Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường từ thực tiễn áp dụng của tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 86 trang )

ĐOÀN VĂN HẠNHLUẬT KINH TẾ2015 - 2017

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ
NAM

ĐOÀN VĂN HẠNH

HÀ NỘI - 2017

1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH HÀ
NAM

ĐOÀN VĂN HẠNH

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ


MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. DƯƠNG THANH AN

HÀ NỘI - 2017
2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
- Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung
thực và chưa từng được sử dụng hoặc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
- Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc./.
Tác giả luận văn

Đoàn Văn Hạnh

3


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã tuân thủ nghiêm túc quy trình và
phương pháp nghiên cứu khoa học; đã bám sát vào mục tiêu, nhiệm vụ và
phạm vi mà đề tài luận văn đặt ra; đồng thời tích cực nghiên cứu, sưu tầm tài
liệu, tranh thủ ý kiến của cán bộ công tác thực tiễn và của các nhà khoa học,
nhờ đó đã giải quyết cơ bản mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đề ra.
Để hoàn thành công trình khoa học này, tác giả xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ nhiệt tình của các nhà khoa học, các chuyên gia, đơn vị thực tiễn

và đặc biệt là xin tỏ lòng biết ơn đến thầy Tiến sĩ Dương Thanh An, người
luôn quan tâm, chỉ dẫn tận tình cho tác giả trong quá trình thực hiện luận văn.
Mặc dù đã rất cố gắng, song do đây là vấn đề khá phức tạp nên luận
văn chắc chắn khó tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết về nội dung và
cách trình bày, tác giả rất mong được sự góp ý của các nhà khoa học, các
đồng nghiệp để bản luận văn được hoàn thiện hơn./.
Hà Nội, tháng 09 năm 2017
Tác giả

Đoàn Văn Hạnh

4


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn
Mở đầu
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI 7
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

7

1.2. Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

10

1.3. Yêu cầu đối với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo 18

vệ môi trường
Chương 2: PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG 22
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH
VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA TỈNH HÀ NAM
2.1. Thực trạng của pháp luật về các biện pháp xử lý vi phạm hành chính 22
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh 39
vực bảo vệ môi trường của tỉnh Hà Nam
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH 54
CHÍNH NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG,
CHỐNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ
MÔI TRƯỜNG TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG CỦA TỈNH HÀ NAM
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính 54
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
3.2. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi 57
phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường từ thực tiễn áp dụng
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
của tỉnh Hà Nam
Kết luận

74

Danh mục tài liệu tham khảo

5


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG ĐỀ TÀI

BLHS


:

Bộ luật hình sự

BVMT

:

Bảo vệ môi trường

CAND

:

Công an nhân dân

CSND

:

Cảnh sát nhân dân

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VPPL


:

Vi phạm pháp luật

VPHC

:

Vi phạm hành chính

XLVPHC

:

Xử lý vi phạm hành chính

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật,
đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, dân tộc và toàn nhân loại.
Giữ cho môi trường trong lành luôn là mối quan tâm toàn cầu. Vì môi trường có trong sạch
lành mạnh thì mới đảm bảo được điều kiện sống của con người, đảm bảo được sự phát
triển của xã hội. Thế nhưng sự tác động ngày càng nhiều của con người đã gây ra những
tác động xấu đến môi trường. Trong số đó, vấn đề ô nhiễm môi trường là vấn đề nóng
bỏng đang ngày càng diễn tiến theo chiều hướng xấu làm nảy sinh những nguy cơ hủy
hoại nghiêm trọng cho môi trường. Do vậy, BVMT gắn liền với sự phát triển bền vững đã

trở thành một nội dung quan trọng trong các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các
quốc gia. BVMT bằng pháp luật là một định hướng cơ bản của hoạt động BVMT ở các
quốc gia trên toàn thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Nhận thức tầm quan trọng
của vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã và đang chú trọng rất nhiều cho công tác xây
dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và chính sách về BVMT. Hoạt động
BVMT của nước ta tuy bắt đầu khá muộn so với nhiều nước nhưng đã đạt được những kết
quả to lớn trong lĩnh vực pháp luật về BVMT. Bằng pháp luật Nhà nước ta đã từng bước
điều chỉnh các hành vi của các cá nhân, tổ chức trong xã hội hướng đến mục tiêu BVMT,
ngăn chặn các hành vi gây ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.
Trên thực tế có khá nhiều văn bản quy phạm pháp luật được Nhà nước ban hành
nhằm mục tiêu BVMT trong đó phải kể đến Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi và bổ
sung năm 2017; Luật bảo vệ môi trường 2014; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Nghị
định 155/2016/NĐ-CP quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường;
các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong từng
vấn đề riêng. Tuy nhiên, thực trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường ở Việt Nam
vẫn diễn ra khá phổ biến, ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và sức khỏe của con
người, ảnh hưởng đến công cuộc phát triển đất nước, trật tự kỉ cương xã hội và gây những
thiệt hại nhất định về kinh tế.

7


Hà Nam, mảnh đất giàu truyền thống văn hiến và cách mạng, có bề dày lịch sử trên
120 năm, có diện tích 859,5 km2, dân số 804.650 người, là cửa ngõ phía Nam của thủ đô
Hà Nội, thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, nằm trên huyết mạch giao thông Bắc Nam với hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy hết sức thuận lợi, cùng với cầu Yên
Lệnh nối đôi bờ sông Hồng, tạo cho Hà Nam lợi thế mới để mở rộng giao lưu hợp tác với
các tỉnh Đông bắc và ra cảng biển Hải Phòng. Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Hà Nam giai đoạn 2016 - 2020 là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa nông nghiệp theo
hướng hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp nâng cao giá
trị gia tăng, chuyển dịch mạnh lao động nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ,

làm nền tảng để xây dựng Hà Nam phát triển nhanh và bền vững; phấn đấu tổng sản phẩm
trong tỉnh (GDP) tăng bình quân 10%/năm, GDP bình quân đầu người đến năm 2020 đạt
80,9 triệu đồng/người, thu ngân sách tăng bình quân 15%/năm; phát triển mạnh thương
mại, dịch vụ tạo động lực thúc đẩy phát triển công nghiệp, đô thị và đưa Hà Nam trở thành
trung tâm dịch vụ chất lượng cao cấp vùng về y tế, giáo dục và đào tạo vào năm 2020; đẩy
mạnh cải cách thủ tục hành chính, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các cơ chế, chính sách vào
thực tiễn của tỉnh, nâng cao năng lực cạnh tranh; phát triển toàn diện lĩnh vực văn hóa - xã
hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, đảm
bảo môi trường, an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, nhất là dân cư nông thôn.
Song song với đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội là tăng cường, giữ vững ổn định quốc
phòng - an ninh. Chính vì vậy, Hà Nam đặc biệt quan tâm đến chiến lược trong các lĩnh
vực kinh tế - xã hội trong đó là vấn đề môi trường. Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực bảo vệ môi trường cho thấy, các cơ quan chủ quản đặc biệt là Sở tài
nguyên môi trường tỉnh Hà Nam đã vận dụng rất tốt các văn bản về xử phạt VPHC trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường ở Hà Nam đối với các hành vi vi phạm pháp luật về BVMT
trên địa bàn tỉnh Hà Nam. Sở tài nguyên môi trường tỉnh Hà Nam đã tham mưu đề xuất
cho UBND tỉnh ban hành rất nhiều văn bản để răn đe cưỡng chế những hành vi vi phạm
pháp luật về môi trường đối với các cá nhân tổ chức đặc biệt là Quyết định số
33/2015/QĐ-UBND về việc Ban hành Quy định bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Hà
Nam ngày 25 tháng 12 năm 2015 đã chỉ rõ các hành vi VPPL môi trường diễn ra khá phức

8


tạp trong nhiều lĩnh vực như: sản xuất công nghiệp, vấn đề đô thị , xây dựng cơ bản, vệ
sinh an toàn thực phẩm, khai thác tài nguyên cát sỏi lòng sông…
Vì vậy, để tăng cường hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, vi phạm
pháp luật về môi trường việc hoàn thiện hệ thống về xử lý VPHC trong lĩnh vực BVMT
từ thực tiễn áp dụng của tỉnh Hà Nam theo hướng đồng bộ, thống nhất và hợp lý là một đòi
hỏi khách quan, là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Xuất phát từ nguy cơ môi trường của toàn cầu, từ vai trò của pháp luật về xử lý
VPHC trong lĩnh vực BVMT cũng như từ thực tiễn áp dụng của tỉnh Hà Nam tôi đã chọn
đề tài: “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường từ thực
tiễn áp dụng của tỉnh Hà Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình với mong muốn
đóng góp một phần khiêm tốn nhằm khắc phục những hạn chế thiếu sót của pháp luật về
xử phạt VPPH trong lĩnh vực BVMT nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống
VPPL về BVMT.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật xử
phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn
tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này của tỉnh Hà Nam nhằm tìm ra những ưu
điểm, hạn chế, bất cập, vướng mắc của chúng. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá
thực trạng luận văn sẽ đề xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về xử lý VPHC trong lĩnh vực BVMT của tỉnh Hà Nam, hướng tới mục tiêu hoàn thiện
pháp luật hiện hành về xử phạt VPHC trong lĩnh vực BVMT và nâng cao hiệu quả công
tác đấu tranh phòng, chống VPPL trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
3. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua đã có một số công trình khoa học liên quan đến đề tài nghiên
cứu của luận văn, tiêu biểu là:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện các quy định pháp luật về các biện pháp xử
phạt vi phạm hành chính” của tác giả Nguyễn Trọng Bình, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2000) phân tích các hình thức xử phạt vi phạm hành chính được đề cập trong các văn bản

9


pháp luật, những ưu điểm và hạn chế của chúng khi áp dụng trong thực tiễn và kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này.
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện chế định thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính” của tác giả Nguyễn Thị Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001) đi sâu phân tích

thực trạng pháp luật về thẩm quyền của các chủ thể được xử lý vi phạm hành chính và nêu
ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính.
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với
người chưa thành niên” của tác giả Nguyễn Ngọc Bích, Trường Đại học Luật Hà Nội
(2003) đề cập đến những nguyên tắc, thực trạng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối
với người chưa thành niên và đề ra giải pháp hoàn thiện những quy định pháp luật trong
lĩnh vực này.
Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận, thực tiễn và phương
hướng hoàn thiện” của tác giả Vũ Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội (2009)
nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Ngoài ra, còn có các bài viết đăng tải trên Tạp chí luật học như: “Thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính” của tác giả Bùi Thị Đào; “Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính
- Những bất cập, hạn chế và phương hướng hoàn thiện” của tác giả Bùi Xuân Đức; “Một
số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Lê Vương
Long; “Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính - Thực trạng quy định, thực tiễn áp dụng
và hướng hoàn thiện” của tác giả Trần Minh Hương...
Trong các công trình nghiên cứu trên đây, trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn
có liên quan, các tác giả chỉ giới thiệu, phân tích, đánh giá về pháp luật và thực tiễn hoạt
động xử phạt vi phạm hành chính nói chung hoặc ở một số lĩnh vực quản lý nhà nước khác
chứ không đề cập chuyên sâu về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
từ thực tiễn áp dụng của tỉnh Hà Nam. Do vậy, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề
này nhằm cung cấp các luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật xử

10


phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT từ đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống vi phạm trong lĩnh vực BVMT.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thi hành pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT của tỉnh Hà Nam; và các quan
điểm khoa học có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu: BVMT là nhiệm vụ vừa phức tạp, vừa cấp bách, có tính đa
ngành và liên vùng rất cao. Vì vậy, vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT vô cùng
phong phú, đa dạng và công tác xử lý cũng cực kỳ khó khăn và phức tạp, nhất là trong điều
kiện đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay.
Do đó, trong luận văn này, tôi chỉ tập trung chủ yếu vào các quy định của Luật BVMT
năm 2014; Luật xử lý vi phạm hành chính 2012; Nghị định 155/2016/NĐ-CP quy định về
xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; các nghị định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường và một số quy định khác có liên quan cũng
như thực tiễn thi hành các quy định này. Mặt khác, luận văn cũng không đề cập tới toàn bộ
nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính mà tập trung vào một số nội dung
cơ bản bao gồm: quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử phạt, mức phạt, các biện pháp
khắc phục hậu quả, thẩm quyền xử phạt và thủ tục xử phạt.
Thời gian tiến hành khảo sát: 5 năm từ 2013 đến 6 tháng đầu năm 2017
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh
về Nhà nước và Pháp luật; các tư tưởng, quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng và
chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng Nhà
nước pháp quyền và về vấn đề BVMT, đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích các quan
điểm khoa học có liên quan để giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về vi phạm hành
chính, xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong lĩnh vực về BVMT nói riêng.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh... để nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành, thực tiễn áp dụng pháp luật
và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

11



trong lĩnh vực BVMT, nâng cao một bước hiệu lực, hiệu quả nhằm ngăn chặn và xử lý
nghiêm minh mọi hành vi vi phạm hành chính, tăng cường trật tự kỷ cương trong quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong thời gian qua đã có rất nhiều đề tài, luận văn nghiên cứu về pháp luật xử phạt
vi phạm hành chính, tuy nhiên đây là một công trình khoa học nghiên cứu pháp luật một
cách tương đối toàn diện và hệ thống về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT từ thực tiễn áp dụng của tỉnh Hà Nam.
Luận văn không những chỉ rõ được những bất cập trong các quy định của pháp luật
mà còn tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BVMT của tỉnh Hà Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị có thể là
ý kiến đóng góp cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT và nâng cao hiệu quả của công tác xử phạt vi phạm hành chính trên
thực tế.
7. Cơ cấu của luận văn
Để giải quyết các yêu cầu đặt ra, ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 3 chương:
Chương I. Một số vấn đề lý luận về pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường
Chương II. Pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lývi phạm
hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường của tỉnh Hà Nam
Chương III. Hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm hành chính nhằm nâng cao
hiệu quả đấu tranh phòng, chống vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường từ thực tiễn áp dụng của tỉnh Hà Nam

12


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM

HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1.1 Vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
1.1.1 Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
Vi phạm hành chính xảy ra khá phổ biến trong đời sống xã hội, đặc biệt
trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế như hiện
nay. Với số lượng xảy ra đáng kể, mang tính thường xuyên, vi phạm hành chính đã
và đang gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi
ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng và là nguyên nhân
làm nảy sinh tình trạng phạm tội nếu không được ngăn chặn và xử lý kịp thời.
Xây dựng định nghĩa vi phạm hành chính có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
quan trọng. Định nghĩa này giúp chúng ta nhận thức được sự khác biệt giữa vi phạm
hành chính với các loại vi phạm pháp luật khác. Trên cơ sở đó, có thể xác định
chính xác các vi phạm hành chính cụ thể, đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi nhằm xử lý nghiêm minh, triệt để, đúng pháp luật loại
vi phạm pháp luật này. Khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên được định
nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày
30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm hành chính là hành vi do
cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý Nhà
nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử
phạt hành chính”. Theo Khoản 1, Điều 2 Luật xử lý VPHC 2012 thì “VPHC là
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt vi phạm hành chính”. Một quan điểm khác cho rằng “ VPHC là hành vi do
chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính”1
1

Đại học Luật Hà nội, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, 2015, tr.212


13


Tuy có sự khác nhau về cách diễn đạt song các quan điểm trên đều thống
nhất ở dấu hiệu chung như: VPHC là hành vi vi phạm trật tự hành chính của thể
nhân, pháp nhân nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự; chủ thể
thực hiện hành vi VPHC là cá nhân hoặc tổ chức và hành vi thực hiện là hành vi có
lỗi cố ý hoặc vô ý; theo quy định phải bị xử phạt hành chính.
Nếu khái niệm VPHC được tiếp cận dưới tư cách là cái chung thì khái niệm
VPHC trong lĩnh vực BVMT được tiếp cận là VPHC trong một lĩnh vực cụ thể.
Trên cơ sở các phân tích và khái niệm VPHC nói chung, có thể hiểu khái niệm
VPHC trong lĩnh vực BVMT như sau: VPHC trong lĩnh vực BVMT là hành vi trái
pháp luật do chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
hại trật tự quản lý hành chính nhà nước về BVMT nhưng chưa gây thiệt hại hoặc đã
gây thiệt hại đến môi trường nhưng chưa đến mức bị xử lý bằng các biện pháp hình
sự và theo qui định của pháp luật phải bị xử lý bằng biện pháp chế tài hành chính.
1.1.2 Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Ngoài những dấu hiệu chung của vi phạm hành chính, vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT cũng có những nét đặc thù cần được lưu ý.
Thứ nhất, tính chất phong phú đa dạng của các vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT.
Do môi trường được tạo thành bởi nhiều thành phần môi trường nên hoạt
động BVMT được pháp luật quy định rất đa dạng và phong phú, bao gồm hoạt động
BVMT nói chung và hoạt động bảo vệ từng thành phần môi trường nói riêng. Điều
này cũng sẽ dẫn đến sự phong phú, đa dạng của các vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BVMT. Ngoài hành vi vi phạm các quy định pháp luật về BVMT nói chung
còn có các hành vi vi phạm quy định pháp luật về BVMT trong từng thành phần
môi trường nói riêng như: hành vi gây ô nhiễm môi trường nước; hành vi vi phạm
các quy định về quản lý chất thải; các hành vi vi phạm các quy định về BVMT
trong hoạt động nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải,

nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, phế liệu...

14


Do tính chất này, vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT không chỉ được quy
định tại một văn bản quy phạm pháp luật chung về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT mà còn được quy định ở một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Đây
là những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt vi phạm hành chính xâm phạm
đến từng yếu tố, thành phần môi trường như: Nghị định số 33/2017/NĐ-CP ngày
03/04/2017 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và
khoáng sản; Nghị định số 115/2016/NĐ-CP ngày 08/07/2016 Nghi định sửa đổi một số
điều của Nghị định 163/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ Quy
định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa chất, phân bón, vật liệu nổ công
nghiệp; Nghị định số 41/2017/NĐ-CP ngày 05 tháng 04 năm 2017 Nghị định sửa đổi bổ
sung một số điều của các nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thủy
sản, lĩnh vực thú ý, giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, quản lý rừng, phát triển rừng, bảo
vệ rừng và quản lý lâm sản;...
Thứ hai, vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT phần lớn đều liên quan
đến các quy định mang tính kỹ thuật và đặc trưng cho việc quản lý và BVMT.
Khi quy định vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT, người ta thường sử
dụng “kết cấu dẫn chiếu”. Để xác định vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
phải xác định xem hành vi đó có vi phạm các quy định về khai thác, sử dụng nguồn
tài nguyên thiên nhiên và BVMT hay không. Những quy định này thường nằm rải
rác ở những văn bản pháp luật chuyên ngành khác nhau. Ví dụ, muốn khẳng định
hành vi vi phạm về thải khí, bụi theo Điều 15 Nghị định số 155/2016/NĐ-CP thì cần
căn cứ trên cơ sở giới hạn tối đa được phép thải các chất độc hại và không khí. Giới
hạn này được quy định cụ thể trong Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công
nghiệp đối với một số chất hữu cơ (QCVN 20:2009/BTNMT) hay trong Quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về khí thải lò đốt chất thải rắn y tế (QCVN 02:2008/BTNMT) do

Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành.
Thứ ba, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT phụ thuộc chủ yếu vào những thiệt hại mà hành vi đó gây ra
cho môi trường, sức khỏe và tính mạng của con người nhưng việc xác định những

15


thiệt hại này không phải là công việc đơn giản. Lý luận cũng như thực tiễn cho thấy
việc xác định các thiệt hại về môi trường gặp rất nhiều khó khăn và điều này xuất
phát từ nhiều lý do. Trước hết, thiệt hại do môi trường gây ra rất khó chứng minh
đầy đủ. Do môi trường được cấu thành bởi rất nhiều thành phần khác nhau, có mối
liên hệ mật thiết và tác động tương hỗ lẫn nhau nên một hành vi vi phạm hành chính
về BVMT có thể gây ra nhiều thiệt hại: thiệt hại đối với từng thành phần môi trường
cũng như đối với tổng thể môi trường, thiệt hại đối với tài sản, sức khỏe, tính mạng
của con người. Đồng thời, do môi trường là đối tượng khai thác, sử dụng của rất
nhiều người nên trên thực tế có những thiệt hại về môi trường có thể do sự tác động
đồng thời của nhiều người, nhiều nguyên nhân gây nên và những tác động này
thường mang tính tiềm ẩn, đan xen. Thêm vào đó, trong một số trường hợp không
thể xác định được ngay mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và hậu quả xảy
ra, vì hậu quả xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân gây nên hoặc hậu quả không xảy
ra ngay sau khi có hành vi vi phạm mà phải trải qua một thời gian rất dài mới xuất
hiện (ví dụ: các trường hợp bị nhiễm chất độc hóa học...).
1.2 Xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
1.2.1 Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Cho đến nay, trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật hành chính nói
riêng, khái niệm XLVPHC chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm luận giải một cách
thấu đáo. Xét dưới góc độ xã hội thì xử lý các vi phạm trong xã hội thuộc trách nhiệm
của cả cộng đồng, trong đó có nhà nước. Xem xét thuật ngữ XLVPHC phải bắt đầu đi
từ thuật ngữ “xử lý VPPL” nói chung. Trong Đại từ điển Tiếng Việt, thuật ngữ “ xử

lý” được thể hiện qua cụm từ như: “xem xét và giải quyết một vụ phạm lỗi nào đó
như xử lí các vụ vi phạm pháp luật”.2, theo đó ở góc độ chung nhất XLVPHC cũng
có thể hiểu nó luôn gắn với một vụ trái pháp luật hành chính cụ thể của đối tượng cụ
thể, đòi hỏi chủ thể có thẩm quyền là nhà nước phải xem xét và giải quyết vụ vi
phạm pháp luật hành chính cụ thể đó.
Về phương diện lý luận pháp lý, XLVPHC là việc chủ thể có thẩm quyền nhà
2

Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2002, tr.639.

16


nước áp dụng các biện pháp xử lý hành chính cụ thể đối với chủ thể thực hiện hành vi vi
phạm hành chính trên thực tiễn nhằm bảo vệ và duy trì trật tự quản lý hành chính nhà
nước trên các lĩnh vực. Thực chất, XLVPHC là hoạt động thực thi pháp luật nhằm bảo
vệ pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền quản lý hành chính nhà nước. Dưới góc độ
tiếp cận như vậy, có một số quan điểm về XLVPHC như sau:
Quan điểm thứ nhất, một số nhà khoa học đã đồng nhất XLVPHC với “trách
nhiệm hành chính theo nghĩa tiêu cực”, có nội hàm “đó là sự phản ứng tiêu cực đối
với người thực hiện VPHC, kết quả là chủ thể thực hiện VPHC phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi, thiệt hại về vật chất và tinh thần so với tình trạng ban đầu
của họ.3
Trong quan điểm trên, khi đồng nhất XLVPHC với trách nhiệm hành chính tiêu
cực của chủ thể VPHC là chưa thoả đáng. Nói đến trách nhiệm hành chính người ta chỉ
nói đó là phản ứng của nhà nước đối với người vi phạm hành chính và trách nhiệm
hành chính là một chế định của luật hành chính. Còn XLVPHC không phải là một chế
định của luật hành chính mà nó là hoạt động áp dụng pháp luật hành chính của chủ thể
có thẩm quyền quản lý nhà nước. Hơn nữa, quan niệm XLVPHC – gánh chịu hậu quả
bất lợi đối với người vi phạm không thể hiện đặc điểm áp dụng pháp luật đối với đối

tượng vi phạm hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân được trao quyền
hành chính. XLVPHC hướng đến việc nhà nước phải áp dụng pháp luật để truy cứu
trách nhiệm hành chính đối với chủ thể vi phạm chứ không phải việc chủ thể VPHC
phải chịu hậu quả bất lợi. Nói cách khác, kết quả của XLVPHC chính là việc chủ thể vi
phạm phải gánh chịu hậu quả bất lợi như thế nào?.
Quan điểm thứ hai, xử lý vi phạm pháp luật nói chung (trong đó có vi phạm
hành chính) thực chất là hoạt động truy cứu trách nhiệm pháp lý qua việc phân
tích sự khác nhau về nội hàm của hai khái niệm trách nhiệm pháp lý và truy cứu
trách nhiệm pháp lý. Trong đó trách nhiệm pháp lý là việc chủ thể phải gánh chịu
hậu quả bất lợi do có hành vi vi phạm pháp luật, còn xử lý vi phạm pháp luật là
việc chủ thể có thẩm quyền của nhà nước tiến hành các biện pháp cần thiết để
3

PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt, Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, tr.395

17


buộc chủ thể vi phạm phải chịu hậu quả bất lợi.Theo quan điểm này, nội hàm của
khái niệmxử lý vi phạm pháp luật, (trong đó có XLVPHC) được xác định “là sự
áp dụng những biện pháp cưỡng chế của nhà nước với những chế tài pháp luật cụ
thể, là một quá trình hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc
xem xét và giải quyết những vụ việc vi phạm pháp luật (trong đó có VPHC), đồng
thời tổ chức thực hiện những quyết định giải quyết” 4 . Nếu đặt khái niệm
XLVPHC với nội dung của quan điểm trên trong quá trình thi hành pháp luật của
chủ thể mang quyền lực nhà nước để xem xét thì có thể quan niệm này đã xem
XLVPHC chỉ là quá trình xem xét và giải quyết, tổ chức thực hiện quyết định xử
lý, không coi hoạt động phát hiện ra vi phạm hành chính là nội dung của khái
niệm. Đồng thời, XLVPHC hoàn toàn tách biệt với hoạt động xác minh VPHC,
trong khi đó, xác minh VPHC là hoạt động liên quan trực tiếp, mật thiết ảnh

hưởng đến chất lượng của việc XLVPHC, do đó có thể dẫn đến sự phiến diện,
thiếu đầy đủ trong việc nghiên cứu những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
của hoạt động XLVPHC.
Quan điểm thứ ba, XLVPHC là xử phạt vi phạm hành chính. Trong cách tiếp
cận, quan niệm “XLVPHC – phạt hành chính” đã phản ánh được mối quan hệ giữa
một bên là sự phản ứng cơ quan nhà nước có thẩm quyền qua việc áp dụng các biện
pháp chế tài phạt hành chính và bên kia là đối tượng VPHC. Tuy nhiên, biện pháp
phạt chủ yếu hướng đến trừng phạt chưa đạt được mục đích khôi phục lại trật tự
quản lý hành chính nhà nước đã bị phá vỡ do VPHC. Nếu quan niệm XLVPHC là
xử phạt hành chính thì dẫn đến việc coi nhẹ các biện pháp khôi phục hành chính,
điều đó làm cho mục đích XLVPHC không được bảo đảm. Do đó, XLVPHC là khái
niệm rộng, bao trùm, trong đó biện pháp xử phạt hành chính và áp dụng các biện
pháp khôi phục hành chính là hai “nhánh” chế tài xử lý vi phạm hành chính có sự
khác biệt nhất định.
Quan điểm thứ tư, Luật xử lý VPHC của Việt Nam hiện hành không định
nghĩa trực tiếp XLVPHC nhưng trong phạm vi điều chỉnh của Luật đã gián tiếp đề
4

Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (1995), Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, Tập
1, Nxb Chính trị quốc gila, Hà nội, tr.145

18


cập đến XLVPHC, theo đó: “XLVPHC là việc áp dụng xử phạt hành chính và biện
pháp xử lý hành chính” 5. Trong đó, xử phạt vi phạm hành chính là việc người có
thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối
với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính. Biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được
áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà

không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa
vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc. Quan niệm này cho thấy, tên của Luật được xác định theo nghĩa
rộng (Luật XLVPHC), trong khi biện pháp xử lý đối với vi phạm hành chính lại
chia thành hai loại: biện pháp xử phạt và biện pháp xử lý hành chính. Vấn đề đặt ra
nếu xác định VPHC là cơ sở của XLVPHC thì biện pháp chế tài XLVPHC chỉ cần
là phạt hành chính, khôi phục hành chính là đủ. Nếu theo cách tiếp cận của luật thì
biện pháp phạt hành chính được tiếp cận theo nghĩa hẹp, còn biện pháp xử lý hành
chính được hiểu theo nghĩa rộng (theo tên của Luật), nên đã dẫn đến sự lộn xộn
trong xác định phạm vi tác động của Luật. Thực chất, vi phạm pháp luật thuộc
trường hợp áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đều là vi phạm hình sự nhỏ,
phải được áp dụng theo thủ tục xử lý tư pháp đặc biệt. Việc xem các trường hợp, đối
tượng vi phạm hình sự nhỏ thuộc phạm vi của Luật XLVPHC đã dẫn đến hành
chính hóa các quan hệ hình sự, làm cho cách định nghĩa về XLVPHC trở lên mâu
thuẫn và không đúng tính chất xử lý hành chính.
Mặc dù chưa có quan niệm chung về XLVPHC nhưng nhìn chung XLVPHC đã
được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong các quan điểm cũng đã nêu lên
những nội dung cơ bản có liên quan đến XLVPHC như khẳng định: XLVPHC là hoạt
động áp dụng một số biện pháp cưỡng chế hành chính của chủ thể mang quyền lực
hành chính nhà nước trong trường hợp có VPHC trên thực tế xảy ra. Về cơ bản chúng
tôi thống nhất với khẳng định trên. Tuy nhiên, có một số vấn đề cần trao đổi thêm để có
được cái nhìn toàn diện và thấu đáo về đặc điểm XLVPHC. Đó là:
5

Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, Hà nội.

19


Thứ nhất, cơ sở của XLVPHC là việc thực hiện hành vi có dấu hiệu của

VPHC trên thực tế nhưng đã được qui phạm pháp luật hành chính dự liệu từ trước.
XLVPHC lấy việc đối tượng cần tác động có phải là VPHC hay không để làm
chuẩn xử lý. Do đó, để XLVPHC trước hết đòi hỏi các chủ thể có thẩm quyền xử lý
phải xem xét đã có VPHC xảy ra hay chưa.
Thứ hai, XLVPHC là quá trình bao gồm hệ thống các hành vi (hoạt động) của
các chủ thể mang quyền lực nhà nước để lựa chọn biện pháp xử lý hành chính với
tính cách là kết cục cuối cùngmà chủ thể VPHC phải nhận lấy theo quan hệ nhân –
quả tương ứng với tính chất VPHC mà họ đã thực hiện. Bao gồm từ phát hiện ra
VPHC về BVMT đến tổ chức thực hiện quyết định xử lý VPHC về BVMT.
Xử lý VPHC có quan hệ trực tiếp đến quyền con người, quyền sở hữu tài sản
của cá nhân, tổ chức nên nó phải được tiến hành theo những giai đoạn cụ thể với trình
tự, thủ tục, cách thức thực hiện do pháp luật hành chính quy định. Quá trình phát sinh
nghĩa vụ của cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền hành chính trong XLVPHC
phải bắt đầu từ khi có VPHC và kết thúc khi VPHC đó được giải quyết triệt để, gồm
các giai đoạn: phát hiện VPHC; xác minh vi phạm hành chính; ra văn bản xử lý VPHC;
thực hiện văn bản xử lý VPHC; cưỡng chế thi hành quyết định xử lý vi phạm hành
chính. Mỗi giai đoạn đều có những giới hạn hành vi nhất định mà chủ thể có thẩm
quyền xử lý phải tôn trọng để tránh sự lạm quyền. Đồng thời, khi XLVPHC đòi hỏi chủ
thể có thẩm quyền phải lựa chọn đúng đắn các thủ tục xử lý hành chính tương ứng với
từng loại VPHC nhằm bảo đảm tính đúng đắn trong việc xử lý VPHC. Nếu lựa chọn
không đúng thủ tục hoặc thiếu các bước trong trình tự thủ tục thì việc xử lý bị coi là vi
phạm và kết quả xử lý VPHC không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thừa nhận
và cấp có thẩm quyền sẽ huỷ bỏ kết quả giải quyết.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền XLVPHC thường thuộc về hệ thống cơ quan
thực hiện quyền hành pháp nhà nước (cơ quan hành chính nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền hành chính) và được thực hiện theo thủ tục hành chính đơn giản hơn so
với thủ tục tố tụng được áp dụng trong lĩnh vực tư pháp. Giữa cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xử lý và cá nhân, tổ chức bị xử lý không có sự lệ thuộc về mặt tổ chức.

20



Thứ tư, các biện pháp chế tài XLVPHC đều hướng đến việc buộc chủ thể
VPHC phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi tương ứng với VPHC gây ra, thể hiện tính
chất là kết cục cuối cùng dành cho chủ thể VPHC. Nó có thể là biện pháp xử phạt
về mặt vật chất hoặc tinh thần đối với chủ thể VPHC hoặc là biện pháp hướng đến
khôi phục lại trật tự quản lý nhà nước về BVMT đã bị xâm hại. Trong đó, các biện
pháp phạt sẽ gây cho chủ thể vi phạm hậu quả bất lợi, nhưng so với biện pháp xử
phạt hình sự, độ nghiêm khắc của biện pháp phạt hành chính thấp hơn nhiều. Các
biện pháp khôi phục hành chính có tính chất “đền bù” của biện pháp xử lý dân sự
nhưng nó được áp dụng trong quan hệ với một bên là Nhà nước nên luôn mang
quyền lực nhà nước.
Thứ năm, mục đích của XLVPHC là nhằm trừng phạt chủ thể VPHC, giáo dục,
phòng ngừa, khôi phục lại trật tự quản lý hành chính đã bị xâm phạm.
Từ những điều trình bày ở trên, có thể quan niệm, XLVPHC là hệ thống hoạt
động của chủ thể có thẩm quyền theo qui định của pháp luật áp dụng các biện pháp
chế tài xử lý hành chính đối với chủ thể vi phạm hành chính theo thủ tục hành chính
nhằm buộc chủ thể VPHC phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về vật chất, tinh
thần tương ứng với vi phạm mà họ gây ra.
Trên cơ sở xem xét XLVPHC với tư cách là cái chung, còn xem xét
XLVPHC trong lĩnh vực BVMT là xem xét cái riêng, trong một lĩnh vực cụ thể.
Theo đó, khái niệm XLVPHC trong lĩnh vực BVMT được hiểu là “là hệ thống các
hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền hành chính áp
dụng những biện pháp xử phạt hành chính và khôi phục hành chính đối với chủ thể
VPHC trong lĩnh vực BVMT theo thủ tục hành chính nhằm bảo vệ, duy trì trật tự
quản lý nhà nước trong lĩnh BVMT”
1.2.2 Đặc thù của xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
Ngoài những đặc điểm chung giống như xử lý vi phạm hành chính trong các
lĩnh vực khác, xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT có những đặc thù gắn
liền với những đặc thù của loại vi phạm này như đã phân tích ở phần trên, cụ thể:


21


Một là, do vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT phần lớn đều gắn với
các quy định mang tính kỹ thuật và đặc trưng cho việc quản lý và BVMT nên để có
thể xử phạt đúng đắn loại vi phạm này cần phải vận dụng chính xác các quy phạm
pháp luật môi trường, trong đó đặc biệt là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về môi
trường. Xuất phát từ điều này, khi xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
hầu như đều phải thực hiện thủ tục giám định chất lượng môi trường. Đây là một hoạt
động mang tính nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật cao nhưng lại là cơ sở để xác định vi
phạm hành chính về BVMT và đánh giá tính chất, mức độ vi phạm gây ra. Ý kiến
chuyên môn này của bộ phận giám định, vì thế, có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Cũng chính từ đặc thù nói trên mà hoạt động xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BVMT hầu hết được thực hiện trên cơ sở tiến hành các đợt kiểm tra,
thanh tra về môi trường bao gồm, thanh tra đột xuất, thanh tra định kỳ theo quý,
hoặc năm. Đây là một điểm đặc trưng của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BVMT so với xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước khác.
Hai là, do vi phạm hành chính về BVMT phong phú và đa dạng, cho nên xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT được quy định trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau. Có những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt hành
chính mang tính hệ thống (Nghị định số 155/2016/NĐ-CP ngày 18 tháng 11 năm
2016 Nghị định về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường),
cũng có những văn bản quy phạm pháp luật quy định xử phạt hành chính mang tính
riêng lẻ theo từng thành phần của môi trường (Ví dụ: Nghị định 33/2017/NĐ-CP
ngày 03 tháng 04 năm 2017 Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định 41/2017/NĐ-CP ngày 05 tháng 04
năm 2017 Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động thủy sản; lĩnh vực thú ý, giống vật nuôi, thức ăn

chăn nuôi; quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; Nghị định
119/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2017 quy định về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị

22


định 90/2017/NĐ-CP ngày 30 tháng 07 năm 2017 quy định xử phạt hành chính
trong lĩnh vực thú y…)
Ba là, do đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT nên khi xử
phạt loại vi phạm này việc phân định giữa tội phạm môi trường và vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BVMT cũng có nhiều vấn đề cần lưu tâm.
Vi phạm hành chính và tội phạm trong lĩnh vực BVMT đều là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội và chứng chỉ khác nhau ở “mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi”. Hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT ít nguy hiểm cho xã
hội hơn so với hành vi bị coi là tội phạm về môi trường. Để xác định mức độ nguy
hiểm khác nhau cho xã hội của vi phạm hành chính và tội phạm nói chung, có thể
dựa trên những tiêu chí chung như tính chất của khách thể bị xâm hại, đặc điểm cá
nhân của chủ thể vi phạm, tính chất và mức độ lỗi, động cơ, mục đích vi phạm, mức
độ thiệt hại do vi phạm hành chính gây ra, mức độ tái phạm. Trong lĩnh vực BVMT,
việc nhìn nhận, đánh giá những tiêu chí này cũng có những điểm đặc thù.
Về dấu hiệu “đã bị xử phạt hành chính”: cần nhận thức rằng môi trường là
một thể thống nhất, các bộ phận của nó không thể tồn tại độc lập với nhau và với
môi trường nói chung. Ý thức BVMT không thể chỉ là ý thức đối với một bộ phận
cấu thành nào đó của môi trường. Để nâng cao ý thức và trách nhiệm giữ gìn,
BVMT của mọi người, việc áp dụng những biện pháp chế tài có tính chất cứng rắn
như chế tài hình sự đối với các hành vi xâm hại môi trường là điều cần được quan
tâm. Vì vậy, nhìn chung dấu hiệu tái phạm thông thường được hiểu là cá nhân hay
tổ chức đó đã bị xử phạt hành chính đối với hành vi xâm hại môi trường nói chung
mà vẫn tiếp tục vi phạm trong lĩnh vực BVMT chứ không nhất thiết phải là những

hành vi vi phạm cùng loại.
Về dấu hiệu “mức độ thiệt hại trực tiếp của hành vi”: Đây là tiêu chí mang
tính chất tương đối, rất khó xác định chính xác vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
như: tính chất của hành vi, quy mô của hành vi, thiệt hại vật chất, khả năng khắc
phục những thiệt hại cho môi trường... Đặc biệt, như đã nêu ở phần trên, trong lĩnh
vực môi trường, việc đánh giá mức độ của thiệt hại có những đặc thù riêng. Do đó

23


sẽ không hợp lý nếu chỉ đơn giản áp dụng những quy định của pháp luật xác định
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi vi phạm để khẳng định hành vi vi phạm
đó là vi phạm hành chính hay tội phạm về môi trường mà cần xem xét, đánh giá
tổng hợp nhiều yếu tố có liên quan.
1.3 Yêu cầu đối với pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo vệ môi trường
Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò rất quan trọng, nó là phương tiện
không thể thiếu bảo đảm cho sự tồn tại, vận hành của xã hội. Pháp luật là cơ sở để
thiết lập, củng cố và tăng cường quyền lực nhà nước, là phương tiện để Nhà nước
quản lý kinh tế - xã hội.
Pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT là tổng thể các
quy phạm pháp luật do các chủ thể có thẩm quyền ban hành quy định về vi phạm
hành chính, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT. Là một bộ phận của
pháp luật nói chung, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT
cũng có vai trò rất quan trọng trong công tác phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả đối
với các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT ở nước ta, giữ vững ổn định, trật
tự an toàn xã hội để phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh hội nhập quốc tế như
hiện nay. Do vậy, việc hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT là một yêu cầu khách quan luôn được nhằm bảo đảm chất lượng,
hiệu quả của việc điều chỉnh pháp luật đối với các vấn đề phát sinh của hoạt động

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT.
Một cách khái quát, hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT phải bảo đảm cả yêu cầu về tính hợp pháp lẫn yêu cầu về tính hợp lý.
Bảo đảm yêu cầu về tính hợp pháp
Tính hợp pháp đã đặt ra yêu cầu là phải ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT có nội dung phù hợp
với pháp luật, đúng thẩm quyền và đúng trình tự, thủ tục ban hành, cụ thể là:
Thứ nhất, văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BVMT của cấp dưới phải phù hợp văn bản của cấp trên, văn bản của cơ

24


quan có thẩm quyền chuyên môn phải phù hợp với văn bản của cơ quan có thẩm
quyền chung, văn bản của cơ quan hành chính phải phù hợp với văn bản của cơ
quan quyền lực nhà nước cùng cấp và văn bản của các cơ quan ở cùng cấp ban hành
không được trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn về nội dung. Đặc biệt, việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BVMT phải tính đến sự phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt
Nam đã ký kết hoặc tham gia.
Thứ hai, văn bản quy phạm pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BVMT phải được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền. Nếu pháp luật xử lý
vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT không được ban hành đúng thẩm quyền,
nó bị coi là trái pháp luật và không có hiệu lực áp dụng.
Thứ ba, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT phải được
ban hành đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định nhằm đảm bảo
tính trật tự, thống nhất của hệ thống pháp luật. Việc ban hành đúng trình tự, thủ tục
và hình thức có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bởi nó liên quan tới việc bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền, tự do và lợi ích hợp pháp của công dân. Nếu ban hành không
đúng thủ tục sẽ có thể làm ảnh hưởng đến chất lượng của các văn bản và việc bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, ảnh hưởng đến trật tự quản lý hành chính
nhà nước trong lĩnh vực BVMT.
Đảm bảo yêu cầu về tính hợp lý
Thứ nhất, pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực BVMT phải bảo
đảm đồng bộ được lợi ích của Nhà nước, cộng đồng cũng như quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức. Nếu chỉ tính đến lợi ích của Nhà nước mà đề ra những
hình thức xử phạt cao, thủ tục phức tạp, rườm rà, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của người dân thì pháp luật sẽ không đi vào cuộc sống. Tuy nhiên, nếu
quy định mức xử phạt không phù hợp sẽ không bảo đảm ý nghĩa giáo dục, khi đó
pháp luật sẽ phản tác dụng, những hành vi vi phạm chưa chắc đã giảm mà lại nảy
sinh nhiều tiêu cực từ những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật.

25


×