Những đặc sắc của văn hóa Thăng Long - Hà Nội
Thiếu nữ bên cây phù dung - tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí
Văn hóa Đại Việt khởi phát và hoàn mỹ ở Thăng Long bởi nó hội tụ không chỉ
‘tinh khí’, tinh lực của bốn xứ đàng ngoài mà cả vùng Thanh Nghệ, Trung Bộ
và là nơi hội nhập văn hóa Việt Chăm sớm nhất và toàn diện sâu sắc nhất
mà mở đầu là mỹ thuật kiến trúc với việc xây dựng thành Thăng Long và các
chùa - tháp quy mô lớn thời Lý Trần; sau đó là âm nhạc, ca múa…
Lực hấp dẫn văn hóa của Thăng Long lớn và xuyên suốt cả ngàn năm, ngay
khi chỉ là tỉnh Hà Nội hay là thủ phủ Đông Pháp thì đất Thăng Long vẫn là nơi
hội tụ và là chóp đỉnh văn hóa tinh hoa. Tất nhiên trong thế kỷ 19 còn có một
trung tâm văn hoá đối trọng là Huế và trong thế kỷ 20 thêm Sài Gòn, trung
tâm thứ ba. Tuy nhiên vai trò, quy mô và sức hội tụ của hai trung tâm này
phần nào vẫn mang tính vùng miền, chưa đạt tầm quốc gia thực sự như
Thăng Long - Hà Nội
1. Con người Thăng Long - Hà Nội
Người Thăng Long - Hà Nội là những ai?
Trước hết là quan lại, từ bậc trung trở xuống. Các đại quan, công thần, đại trí
thức thường quê các tỉnh khác. Binh lính cũng tuyển từ các vùng khác
(Thanh Hóa chẳng hạn, để bảo đảm an ninh dòng tộc).
Hai là tầng lớp thợ thủ công chất lượng cao từ khắp bốn phương về buôn
bán và phần nào là sản xuất tại đây. Khi họ lập ra các phường tạo ra khu
‘phố phường’ nổi tiếng và đáp ứng nhu cầu cả nước thì tay nghề và chất
lượng sản phẩm mới được đẩy lên tuyệt đỉnh.
Ba là lớp thương nhân buôn bán ở đây. Chủ yếu là các tiểu thương, doanh
nghiêp vừa và nhỏ. Các doanh nhân lớn hình như cũng không phải ‘Hà Nội
gốc’.
Bốn là trí thức, văn nghệ sĩ ở hẳn hay vãng lai rồi tỏa về các tỉnh hoặc đi vào
phương Nam. Từ Sư Vạn Hạnh, Trần Quốc Tảng, Trần Thái Tông, Trần
Nhân Tông, Lê Thánh Tông, Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn An, Hồ
Nguyên Trừng, Lê Hữu Trác, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều,
Lãn Ông, tới Tú Xương, Tản Đà… các trí thức, nhà khoa học, văn nghệ sĩ
của tất cả các ngành nghệ thuật mới thế kỷ 20 đều có Thăng Long Hà Nội
làm mảnh đất quy tụ, duy dưỡng, phát huy tài năng rồi đưa ảnh hưởng của
họ ra toàn quốc. Sau 1954 trong lý lịch họ thành phần được khai là ‘trí thức,
tiểu tư sản thành thị’.
Cuối cùng phải kể tới tầng lớp thanh niên sinh viên học sinh. Các trường học
từ thời Chu Văn An tới trường phổ thông và đại học thời cận hiện đại nơi đây
đã là trung tâm đào tạo, quy tụ trí thức trẻ, chủ thể quan trọng nhất của giao
tích và đổi mới văn hóa. Trong lý lịch họ sẽ khai thành phần là ‘tiểu tư sản
học sinh’. Không thể coi thường tầng lớp trẻ tuổi này trong văn nghệ Viêt
Nam rất nhiều các tác phẩm đỉnh cao góp phầm làm bùng nổ văn hóa là của
những tác giả ở lứa tuổi thanh niên thuộc thành phần này. Tính chất giao
tích, tiếp nhận cái mới là một nguyên nhân của hiện tượng đó bởi tuổi trẻ của
sinh viên học sinh là mảnh đất tốt nhất cho sự giao tích, đổi mới.
Ở Thăng Long - Hà Nội những đặc sắc của con người và văn hóa vùng miền
vốn rất phong phú và phức tạp không đối chọi nhau như ở nơi khác mà dung
hợp, hòa tan vào nhau. Ở đây các nguồn lực trí tuệ được nhào nặn, thống
nhất trở thành trí tuệ, văn hóa của cả nước. Văn hóa Hà Nội do người của cả
nước làm nên, nên mặc nhiên nó mang tầm quốc gia tính đại diện. Và vì thế
khi lan tỏa đi khắp nơi nó dễ dàng được chào đón như là chuẩn cần noi theo!
Từ cách phát âm tiếng Việt, nghệ thuật ẩm thực tới khoa học, nghệ thuật…
đều vậy.
2. Vài nét văn hóa Thăng Long - Hà Nội
Không gian vật chất, lối sống và hành vi xã hội, không gian tinh thần và tính
chất giao thoa ngã tư sẽ là các khuôn triện đóng dấu bản sắc văn hóa Hà Nội
như một phần căn bản và đại diện cho văn hóa Việt Nam đồng thời như một
không gian văn hóa, một vùng, một địa phương đặc biệt.
Những nét bản sắc ấy thể hiện ở tính cách người Hà Nội (gồm ngững người
ba đời liền ở đây và những người sống và làm việc ở đây). Những tính cách
ấy tôi luyện, nhào trộn qua thực tế đời sống và biến thiên lịch sử để lắng
đọng trong các tác phẩm nghệ thuật. Đây là sự phát triển song song chứ
không phải quan hệ đơn giản cái nọ quy định cái kia Không phải lối sống, tính
cách ‘người Hà Nội’ quy định những đặc sắc văn nghệ Thăng Long - Hà Nội
hay ngược lại mà đó là sự phát triển song song trên bình diện đời sống vật
chất, chính trị, kinh tế, xã hội và trên bình diện đời sống tinh thần, sáng tạo
văn nghệ.
‘Trường phái Hà Nội’ là cái người ta có thể nói tới trong nhiều ngành văn
nghệ với hai nội dung: Một là nó có bản sắc, tính cách khác với văn nghệ các
vùng khác, mà khi đối chiếu so sánh hay khi thưởng thức người ta sẽ nhận
ra ngay mặc dù nó không phải một trường phái nghệ thuật thực thụ về mặt
nghệ thuật học (như biểu hiện, vị lai, sơn thủy đời Tống xưa hay Mao-Pop
gần đây…) Hai là nó giống như ‘Trường phái Paris’ theo nghĩa quy tụ các
nghệ sĩ các nơi khác về đó và họ tạo ra một dòng nghệ thuật đóng góp vào
nghệ thuật địa phương đương thời. (L’Ecol de Paris dùng để chỉ nghệ thuật
các họa sĩ từ khắp các nước đến sống và làm việc tại Paris khoảng năm
1905- 1925 và sau thế chiến II).
Thơ Mới và Tự lực văn đòan khác thơ Bình Định, Huế hay văn báo chí và
tiểu thuyết Nam Bộ. Sân khấu kịch nói, điện ảnh Hà Nội khác sân khấu điện
ảnh Sài Gòn, ca khúc Hà Nội cũng dễ nhận diện ngay…
Thành phần dân chúng như trên và chức năng đô hội như trên quyết định
một số tính cách ‘người Hà Nội’ mà chúng ta dễ dàng đồng thuận khi quy
ước. Có thể phác họa như sau:
- Buôn bán và làm công chức thì phải suy nghĩ căn cơ nhưng cũng phải lanh
lẹn trong ứng xử, khéo ăn khéo nói. Cởi mở tươi cười nhưng không bộc
tuyệch, nông nổi. Câu “Lời nói không mất tiền mua/Lựa lời mà nói cho vừa
lòng nhau” chắc chắn do người Hà Nội nắm bản quyền.
- Trí thức, học sinh, trung lưu trưởng giả tất nhiên cũng phải thanh lịch và tao
nhã. Thanh lịch Tràng An cũng giống như ‘lịch sự pa-ri-diêng’ vậy! Hãy nghe
anh phu xe kéo và cô gái điếm trong Ngựa người - Người ngựa của Nguyễn
Công Hoan thưa gửi với nhau thì biết người Hà Nội thanh lịch tới mức nào!
Về văn nghệ và đời sống văn nghệ tôi thấy Hà Nội có nhiều điểm rất giống
Paris, không giống Bắc Kinh hay Berlin!
- Đồng thời sự sản xúât tinh thần tạo ra phong cách tư duy khá thâm trầm và
phong cách cảm thụ tao nhã tính tế. Từ cách ăn tới nét vẽ, câu văn hay sự
nghiên cứu khoa học đều vậy.
- Ở nơi ngã tư hội tụ,hội nhập nên người Hà Nội, văn hóa Hà Nội có tính bao
dung, dễ chấp nhận, xuê xoa các mâu thuẫn tránh các đối lập.
- Để hoàn thành chức năng trung tâm hội tụ rồi lan tỏa ‘người Hà Nội’ thường
trung dung, ba phải, nhiều khi bảo thủ để hãm phanh những gì quá cấp tiến,
cực đoan, thái quá có thể dẫn tới gẫy đổ.
3. Trường phái Hà Nội
Một số nét ước lệ là bản sắc văn hóa Hà Nội có thể thấy qua những tác
phẩm mỹ thuật: Khéo léo, tế nhị - Tinh tế thâm thúy - Trung dung bảo thủ -
Ngại mâu thuẫn cực đoan. Cũng có thể hiểu rằng những đặc sắc thẩm mỹ đó
làm mỹ thuật ta có một ‘trường phái Hà Nội’.
a. Khéo léo tế nhị
Kỹ thuật sơn mài Nguyễn Gia Trí là tuyệt khéo. Bức Hoa Phù Dung hay các
bức ‘vườn xuân’ với các cô tân thời áo dài được vẽ với những nét uốn lượn
cũng rất khéo. Nét lượn của Nguyễn Gia Trí là những điệu múa lúc nhanh lúc
chậm, những khúc nhạc réo rắt. So với Lê Quốc Lộc hay Kim Đồng… thì
‘khéo léo hơn’ do đó ‘Hà Nội’ hơn!
Hai thiếu nữ trong vườn và các tranh thiếu nữ tượng trưng - phi thời gian của
Lê Phổ rất tế nhị trong biểu cảm, các cung bậc tình cảm của tác giả được thể
hiện như cánh hoa quỳnh đang từ tốn xòe ra và tỏa hương trong đêm.
Nguyễn Phan Chánh không khéo léo như Lê Phổ nhưng còn thế nhị hơn khi
mô tả tình cảm con người trong đời thực, một cách hiện thực, không lãn
mạng hay tượng trưng: Chơi ô ăn quan, Cô hàng xén, Lên Đồng… như
những lời tâm sự đối thoại ân cần nhất. So với Mai Trung Thứ, Nguyễn Thụ,
Kim Bạch… sẽ thấy hai danh họa này ‘Hà Nội’ hơn.
b. Tinh tế thâm thúy
Nguyễn Tư Nghiêm thâm thúy. Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân tinh tế. Ở
Nguyễn Sáng, Hoàng Trầm, Trần Lưu Hậu có những cái mạnh, cái đẹp
khác,không thâm trầm như thế. Phố Hà Nội năm 46 của Bùi Xuân Phái so với
các tranh chiến tranh khác có cảm xúc tinh tế hơn. Thiếu nữ của Tô Ngọc
Vân và cả các ký họa kháng chiến của ông trở nên ‘mẫu mực’ được ưa thích
vì hết sức tinh tế. Nếu so với tranh Văn Đa, Quang Thọ, Nguyễn Hiêm… sẽ
thấy ông ‘Hà Nội’ hơn
c. Tính trung dung
Trong giao tích văn hóa, hội họa Pháp Trần Văn Cẩn, và phần lớn các họa sĩ
Trường Mỹ thuật Đông Dương đã làm làm được chuyện thần tình giống như
cà chua, bắp cải ở Tây sang được luộc ăn chấm với nước mắm dầm trứng,
nước luộc đánh cà chua. Một món đặc Việt Nam, rất ngon mà người phương
Tây chưa hề biết đến. Một kiệt tác ẩm thực Hà Nội. Nguyễn Tiến Chung như
món quê dung hòa khẩu vị thành thị và nông thôn. Thiếu nữ, Chùa Phổ Minh
của Nguyễn Sáng dung dị hòa hợp không gây cấn và vì thế ta thấy chúng ‘Hà
Nội’ hơn Kết Nạp Đảng… và Thành đồng Tổ quốc của chính ông hay Trái tim
và nòng súng của Huỳnh Văn Gấm (cũng quê Nam Bộ) chứa nhiều xung đột
mâu thuẫn lộ liễu mà các họa sĩ Hà Nội cho là ‘hơi cương kiểu cải lương’.
Ba đặc điểm trên cũng sẽ được thấy rõ khi ta xem tác phẩm của các thế hệ
sau.
Người mẹ chiến sĩ của Đỗ Sơn, Hà Nội của tôi của Lương Xuân Đoàn,
Thương binh về làng của Đặng Thị Khuê… khác hẳn tranh cùng đề tài của
các họa sĩ phương Nam. Những đàn bà không đầu của Nguyễn Quân, Thành
Chương với những tranh có vẻ đồ họa lập thể hoặc sơn mài của Lý Trực
Sơn khác với khỏa thân của Nguyễn Trung, Nguyễn Phước, Đinh Cường hay
tranh ‘triết lý’ của Bửu Chỉ nhiều.
Tranh Hà Trí Hiếu, Đặng Xuân Hòa, Lê Thiết Cương… đối diện với tranh
Hoàng Tường, Hứa Thanh Bình, Nguyễn Tấn Cương cũng vậy.
Lê Quảng Hà với các tranh quá mạnh mẽ, quá gây cấn và khiêu khích, vừa
biểu hiện vừa siêu thực vì thế được ngay cả những người rất thích tranh của
anh coi là ‘lạ với Hà Nội’! v.v. Những thí dụ nêu trên chỉ để minh họa không
có giá trị xếp thứ hạng hay đánh giá nào của tác giả.
Tuy nhiên ‘trường phái Hà Nội’ trong hội họa chỉ theo nghĩa hội tụ người tứ
xứ và khác biệt với hội họa các vùng văn hóa khác chứ không phải là một
trường phái đúng nghĩa được xây dựng bởi một nhóm nghệ sĩ cực đoan gắn
kết với nhau bởi một thế giới quan riêng, một nhận thức luận nhất quán, hay
một phương thức ứng xử xã hội, một hệ ngôn ngữ thể hiện triệt để, mới chưa
từng có… Đó là bởi ‘trường phái’ theo đúng nghĩa của nó đã là một sự cực
đoan, một khối mâu thuẫn mà tính trung dung của văn hóa Hà Nội không dễ
chấp nhận. Vì vậy tôi muốn nói rằng: Nếu có một ‘Trường phái hội họa Hà
Nội’ thì cũng có nghĩa là ở đó không có trường phái thực thụ nào cả!