý trong quản lý mà chỉ ở góc
độ người SDĐ mới thấy được. Tính giám sát biểu hiện qua khiếu nại, người SDĐ
đã chuyển cho Nhà nước những thông tin, phát hiện việc làm vi phạm pháp luật

xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ để trên cơ sở đó Nhà nước
kiểm tra lại hoạt động của các cơ quan, hành vi của công chức. Như vậy, thông qua
khiếu nại và áp dụng pháp luật GQKN đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước.
- Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan trọng trong
việc bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố mối quan hệ, lòng
tin giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước
Điều 2 Hiến pháp 2013 quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức" [38]. Thể chế hóa quan điểm

16


trên, nhiều văn bản pháp luật đã quy định những quyền năng cụ thể của nhân dân,
trong đó có quyền khiếu nại các quyết định hành chính, hành vi hành chính. Thông
qua khiếu nại và áp dụng pháp luật GQKN nói chung, áp dụng pháp luật GQKN về
đất đai nói riêng, người SDĐ gián tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước,
trong đó có hoạt động của các cán bộ, công chức làm việc trong các cơ quan đó.
Thông qua các khiếu nại, cơ quan nhà nước có được thông tin làm căn cứ để sửa đổi,
bổ sung kịp thời các quyết định, hành vi hành chính sai phạm, cải tiến và đổi mới
hoạt động, làm cho hoạt động của các cơ quan đó đúng chính sách, pháp luật, phù
hợp với các quyền, lợi ích của người SDĐ. Như vậy, khiếu nại và áp dụng pháp luật
trong GQKN về đất đai là phương thức cơ bản để người SDĐ thực hiện quyền làm
chủ, đồng thời giúp nhà nước kiểm tra, giám sát và thực hiện tốt hơn trách nhiệm của
mình trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ. GQKN về đất
đai là một hình thức biểu hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước
mà họ thiết lập nên. Nếu các khiếu nại được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
xem xét giải quyết, kịp thời, thỏa đáng thì người khiếu nại sẽ cảm thấy Nhà nước tôn

trọng, lắng nghe ý kiến của dân, quan tâm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng
của dân, tự họ thấy Nhà nước gần gũi, gắn bó với dân, lo cho dân và Nhà nước thực
sự là của dân, do dân, vì dân. Cũng thông qua đó Nhà nước thấy được năng lực, trình
độ và phẩm chất đội ngũ cán bộ, công chức trong quá trình thực thi công vụ để có
hình thức động viên khen thưởng kịp thời các cán bộ, công chức có thành tích, đồng
thời xử lý nghiêm những hành vi sai phạm, tiêu cực của cán bộ, công chức góp phần
củng cố niềm tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, làm cho mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước
ngày càng gắn bó bền chặt.
- Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai có vai trò quan trọng trong
việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
"Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã
hội, trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhân viên
nhà nước, nhân viên các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực

17


hiện pháp luật một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác" [18, tr. 312]. Khiếu nại
và GQKN về đất đai là một trong nhiều phương thức nhằm đảm bảo các quyết định,
hành vi hành chính phải được ban hành đúng quy định của pháp luật về trình tự, thủ
tục, thẩm quyền và nội dung, không xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơ quan, tổ chức, công dân. Thông qua việc thực hiện quyền khiếu nại và áp dụng
pháp luật trong GQKN các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, công dân
đã bị xâm phạm sẽ được khôi phục. Ngoài ra việc thực hiện quyền khiếu nại và áp
dụng pháp luật trong GQKN giúp cho hoạt động quản lý điều hành của các cơ quan
hành chính nhà nước có hiệu quả, các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái
pháp luật được sửa đổi hoặc bãi bỏ, các vi phạm trong việc ban hành và áp dụng
pháp luật được xử lý kịp thời, từ đó phòng ngừa các vi phạm pháp luật xảy ra từ phía
những người thực thi công vụ. Như vậy, áp dụng pháp luật GQKN về đất đai có vai

trò quan trọng trong tăng cường pháp chế. Bên cạnh đó, việc xem xét GQKN về đất
đai là một nội dung quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước đối với đất đai và
là những biện pháp để pháp luật đất đai phát huy được vai trò trong đời sống xã hội.
Thông qua việc áp dụng pháp luật GQKN về đất đai mà các quan hệ đất đai được
điều chỉnh cho phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của xã hội và của người SDĐ, giáo
dục ý thức pháp luật cho công dân để ngăn ngừa vi phạm pháp luật khác có thể xảy
ra. Với mục đích như vậy thì việc áp dụng pháp luật GQKN về đất đai là tìm ra giải
pháp đúng đắn nhằm giải quyết những kiến nghị của nhân dân, trên cơ sở đó phục
hồi các quyền, lợi ích hợp pháp cho người khiếu nại. Đó cũng là công việc có ý
nghĩa quan trọng để tăng cường pháp chế trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất.
1.2. Lý luận pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm pháp luật về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai
1.2.1.1. Khái niệm:
Khi các chủ thể thực hiện quyền khiếu nại thì giữa họ với cơ quan nhà nước sẽ
phát sinh những quan hệ pháp luật khiếu nại. Khi có khiếu nại phát sinh, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải có trách nhiệm xem xét giải quyết để thực hiện đúng chức

18


×