Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

bài thu hoạch diễn án TH 06

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.29 KB, 16 trang )

I.

Tóm tắt nội dung vụ án.
Vào 01h00 ngày 16/3/2012 công an quận 7 tiến hành kiểm tra khách sạn
Khánh Ngọc. Qua kiểm tra phát hiện tại phòng 101 có 4 khách lưu trú gồm : 2
nam là Lê Quang Trung và Phạm Ngọc Thành, 2 nữ là Võ Quý Hiếu và Nguyễn
Thị Diễm đồng thời phát hiện trên bàn trang điểm có 07 gói nilon chứa tinh thể
không màu, trên đầu tủ chứa 13 gói nilon chứa tinh thể không màu. Cơ quan
công an tiến hành lập biên bản bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang đối
với 04 đói tượng trên và thu giữ tang vật gồm:
- 20 gói nilon chứa tinh thể không màu thu được trên bàn và trên đầu tủ (ma
túy tổng hợp).
-

Số tiền 3.500.000 đồng là của Lê Quang Trung .

- 01 ĐTDĐ Nokia X1 màu đen số điện thoại 01269918567.
-

Một số dụng cụ sử dụng ma túy.

-

01 xe gắn máy biển số 54Z6 0089.

Vào 16h45 ngày 16/3/2012 tại ngã ba đường Phan Huy Thực và đường Lê
Văn Lương phường Tân Kiểng , quận 7 , đội CSĐT TP về ma túy công an quận
7 phát hiện và bắt quả tang Tống Hữu Thành đang ngồi sau xe gắn máy hiệu
Nouvo biển số 54Z4 2723 do Võ Quốc Cường SN 1985 điều khiển đêm ma túy
đi bán cho các đối tượng nghiện. CA quận 7 đã lập biên bản bắt người trong
trường hợp phạm tội quả tang đối với đối tượng Thành và thu giữ tang vật gồm:


- 01 túi đựng nilon chứa tinh thể không màu tạm giữ niêm phong của
TốngHữu Thành (ma túy tổng hợp).
- 01 ĐTDĐ hiệu Mobell, số liên lạc 0903536313.
- 01 xe gắn máy hiệu Nouvo biển số 54Z4 2723.
- 300.000 đồng là số tiền Thành bán ma túy cho Nguyễn Văn Lành.


Vào hồi 0h30 ngày 17/3/2012 tại trước khách sạn Lam Anh, đội
CSĐTVMT phối hợp với công an quận 7 bắt quả tang Trần Thị Mỹ Thảo
dang đem ma túy đi bán . CA tiến hành lập biên bản bắt người trong trường
hợp phạm tội quả tang và thu giữ tang vật gồm :
-

01 túi nilon chứa tinh thể không màu do đương sự Thảo lấy ra từ trong áo
ngưc bên trái của mình (ma túy tổng hợp).

-

600.000 đồng.

-

01 ĐTDĐ hiệu Sam sung màu tím đen cùng sim card có săn số liên lạc
01664456039.

- 01 ĐTDĐ hiệu Nokia màu đem cùng sim card có sẵn số liên lạc
0903027803.
Vào hồi 11h30 ngày 17/3/2012 Lê Hy Minh Hải bị bắt khẩn cấp theo lệnh
số 18 ngày 17/3/2012. CA tiến hành bắt và lập biên bản về việc bắt người . Khi
khám xét thì thu giữ của Hải 01 máy ĐTDĐ Nokia 2 sim là : 0935252261 và

0918623677 ).
Ngày 22/3/2012 cơ quan CSĐT ra quyết định khởi tố VA “Mua bán trái
phép chất ma túy “ do bị can Trung ,Thành và Thảo thực hiện. Khởi tố các bị can
Lê Quang Trung , Tống Hữu Thành , Trần Thị Mỹ Thảo và Lê Hy Minh Hải về
tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 BLHS.
Ngày 13/7/2012 CQĐTra bản kết luận điều tra số 136 đề nghị VKS quận 7
truy tố các bị can trên ở Điều 194BLHS.
Ngày 22/8/2012 VKS quận 7 ra cáo trạng truy tố 4 bị can trên ra trước TA
quận 7 về tội mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 2 Điều 194
BLHS.
Ngày 16/10/2012 VKS quận 7 ra QĐ số 30 –quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung sau khi TA quận 7 đã đưa VA ra xét xử , qua phần thẩm vấn công


khai tại phiên tòa có phát sinh tình tiết mới cần phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung
làm rõ một số vấn đề trong vụ án.
Ngày 25/3/2013 CQĐT ra bản KLĐT bổ sung số 027 đề nghị VKS quận 7
truy tố các bị can về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 194 BLHS.


II.

Kế hoạch hỏi tại phiên tòa với tư cách là luật sư bào chữa
cho bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo.

1. Hỏi bị cáo Lê Quang Trung .
- Bị cáo Trung cho hội đồng xét xử biết , bị cáo bị bắt vào thời gian nào , ở đâu
? bị cáo có bị tạm giữ không ? bị tạm giữ từ ngày tháng năm nào đến ngày tháng
năm nào?. Từ ngày bị bắt là ngày 17/3/2012 đến ngày có quyết định khởi tố bị
can (ngày 22/3/2012), bị cáo có nhận được quyết định tạm giữ không ?

- Ở những buổi hỏi cung bị cáo có được nghe cán bộ điều tra giải thích quyền
và nghĩa vụ của mình không? tại buổi hỏi cung ngày 26/3/2012 , 01/4/2012 và
05/11/2012 ( BL 110,112,114, 138) có những ai tham gia ? ai là người hỏi cung
bị cáo?.Tại buổi đối chất ngày 28/3/2012 ai là ngươi tham gia đối chất cung bị
cáo và bị cáo Hải?
- Trong quá trình điều tra bị cáo có bị đánh đập , bức cung hay nhục hình
không? Nếu bị cáo bị đánh đập thì ai là người đánh bị cáo ?, đánh ở đâu ? , trên
cơ thể còn lưu lại dấu vết gì về viêc đánh đó không ? Nếu là nhục hình hay bức
cung thì nó diễn ra như thế nào? diễn ra trong bao lâu? Có ai biết về việc đó
không?.
2. Hỏi bị cáo Lê Hy Minh Hải
- Bị cáo Hải cho hội đồng xét xử biết, bị cáo bị cơ quan điều tra bắt vào thời
gian nào , bắt ở đâu? Bị cáo có bị cơ quan điều tra áp dụng biện pháp tạm giữ
không?từ thời điểm nào đến thời điểm nào? Từ ngày 17/3/2012 đến ngày có
quyết định khởi tố là 22/3/2012 , bị cáo có nhận được quyết định tạm giữ
không?.
- Bị cáo cho biết tại các buổi hỏi cung bị cáo có được điều tra viên giải thích
quyền và nghĩa vụ của mình không?tại các buổi hỏi cung ngày 12/11/2012 và


14/11/2012 , 16/11/2012(BL140, 141,143) có những ai tham gia ? ai là người
tiến hành hỏi cung bị cáo?.
- Bị cáo cho hội đồng xét xử biết trong quá trình điều tra bị cáo có bị đánh đập ,
bức cung hay nhục hình không ?. Nếu bị đánh thì ai là người đánh , có ai chứng
kiến không ? có để lại dấu vết gì không ? .Nếu bị cáo bị bức cung , mớm cung ,
nhục hình thì hành vi đó diễn ra ra sao?. Kéo dài trong bao lâu? ,bị thực hiện ở
đâu?.theo biên bản cung ngày 14/11/2012 bị cáo khai là mình bị đánh, vậy ai là
người đánh bị cáo ?. Đánh nhiều không và đánh vào đâu ?. Người đó ngoài đánh
bị cáo thì có nói gì hay hành động gì nữa không ?. khi đó bị cáo cảm thấy thế
nào?

- Tại bản đối chất ngày 28/3/2012 giữa bị cáo và bị cáo Trung, bị cáo luôn công
nhận lời khai của bị cáo Trung là đúng đến các bản cung sau bị cáo lại phủ nhận
những việc này , vậy lời khai nào bị cáo khai là đúng sự thật ?, tại sao bị cáo lại
thay đổi lời khai như vậy ?.
3. Hỏi bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo.
- Bị cáo Thảo trả lời cho hội đồng xét xử biết, bị cáo có bị cơ quan điều tra áp
dụng biên pháp tạm giữ, tạm giam nào không không ?. Từ ngày 17/3/2012 đến
ngày 28/5/2012 bị cáo có nhận được quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam không ?
sau ngày 28/5/2012 bị cáo có nhận đươc quyết định thay đổi biên pháp ngăn
chặn tạm giam thành cấm đị khỏi nơi cư trú không ?.
- Bị cáo có được cơ quan điều tra tiến hành hỏi cung hay đối chất với các bị can
khác không?.
- Bị can có quen biết với đối tượng Dũng không ? bị cáo quen biết với Dũng ở
đâu , khi nào , làm sao quen ? bị cáo có biết Dũng sống ở đâu không ? có thể
giúp cơ quan điều tra tìm được Dũng ?.
- Bị cáo có quen biết Lê Quang Thành không? quen ở đâu? Quen khi nào ?
Làm sao quen được ? có hay gặp mặt không ?


- Trước khi bị cáo quen biết Dũng bị cáo có biết Dũng là đối tượng nghiện ma
túy không ? bị cáo có biết Dũng có bán ma túy không?
- Bị cáo có nghiện ma túy không ?
- Khi Dũng nhờ bị cáo, Dũng có nói rõ với bị cáo là đi vận chuyển ma túy để
bán không ?Bị cáo có được hưởng lợi từ việc này không?Nếu được thì bị cáo đã
sử dụng vào việc gì?
- Tại thời điểm bị bắt bị cáo đã có thai chưa? Được mấy tháng rồi?
- Bị cáo cho hội đồng xét xử biết ngoài lần đưa cho Thành và bị bắt bị cáo có
đưa giúp cho Dũng lần nào nữa không? và đưa cho ai, lúc nào và ở đâu?
- Bị cáo có biết mình đưa hộ Dũng cho Thành là nhằm mục đích mua bán kiếm
lời hay không? Hay chỉ là vì Dũng nhờ thì đưa, không biết mục đích làm gì?

- Bị cáo có liên lạc với Thành qua điện thoại để vận chuyển hay mua bán ma
túy hay không?
- Trong quá trình lấy lời khai bị cáo có được giải thích quyền và nghĩa vụ của
mình không?
- Trong quá trình điều tra bị cáo có bị đánh đập , bức cung nhục hình không?nếu
đánh thì ai đánh ? có ai chứng kiến không ?có dấu vết gì chứng minh không?
3. Hỏi bị cáo Tống Hữu Thành
- Bị cáo Thành trả lời cho HĐXX biết , bị cáo có biết Trần Thị Mỹ Thảo không?
quen biết khi nào? ở đâu?
- Bị cáo Thành có biết người nào tên là Thúy hay không? Nhân thân, lý lịch
của Thúy? Bị cáo quen biết Thúy tại địa điểm, thời gian, hoàn cảnh nào?
- Bị cáo Thành có biết người nào tên là Dũng hay không? Nhân thân, lý lịch của
Dũng? Bị cáo quen biết Dũng tại địa điểm, thời gian, hoàn cảnh nào?
- Bị cáo đã bao giờ gọi điện cho Thảo để mua ma túy chưa? Thảo và Dũng ai là
đầu mối bán ma túy trực tiếp cho bị cáo?


- Bị cáo Thành mua ma túy của Dũng như thế nào? Mua ma túy của Dũng bao
nhiêu lần? Thúy và Thảo, ai là người đến giao ma túy cho bị cáo?
- Khi đưa ma túy cho bị cáo, Thảo có biết đó là ma túy hay không? Thảo có biết
đưa cho bị cáo để làm gì hay không?
- Ngày 17/03/2012, bị cáo có đặt mua ma túy của Dũng hay không? Liên lạc với
Dũng để mua ma túy bằng cách nào? Bị cáo có liên lạc với bị cáo Thảo không?
Đặt mua vào thời điểm nào? Thời điểm nào thì giao ma túy? Giao ma túy tại
đâu?
- Mỗi lần mua ma túy bị cáo trả tiền cho ai? Trả tại địa điểm, thời gian nào?
- Khi giao dịch mua bán ma túy có những ai biết? ai tham gia?
- Tại mỗi lần hỏi cung, bị cáo có được cán bộ cán bộ điều tra phổ biến về quyền
và nghĩa vụ của mình không? Tại Biên bản hỏi cung bị can ngày 27/03/2012 (BL
120), có những ai tham gia? Ai là cơ quan tiến hành hỏi cung bị cáo?

- Bị cáo có được cơ quan điều tra yêu cầu đối chất với Trung và Hải không?
- Trong quá trình điều tra, bị cáo có bị đánh đập, bức cung, dùng nhục hình
không? Nếu có thì ai đánh bị cáo? Đánh ở địa điểm, thời gian nào? Có ai biết
không? Trên cơ thể bị cáo còn có dấu vết bị đánh không?


III.

Định hướng bào chữa cho bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo.

Bào chữa theo hướng đề nghị HĐXX yêu cầu điều tra bổ sung theo quy định tại
khoản 2 Điều 199 BLTTHS và thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTCBCA-TANDTC tại Điều 4, bởi lý do :
1. Về định tội danh và khung hình phạt:
-

Chưa làm rõ được tình tiết khung “Phạm tội nhiều lần”

-

Chưa tiến hành hỏi cung đối với bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo, chưa tiến hành
đối chất giữa bị cáo Thảo với bị cáo Tống Hữu Thành để làm rõ việc mua
bán, vận chuyển ma túy giữa bị cáo Thảo, bị cáo Thành và Dũng.

-

Chưa giám định hàm lượng ma túy để làm căn cứ định tội và định khung
hình phạt.

- Cáo trạng của VKSND quận 7 khẳng định bị cáo Thảo sử dụng ma túy
( BL 148) là không có căn cứ.

2. Vi phạm các trình tự, thủ tục tố tụng trong giai đoạn điều tra và kiểm
sát hoạt động điều tra như:
-

Từ ngày 17/03/2012 đến ngày 28/05/2012, bị cáo Thảo bị bắt giữ nhưng
không có Quyết định tạm giữ, không có Lệnh tạm giam. 02 bị cáo Hải và
Trung cũng bị giam giữ từ khi bị bắt (16, 17/03/2012) cho đến ngày
22/03/2012 mà không có Quyết định tạm giữ.

- Nhiều biên bản hỏi cung bị can, Biên bản ghi lời khai trong giai đoạn điều
tra không hợp lệ (BL 112, 113, 114, 115, 120, 121, 138, 139, 140, 143) do
ông Trần Quốc Việt tiến hành thu thập mà không phải là Điều tra viên của
vụ án này (Theo Quyết định phân công điều tra vụ án hình sự số 85 ngày
22/03/2012 của CQCSĐT – Công an quận 7), mặt khác, cán bộ điều tra


Ngô Trọng Cung không tham gia lấy lời khai nhưng lại ký tên vào các
Biên bản.
- Tại bản cung ngày 16/3/2012 được tiến hành lúc 19h30 . Cùng một thời
điểm ,cùng một Điều tra viên tiến hành hỏi cung 02 bị can là Tống Hữu
Thành và Lê Hy Minh Hải.
- Có mâu thuẫn trong lời khai tại bản cung của Hải , Thanh và Trung nhưng
không tiến hành đối chất.
- Trong quyết định khởi tố vụ án không hề có bị can Lê Hy Minh Hải.
- Lệnh tạm giam của các bị can chưa được phê chuẩn ,trong hồ sơ vụ án
không hề có Lệnh bắt khẩn cấp đối với bị can Lê Hy Minh Hải.
- Chưa xác minh và làm rõ có hành vi bức cung, dùng nhục hình trong quá
trình điều tra vụ án hay không?.



Bản luật cứ bào chữa.

IV.

Bào chữa cho bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo trong vụ án:“Mua bán trái phép chất
ma túy”
Kính thưa :
- Hội đồng xét xử;
- Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận 7 – TP. Hồ Chí Minh;
- Thưa toàn thể quý vị có mặt trong phiên tòa ngày hôm nay.
Tôi là Luật sư Nguyễn Tấn Lộc (Thẻ Luật sư số 4783/LS) – Thuộc Văn
phòng Luật sư Lan Dung và cộng sự - Đoàn luật sư TP. Hồ Chí Minh, nhận trách
nhiệm bào chữa, bảo vệ quyền và lợi hợp pháp cho thân chủ của tôi là Trần Thị
Mỹ Thảo trong vụ án "Mua bán trái phép chất ma túy" theo Giấy chứng nhận
người bào chữa số 546 do Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an quận 7 cấp ngày
22/3/2012.
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các chứng cứ đã được thẩm định tại
phiên tòa, sau khi lắng nghe quan điểm của vị đại diện viện kiểm sát, tôi xin
được trình bày quan điểm của mình như sau:
Ngày 17/03/2012, trên đường vận chuyển ma túy của Dũng cho bị cáo Tống
Hữu Thành, thân chủ tôi đã bị lực lượng công an bắt giữ, thu giữ 01 túi ma túy
tổng hợp. Qua lời khai của thân chủ tôi tại BL107, khoảng 1 tháng trước ngày
17/3/2012, thân chủ tôi có vận chuyển 01 gói ma túy tổng hợp của Dũng cho bị
cáo Thành, ngoài ra còn vận chuyển hộ Dũng cho 4 người khác là bạn Dũng
(không biết thân nhân, lai lịch). Từ những lời khai duy nhất của thân chủ tôi (khi
chưa có Quyết định khởi tố bị can), không có bất kỳ biên bản hỏi cung nào, cũng


không được đối chất với bị cáo Tống Hữu Thành, thế nhưng, Viện kiểm sát lại
căn cứ vào lời khai đó để quy chụp tình tiết định khung hình phạt "Phạm tội

nhiều lần" đối với thân chủ tôi theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194, Bộ
luật hình sự là thiếu cơ sở, không phù hợp với các tình tiết, chứng cứ khác của vụ
án. Bên cạnh đó, cơ quan điều tra cũng có hàng loạt những thiếu sót và vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng, ảnh hưởng đến việc định tội, định khung hình phạt,
ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các bị cáo trong vụ án, cụ thể như sau :
Thứ nhất, thân chủ tôi bị Viện kiểm sát truy tố theo điểm b, khoản 2, Điều
194 với tình tiết định khung: "Phạm tội nhiều lần" là không phù hợp với các tình
tiết, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Theo quy định tại điểm a, mục 3, Công văn số 03/VKS ngày 03/01/2000 về việc
"Hướng dẫn thống nhất đường lối xử lý một số trường hợp cụ thể thuộc các tội
phạm về ma túy" thì:
"a. Tình tiết "Phạm tội nhiều lần"
Trường hợp khi bị can khai ra các lần phạm tội trước đó, nếu không xác
định được, mà chỉ căn cứ vào lời khai nhận tội của bị can thì chưa đủ cơ sở để xử
lý và áp dụng tình tiết này. Lời khai nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được
coi là chứng cứ khi nó phù hợp với các chứng cứ khác trong vụ án".
Căn cứ vào quy định nêu trên, khi CQCSĐT chưa xác định được thân
nhân, lý lịch, lời khai của đối tượng Dũng cùng 04 người bạn của Dũng – thân
chủ tôi vận chuyển ma túy hộ Dũng đến 4 người này (BL107), vì vậy, không có
bất kỳ cơ sở, chứng cứ nào để khẳng định việc thân chủ tôi vận chuyển ma túy
hộ Dũng cho 4 người nói trên.
Bên cạnh đó, thân chủ tôi còn khai đã từng vận chuyển ma túy tổng hợp
của Dũng cho bị cáo Thành 01 lần trước ngày bị bắt khoảng 1 tháng, tuy nhiên
lời khai này không phù hợp với lời khai của bị cáo Thành tại BL số 119: "Cứ mỗi
lần điện thoại cho Dũng đặt mua ma túy thì Dũng sẽ kêu bé Thúy đem ma túy


bán cho tôi", rõ ràng việc mua bán, vận chuyển ma túy giữa bị cáo Thành với
Dũng là thông qua đối tượng tên là "Thúy" mà không phải thông qua bị cáo
"Thảo". Tuy nhiên, những lời khai đầu tiên của bị cáo Thành – về cơ bản là

những lời khai chân thật nhất, có giá trị chứng minh cao nhất, thì đến khi có
Quyết định khởi tố bị can đối với Tống Hữu Thành thì bị cáo Thành lại thay đổi
lời khai khẳng định thân chủ tôi mới là người vận chuyển ma túy của Dũng đến
cho bị cáo Thành (BL121). Điều đáng nói ở đây, đó là biên bản hỏi cung này (BL
120, 121) không hợp lệ bởi theo Quyết định phân công điều tra vụ án hình sự số
85 ngày 22/3/2012 của CQCSĐT – Công an quận 7 thì chỉ có 02 cán bộ được
phân công điều tra trong vụ án này là Điều tra viên – Hồ Cảnh Bình và Cán bộ
Điều tra – Ngô Trọng Cung. Thế nhưng, ông Trần Xuân Việt tuy không phải là
Điều tra viên của vụ án này nhưng lại một mình tiến hành hỏi cung và lập biên
bản hỏi cung bị can ngày 27/3/2012 đối với bị can Thành là vi phạm quy định tại
Điều 131, BLTTHS, thế nhưng chẳng hiểu vì sao, khi kết thúc việc hỏi cung Cán
bộ điều tra Ngô Trọng Cung mặc dù không tham gia hỏi cung nhưng lại ký vào
Biên bản hỏi cung? Quá trình điều tra, lập những Biên bản hỏi cung vi phạm thủ
tục tố tụng tương tự như trên còn lặp lại trong nhiều Biên bản hỏi cung bị can và
Biên bản lấy lời khai tại các Bút lục 112, 113, 114, 115, 138, 139, 140, 143.
Như vậy, từ những lời khai mâu thuẫn nhau cho đến những vi phạm trình
tự, thủ tục tố tụng ngay tại các Biên bản ghi lời khai và Biên bản hỏi cung bị can,
cho thấy việc Viện kiểm sát chỉ dựa vào những lời tự khai của thân chủ tôi về
những lần phạm tội trước đó mà không có chứng cứ phù hợp, thậm chí thân chủ
tôi cũng chưa lần nào đối chất với bị cáo Thành, cũng chưa được bất kỳ cơ quan
tiến hành tố tụng nào hỏi cung mà lại truy tố thân chủ tôi với tình tiết định khung
"Phạm tội nhiều lần" theo quy định tại điểm b, khoản 2, Điều 194 là không có cơ
sở.


Thứ hai , CQCSĐT – Công an quận 7 chưa tiến hành trưng cầu giám định
hàm lượng chất ma túy để làm căn cứ định tội và định khung hình phạt.
Theo quy định tại tiểu mục 1.4, mục 1, Chương 1, Thông tư liên tịch số
17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp
dụng một số quy định tại Chương XVIII "Các tội phạm về ma túy" của Bộ luật

Hình sự năm 1999, thì:
"1.4. Trong mọi trường hợp, khi thu giữ được các chất nghi là chất ma túy hoặc
tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy thì đều phải trưng cầu
giám định để xác định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy, tiền chất…".
Căn cứ vào quy định nêu trên, thì trong mọi trường hợp khi thu giữ được các
chất nghi là chất ma túy thì CQCSĐT – Công an quận 7 phải tiến hành trưng cầu
giám định loại, hàm lượng, trọng lượng chất ma túy. Thế nhưng trong vụ án này,
CQCSĐT – Công an quận 7 chỉ tiến hành trưng cầu giám định về "trọng lượng
và tên gọi" của những chất nghi là chất ma túy thu giữ của các bị cáo, Thành
,Thảo và Trung (BL 47 đến 52). Từ trọng lượng được giám định đó, kết luận về
tội danh và mức hình phạt của các bị cáo là không chính xác, không đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo.
Vì vậy, để đảm bảo xét xử công bằng, đúng người, đúng tội thì trước hết phải
tiến hành giám định bổ sung về "hàm lượng" chất Mathamphetamine (MA) trong
các gói ma túy tổng hợp thu giữ được của các bị cáo, từ đó, các cơ quan tiến
hành tố tụng mới có thể xác định chính xác khối lượng chất ma túy mà các bị cáo
vận chuyển, mua bán.
Thứ ba, trong quá trình điều tra và kiểm sát hoạt động điều tra vụ án đã có
những vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục tố tụng về việc tạm giữ, tạm giam
đối với các bị cáo.
Ngày 17/3/2012, thân chủ tôi bị bắt quả tang về hành vi mua bán trái phép chất
ma túy (BL 20), tuy nhiên, từ ngày 17/3/2012 đến khi có Quyết định khởi tố bị


can ngày 22/3/2012, thân chủ tôi mặc dù vẫn bị giam giữ trong suốt 06 ngày để
tiến hành điều tra, lấy lời khai nhưng không có bất kỳ Quyết định tạm giữ
nào.Điều này cũng được lặp lại đối với 02 bị cáo Lê Hy Minh Hải và Lê Quang
Trung. Lê Hy Minh Hải bị bắt giữ ngày 17/3/2012 (BL30), Lê Quang Trung bị
bắt giữ ngày 16/03/2012 (BL 24), nhưng cho đến khi có Quyết định khởi tố bị
can ngày 22/3/2012, hai bị cáo Hải và Trung cũng không nhận được bất kỳ

Quyết định tạm giữ nào.
Những vi phạm về thủ tục tạm giữ nêu trên đã xâm phạm đến quyền tự do, quyền
nhân thân của các bị cáo trong vụ án, thế nhưng, không dừng lại ở đó, từ ngày
thân chủ tôi nận được Quyết định khởi tố bị can ngày (22/3/2012) cho đến khi
Viện kiểm sát nhân dân quận 7 ra Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú ngày 28/5/2012
với lý do thân chủ tôi đang có thai 11 tuần tuổi. Trong khoảng thời gian hơn 2
tháng, thân chủ tôi vẫn bị giam giữ trái pháp luật mà không nhận được bất kỳ
Lệnh tạm giam nào.
Mặt khác , các Lệnh tạm giam của CQĐT –CA quận 7 thi hành chưa được phê
chuẩn của VKS quận7.
Như vậy, với những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục giam giữ, tạm giam
theo quy định tại khoản 1 Điều 83, Điều 86, 87, 88, Bộ luật tố tụng hình sự đã
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bị cáo trong vụ
án, đặc biệt là ảnh hưởng lớn đến tâm lý, sức khỏe của thân chủ tôi – là phụ nữ
đang có thai.
Thứ tư, thân chủ tôi là người có thân nhân tốt, thế nhưng không hiểu vì
sao, Cáo trạng của Viện kiểm sát dựa vào đâu để khẳng định thân chủ tôi là đối
tượng sử dụng ma túy ?
Từ khi còn nhỏ, thân chủ tôi đã chịu nhiều thiệt thòi, không nhận được sự chăm
sóc, yêu thương của cả cha lẫn mẹ, cha mẹ ly hôn sớm, hoàn cảnh khó khăn, bị
cáo Thảo đã phải bỏ học để mưu sinh tứ phương. Với ý chí mạnh mẽ của mình,


thân chủ tôi chưa từng một lần phạm tội, đây là lần đầu tiên thân chủ tôi sa ngã
vào vòng lao lý, luôn cảm thấy ăn năn, day dứt, vì vậy trong suốt quá trình điều
tra cho đến phiên tòa hôm nay, thân chủ tôi luôn thể hiện thái độ khái báo thành
khẩn, để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Trong những lời khai của
thân chủ tôi, cùng tất cả những tài liệu có trong hồ sơ vụ án không có bất kỳ một
chứng cứ nào chứng minh thân chủ tôi là đối tượng sử dụng ma túy. Hơn nữa,
khi thực hiện hành vi phạm tội, thân chủ tôi đang có thai, vì vậy, không một

người mẹ nào lại muốn sử dụng loại ma túy tổng hợp để làm tổn hại đến thai nhi
trong bụng mình. Vậy căn cứ vào đâu mà Cáo trạng của Viện kiểm sát lại khẳng
định thân chủ tôi mua ma túy để sử dụng (BL148)?
Ngoài ra, tại Quyết định khởi tố vụ án hình sự số 84 của CA quận 7 , khởi tố
vụ án “Mua bán trái phép chất ma túy “ do bị can Thành ,Trung, Thảo thực hiên.
Theo đó bị cáo Hải không bị khởi tố trong vụ án này, trong suốt từ điều tra đến
truy tố đều nhất quán truy tố bị cáo Hải về tội mua bán ma túy mà không có bất
kỳ quyết đinh nhập vụ án nào lại ?
Từ những căn cứ nêu trên, có thể nhận thấy, hồ sơ vụ án còn nhiều vấn đề
chưa được làm sáng tỏ, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã chưa làm đúng
trách nhiệm của mình trong hoạt động điều tra và kiểm sát hoạt động điều tra,
đặc biệt về mặt nội dung khi chưa làm sáng tỏ được tình tiết định khung "Phạm
tội nhiều lần", chưa tiến hành giám định hàm lượng chất ma túy mà đã định tội
danh và khung hình phạt với các bị cáo. Về trình tự, thủ tục tố tụng, đã có hàng
loạt những vi phạm trong thủ tục giam giữ, tạm giam, lấy lời khai, hỏi cung bị
can, thậm chí bị cáo Hải còn có dấu hiệu của việc bị bức cung, dùng nhục hình
chưa được xác minh, làm sáng tỏ.
Vì những lẽ trên, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
- quyết định yêu cầu điều tra bổ sung theo quy định tại khoản 2, Điều 199,
Bộ luật tố tụng hình sự , đồng thời kiến nghị với các cá nhân, cơ quan có


thẩm quyền để sửa chữa, khắc phục sai phạm, xử lý kỷ luật đối với những
cá nhân thiếu trách nhiệm trong quá trình điều tra và kiểm sát hoạt động
điều tra.
-

đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận những Biên bản ghi lời khai,
Biên bản hỏi cung cùng những tài liệu khác không hợp lệ, vi phạm trình
tự, thủ tục tố tụng theo quy định pháp luật.


Tôi xin cảm ơn Hội đồng xét xử đã chú ý lắng nghe !



×