Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Phân tích hoạt động kinh doanh hiện nay của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.29 KB, 26 trang )

Phân tích hoạt động kinh doanh hiện nay của công ty cổ phần
xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XÂY DỰNG VÀ
SẢN XUẤT VẬT LIỆU XÂY DỰNG YÊN TỪ VÀ ĐẶC ĐIỂM HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CÔNG TY.
Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp được chia làm 3 giai
đoạn:
Giai đoạn I: Từ năm 1975 đến năm 1992
Trong bối cảnh đất nước được thống nhất, chúng ta có điều kiện và có
khả năng khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước, nhưng lúc đó chúng ta
cũng đứng trước những khó khăn gay gắt bắt nguồn từ trình độ phát triển
kinh tế của cả nước còn thấp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn yếu kém, kinh tế
hàng hoá ít phát triển, chưa có tích luỹ nội bộ nền kinh tế, nền kinh tế còn bị
lệ thuộc nặng nề vào bên ngoài. Mặt khác, chiến tranh kéo dài đã để lại
những hậu quả kinh tế nặng nề làm cho đất nước phát triển chậm lại nhiều
năm gây ra nhiều hậu quả kinh tế - xã hội mà nhiều năm mới hàn gắn được .
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp
để khôi phục và phát triển kinh tế, đưa đất nước tiến lên .
Trên cơ sở đó xí nghiệp gạch ngói Yên Từ ra đời và nó trực thuộc sự quản
lý của huyện Yên Mô. Để khắc phục hậu quả sau chiến tranh thì cơ chế kế hoạch
hoá tập trung phát huy đựơc tác dụng vì vậy nhiệm vụ của xí nghiệp lúc này là
cung cấp sản phẩm gạch, ngói cho địa phương, kế hoạch sản xuất và tiêu thụ
do cấp trên giao chỉ tiêu.
Giai đoạn II: Từ năm 1992 đến năm 1997
Trong giai đoạn này, đất nước chúng ta đang thực hiện kế hoạch 5 năm
1991 - 1995 kế hoạch đưa đất nước vào thời kỳ phát triển mới.
Bứơc vào kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, bối cảnh quốc tế có những thay
đổi lớn và tác động sâu sắc đến Việt Nam. Từ năm 1991, nguồn vay bên
ngoài giảm mạnh nợ nước ngoài phải trả hàng năm tăng lên. Thị trường
xuất và nhập khẩu của Việt Nam bị đảo lộn. Việt Nam phải chuyển một
phần đáng kể khối lượng buôn bán từ các thị trường truyền thống (CMEA)


sang các thị trường mới.
Ở nước, khủng hoảng kinh tế xã hội vẫn chưa chấm dứt. Việt Nam vẫn là
môt nước nghèo, có nền kinh tế kém phát triển. Có thể nêu ra đây một số chỉ
tiêu quan trọng so sánh với các nước láng giềng.
Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế tính theo đầu người
(số liệu 1990)
Việt Nam Trung Quốc Thái Lan
Dân số, triệu người 67,6 1134 56
Lương thực, kg/người 318 165 375
Điện, Kwh/người 130 524 684
Thép, kg/người 1,49 55 ...
Xi măng, kg/người 37,5 184 271
Nguồn: Word Development Report, WB, 1993
Tính theo: Niên giám thống kê 1993
Cơ cấu kinh tế còn nặng nề về nông nghiệp, công nghiệp phát triển tương
đối chậm (xem bảng 2)
Bảng 2: Cơ cấu GDP phân theo ngành (% giá hiện hành)
1990 1991
Công nghiệp 18,8 19,8
Nông, lâm nghiệp 40,3 39,5
Dịch vụ 36,3 37,5
Nguồn: Tổng cục thống kê: Niên giám thống kê 1993
NXB Thống kê, 1994 trang 26
Với nền kinh tế vẫn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp còn
nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp
(2,9% GDP năm 1990), lạm phát vẫn còn cao(67% năm 1991), quá trình đổi
mới nền kinh tế theo hướng thị trường còn nhiều trở ngại, Việt Nam đang
đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới. Có thể so sánh trình độ phát triển của Việt Nam so với Trung
Quốc và Thái Lan theo chỉ tiêu giá trị sau:

Bảng 3: Chỉ tiêu GDP bình quân đầu người năm 1991 (USD/người)
Việt Nam Trung Quốc Thái Lan
-Theo tỷ giá hối đoái chính
thức
93 370 1570
- Theo sức mua tương
đương PPP
1100 1990 3986
Nguồn:- Human Development Report UNDP, 1993
- World Development Report, WB, 1993
Khoảng cách xa 2- 4 hoặc hơn của Việt Nam so với các nước láng giềng
bản thân nó chưa đủ là nguy cơ. Tính chất phức tạp là ở chỗ Việt Nam nằm
trong vùng Đông Nam á phát triển năng động. Các nước đều có nhịp độ
tăng trưởng cao. Do đó, muốn đuổi kịp phải mất nhiều năm, và đòi hỏi liên
tục tăng trưởng nhanh, tăng trưởng nhanh "vượt trước".
Đứng trước những thách thức to lớn đó, Đại hội lần thứ VII của Đảng vào
tháng 6 năm 1991 đã thông qua "cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội", "chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000" (với mục tiêu tăng gần gấp đôi GDP vào năm 2000 so với năm
1990) và ra mục tiêu tổng quát của 5 năm 1991 - 1995 là vượt quá khó khăn
thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị,
đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng
khủng hoảng hiện nay"
*
. Đại hội cũng đã đề ra mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5
năm 1991 - 1995 " đẩy lùi và kiểm soát được lạm phát ổn định, phát triển và
nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội, ổn định và từng bước cải thiện đời sống
nhân dân và bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế".
Để thực hiện nhiệm vụ trên, Đại hội vạch ra phải đẩy mạnh ba chương
trình kinh tế với những nội dung cao hơn trước và từng bước xây dựng cơ cấu

kinh tế mới theo yêu cầu công nghiệp hoá, hình thành về cơ bản và vận hành
tương đối thông suốt cơ chế quản lý mới. Trong 5 năm phải tạo chuyển biến rõ
rệt về cơ cấu kinh tế theo các phương hướng lớn là:
- Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gần với công nghiệp chế biến, phát
triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế- xã hội. Trong sản xuất nông
nghiệp đặt trọng tâm vào chương trình lương thực - thực phẩm nhằm đảm
bảo vững chắc nhu cầu trong nước và khối lượng xuất khẩu lớn, nhất là gạo và
sản phẩm chăn nuôi. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của nông
nghiệp khoảng 3,7 - 4,5% của công nghiệp 8,0 -11,0%.
Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu
đa dạng, chất lượng ngày càng cao. Phục vụ tốt tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991 - 1995 là 12 - 15 tỷ USD
*
*
Đảng cộng sản Việt Nam : văn kiện đại hội đại biểu to n quà ốc lần thứ VII, NXB sự thật, H nà ội 1991
trang 60
đến năm 1995 tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu trong GDP là 24 -26% so với
14,0% năm 1990.
- Phát triển một số ngành công nghiệp nặng trước hết phục vụ ba chương
trình kinh tế, đồng thời tạo cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo.
Trong 5 năm 1991 - 1995 đặc biệt chú trọng tăng nhanh sản lượng khai
thác dầu khí, phát triển điện lực, phát triển cơ khí, phát triển công nghiệp vật
liệu xây dựng, công nghiệp điện tử, tin học, sớm xây dựng cơ sở lọc dầu...
- Phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các loại hình dịch vụ kinh tế kỹ
thuật.
- Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu
dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn và tiền tệ, thị trường ngoại hối,
thị trường sức lao động.
Xuất phát từ phương hướng của đại hội lần thứ VII của Đảng, xí nghiệp

gạch ngói Yên Từ được thành lập lại thành doanh nghiệp Nhà nước theo quyết
định số 409 - QĐ/UB ngày 30 tháng 10 năm 1992 của Uỷ ban nhân dân tỉnh xí
nghiệp được Nhà nước giao vốn với số tiền là 175.000.000đồng, ngành nghề
kinh doanh của xí nghiệp trong giai đoạn này gồm sản xuất gạch, ngói, tấm
lợp, nuôi cá nước ngọt.
Xí nghiệp gạch ngói Yên Từ sau khi được thành lập lại hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp rất có hiệu quả đến năm 1975. Công nhân trực tiếp
sản xuất vào năm 1994 lên đến 150 người, thị trường của doanh nghiệp được
mở rộng ra các tỉnh lân cận như Thanh hoá, Nam Định, Thái Bình, Hà Nam và
đã xuất hiện cả ở Hà Nội. Sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp giai đoạn này là
gạch, ngói, tấm lợp xi măng và tôm cá.
Nhưng đến cuối năm 1996 đầu năm 1997 do không được đầu tư chiều
sâu mở rộng sản xuất và trình độ quản lý yếu kém, nên cơ sở vật chất kỹ
thuật của xí nghiệp ngày càng nghèo nàn lạc hậu xuống cấp trầm trọng vốn
lưu động trong sản xuất kinh doanh không có vì vậy không chủ động trong
sản xuất dẫn đến sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu của thị trường do
đó doanh thu thấp nên xí nghiệp ngày càng lâm vào tình trạng khó khăn.
Giai đoạn III: Chuyển thành công ty cổ phần.
Để khắc phục những khó khăn, yếu kém của xí nghiệp gạch Yên Từ một
cách có hiệu quả nhất và phù hợp với xu thế chung của nền kinh tế, chủ
trương của Đảng và Nhà nước thành công ty cổ phần như điều của nghị
định của chính phủ số 44/1998/NĐ - CP ngày 29 tháng 6 năm 1998:"Chuyển
doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau: Một
là huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo
thêm việc làm phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi
cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước. Hai là tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp
kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của
người lao động góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước".
Như vậy chủ trương đa dạng hoá sở hữu, biến các doanh nghiệp Nhà

nước thành công ty có nhiều tác dụng;
- Huy động được ở mức cao nhất nguồn vốn tiền năng trong dân cư dựa
vào kinh doanh
- Nhà nước có thêm vốn để đầu tư cho các lĩnh vực khác nhau: kết cấu hạ
tầng, phục vụ xã hội, giáo dục, y tế, v.v...
- Công ty được hình thành là do sự kết ước hoàn toàn tự nguyện giữa
các chủ sở hữu vốn đầu tư. Do đó các cổ đông đương nhiên có quyền quyết
định việc quản lý công ty. Khi đa dạng hoá sở hữu các doanh nghiệp Nhà
nước biến nó thành công ty, Nhà nước chỉ cần quản lý bằng pháp luật.
- Từ doanh nghiệp Nhà nước 100% vốn Nhà nước đương nhiên phải chịu
trách nhiệm vô hạn, nay đa dạng hoá sở hữu, biến nó thành công ty trách
nhiệm hữu hạn, tuy nhiên vốn Nhà nước vẫn có thế chiếm lượng lớn, nhưng
ngân sách Nhà nước không còn phải thanh toán tất cảa các khoản nợ của các
doanh nghiệp , nhất là khi họ bị phá sản không còn khả năng thanh toán.
- Khi các doanh nghiệp Nhà nước trở thành công ty, các yếu tố kinh doanh
như sức lao động, tiền vốn tự liệu sản xuất , đất đai đương nhiên được coi là
hàng hoá. Nhờ đó nguyên tắc hạch toán doanh nghiệp được coi là thực hiện
đầy đủ.
- Để công ty hoá các doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước buộc phải đánh
giá chính xác từng doanh nghiệp về tiền vốn, giá trị tài sản, phải công khai hoá
tình hình tài chính và phải được xã hội thừa nhận qua việc hùn vốn kinh doanh
.
Đất nước chúng ta đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần huy động nhiều nguồn vốn, gắn với sử dụng có
hiệu quả. Từ những điểm nêu trên xí nghiệp gạch ngói Yên Từ được chuyển
thành công ty cổ phần với tên gọi mới là công ty cổ phần xây dựng và sản xuất
vật liệu xây dựng Yên Từ theo quyết định số 898/QĐ-UB ngày 27 tháng 7 năm
1998 của Uỷ Ban nhân dân Tỉnh Ninh Bình.
Đăng ký kinh doanh số 055781 do sở kế hoạch và đầu tư Ninh Bình cấp
ngày 24 tháng 9 năm 1998. Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây

dựng Yên Từ có trụ sở chính đặt tại xã Yên từ huyện Yên Mô Tỉnh Ninh Bình.
Đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty cổ phần xây dựng và sản xuất
vật liệu xây dựng Yên Từ là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hoạt động theo
luật công ty, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập, có con dấu riệng, có tài
khoản ở ngân hàng.
Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ có chức
năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt đông chủ yếu sau:
* Tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch dài hạn, ngắn hạn hàng năm về
sản xuất vật liệu xây dựng như gạch, ngói, tấm lợp, đá.
* Tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch nuôi tôm, cá
* Tổ chức tìm nguồn hàng ổn định phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty
*Tổ chức nhận thầu, thi công xây dựng các công trình dân dụng có quy mô
vừa và nhỏ
* Liên doanh, liên kết với các cơ sở, các đơn vị trong và ngoài nước, đảm
bảo tự hạch toán kinh doanh trên cơ sở bảo toàn vốn và có lãi
* Tổ chức quản lý và sự dụng tốt các cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện
phục vụ cho yêu cầu kinh doanh của công ty
* Tổ chức đào tạo tay nghề, nghiệp vụ cho các bộ công nhân viên trong
công ty.
II. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH HIỆN NAY CỦA CÔNG TY SAU KHI CHUYỂN
SANG HÌNH THỨC CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Tổ chức bộ máy và chức năng nhiệm vụ:
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA CÔNG TY
1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy:
Công ty cổ phần xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng Yên Từ hiện có
120 cán bộ công nhân viên và có cơ cấu tổ chức bộ máy như sau:
- Hội đồng quản trị: Chủ Tịch
Phó Chủ Tịch
Uỷ Viên

- Điều hành Giám Đốc điều hành
Đại hội đồng
Ban kiểm
soát
Hội đồng quản trị
Giám đốc điều h nhà
Ban kiểm tra
chất lượng
SP
Phòng
t i và ụ
Phòng tổ
chức h nhà
chính
Phòng kinh
doanh
Phòng kế
hoạch sản
xuất
Phân xưởng sản xuất 2
Phân xưởng sản xuất 1
- Các phòng ban chức năng: Phòng kế hoạch sản xuất
Phòng tài vụ
Phòng tổ chức hành chính
Phòng kinh doanh
Ban triểm tra chất lượng
- Phân xưởng sản xuất : Phân xưởng 1
Phân xưởng 2
1.2. Chức năng
1.2.1. Hội đồng quản trị:

Hội đồng quan trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi
vấn đề liên quan đên mục đích, quyền lợi của công ty, từ các vấn đề thuộc
thẩm quyền của đại Hội đồng. Hội đồng quản trị chịu trách nhiệm trước đại
Hội đồng về những sai phạm trong quản lý, vi phạm điều lệ, vi phạm pháp
luật gây thiệt hại cho công ty.
Hội đồng quản trị là cơ quan quan trị cao nhất trong doanh nghiệp, chịu
trách nhiệm cao nhất về sự thành công hay thất bại của công ty. Những chức
năng cơ bản của Hội đồng quản trị là chức năng chiến lược, tổ chức và kiểm
tra. Vấn đề mà Hội đồng quản trị cần quan tâm trước nhất là những kết quả
cuối cùng của công ty đạt được như thế nào, có phù hợp với mục tiêu tổng thể
hay không thay vì quan tâm đến những hoạt động cụ thể, chi tiết, vụn vặt.
Để tạo điều kiện thực hiện công tác kiểm tra, hội đồng quản trị có các
nhiệm vụ sau:
- Phê duyệt, thông qua hệ thống mục tiêu dài hạn, ngắn hạn cho toàn bộ
công ty làm cơ sở để so sánh, đánh giá kết quả kiểm tra.

×