Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Quan hệ Australia - ASEAN trong những năm đầu thế kỉ XXI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.79 KB, 10 trang )

TẠP CHÍ ĐẠI HỌC SÀI GÒN

Số 8 - Tháng 2/2012

QUAN HỆ AUSTRALIA - ASEAN
TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI
NGUYỄN ĐỨC HỒ(*)

TĨM TẮT
Australia sớm nhận ra các nước châu Á và các nước ASEAN có ý nghĩa chiến lược và
sống còn về kinh tế đối với mình. Điều đó dẫn tới các mối quan tâm của Australia với các
nước châu Á, đặc biệt là đối với các nước ASEAN. Cả Australia và ASEAN đều nhất trí
rằng các mối quan hệ giữa hai bên diễn ra tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là an ninh
chính trị và kinh tế thương mại kể từ khi Australia thi hành chính sách hướng về châu Á
một cách độc lập. Bài viết điểm lại chính sách đối ngoại hướng về châu Á của Australia và
những thành tựu hợp tác trên lĩnh vực an ninh chính trị và kinh tế thương mại giữa
Australia và ASEAN.
ABSTRACT
Australia soon realizes that Asian and ASEAN countries have economically vital and
strategic significance to it, which leads to Australia's concerns in Asian countries,
especially in ASEAN ones. Both Australia and ASEAN countries agree that the relations
between the two sides have been fared well in a lot of fields, especially in political security
and trading economy since the time Australia independently implemented Asian-oriented
policy. This paper summarizes Australia's policies of foreign affairs towards Asia and the
co-operative achievements in political security and trading economy between Australia
and ASEAN.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ (*)
Thế giới ngày nay đang trong q trình
tồn cầu hố, xu hƣớng liên kết khu vực và
quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ
và Australia cũng khơng nằm ngồi quy


luật đó. Australia đang thi hành chính sách
hƣớng về châu Á, bởi đây là khu vực có
các nền kinh tế năng động nhất hiện nay,
lại rất gần gũi với Australia về địa lí. Chính
sách hội nhập của Australia với các nƣớc
châu Á có lợi cho sự phát triển kinh tế và
hợp tác an ninh trong khu vực. Nghiên cứu
sự hội nhập, mối quan hệ hợp tác giữa
Australia với các nƣớc châu Á có ý nghĩa
thời sự, thu hút sự quan tâm từ giới khoa
(*)

TS, Trƣờng Đại học Sài Gòn

học Việt Nam và quốc tế. Bài viết chủ yếu
đề cập q trình hội nhập của Australia và
những kết quả hợp tác trên một số lĩnh vực
giữa Australia và ASEAN.
2. SƠ LƢỢC LỊCH SỬ VÀ ĐỊA VĂN
HỐ CỦA AUSTRALIA
Danh từ chỉ nƣớc Australia trong tiếng
Việt có nguồn gốc từ Hán-Việt (Úc Đại
Lợi Á), tên tiếng Anh Australia bắt nguồn
từ chữ Australis trong tiếng Latinh có
nghĩa là phương Nam. Vào năm 1638,
cơng ty Đơng Ấn Hà Lan ở Batavia sử
dụng từ Australische trên giấy tờ để chỉ
vùng đất mới đƣợc khám phá ở phía Nam
Indonesia. Ngay từ năm 1824, Bộ Hải qn
Anh đã chính thức dùng tên Australia để

chỉ lục địa này1. Liên bang Australia


QUAN HỆ AUSTRALIA - ASEAN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI

(Commonwealth of Australia) là nƣớc lớn
thứ sáu trên thế giới nằm ở Nam bán cầu
và cũng là nƣớc lớn nhất trong khu vực
châu Đại Dƣơng.
Vào thời cận đại, qua các cuộc thám
hiểm, ngƣời châu Âu phát hiện ra vùng đất
này. Vào năm 1522 nhà thám hiểm Bồ Đào
Nha Cristóvão de Mendonça có lẽ là ngƣời
châu Âu đầu tiên đặt chân tới đây. Các nhà
thám hiểm Hà Lan cũng đến đây rất sớm:
Willem Jansz (1606), Jan Carstensz (1623),
Dirk Hartog và Abel Tasman (1642). Tên
A. Tasman sau này đƣợc đặt cho đảo
Tasmania, nhƣng vào lúc đó ông đặt tên
cho nó là Van Diemensland. Nhà thám
hiểm Anh là Willem Dampier đã từng đến
bờ Tây lục địa này vào năm 1688. Vào năm
1770, thuyền trƣởng James Cook đi suốt
dọc bờ biển phía Đông lục địa này và có
ghé vào vịnh Botany. Ngay sau đó, James
Cook tuyên bố 2/3 phía Đông của lục địa
Australia thuộc chủ quyền Vƣơng quốc
Anh và đặt tên là New South Wales. Ông
báo về Luân Đôn rằng ở Australia không có
ngƣời sinh sống, điều đó thúc đẩy ngƣời

Anh thiết lập một thuộc địa lƣu đày tù
nhân. Bắt đầu từ năm 1770, Australia đã trở
thành thuộc địa của nƣớc Anh.
Đến thập niên 1850, cơn sốt vàng
(Australian gold rushes) đã kéo theo làn
sóng di dân lớn tới Australia và d n đến
nhiều thay đ i ở lục địa này. Việc khám phá
ra các m vàng lớn đã góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển, cũng nhƣ làm thay đ i cơ
cấu xã hội thuộc địa Australia. Trong thế kỉ
XIX, trên cơ sở dân số ngày càng gia tăng
và thêm nhiều vùng đất mới đƣợc khám
phá, năm thuộc địa Hoàng gia tự trị đƣợc
thành lập ở Australia. Ngày 26 tháng 1 năm
1788, Hạm đội đầu tiên dƣới sự chỉ huy của
thuyền trƣởng Arthur Phillip cập vịnh
Sydney, lập nên thuộc địa New South

Wales và ngày này đã trở thành Quốc khánh
của Australia2. Ngày 1 tháng 1 năm 1901,
sáu thuộc địa liên kết trở thành Liên bang
thống nhất Australia, thủ đô đặt tại Canberra
(Canberra theo tiếng th dân Ngunnawal có
nghĩa là nơi gặp mặt) và Liên bang
Australia nằm trong Khối Thịnh vượng
chung (The Common Wealth) thuộc Anh.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai,
Australia lại tiếp nhận thêm làn sóng di dân
mới từ châu Âu tới. Đến năm 2000, có hơn
6 triệu ngƣời nhập cƣ mới đã tới Australia,

nghĩa là cứ 7 ngƣời Australia thì có 2
ngƣời sinh ra ở nƣớc ngoài3. Những ngƣời
nhập cƣ này đã có nhiều đóng góp cho
Australia, làm khởi sắc nền kinh tế đồng
thời tạo nên sự đa dạng văn hoá của đất
nƣớc này. Do ảnh hƣởng của các dòng di
dân lớn từ châu Á, châu Âu tới, nên cƣ dân
các thành phố Australia mang đặc điểm
hoà trộn văn hoá, ngôn ngữ của nhiều dân
tộc khác nhau4. Theo số liệu thống kê hiện
nay có khoảng 1/5 số dân Australia đƣợc
sinh ra ở nƣớc ngoài, số còn lại có hơn 1/5
có cha hoặc mẹ là ngƣời nƣớc ngoài.
Nếu nhƣ trƣớc đây, phần lớn dân di cƣ
sang Australia là dân đến từ châu Âu thì
trong thập kỉ gần đây số ngƣời di cƣ từ
châu Á tăng mạnh hơn. Từ những năm
2000 trở đi, trong số 23,1% ngƣời
Australia sinh ở nƣớc ngoài, chiếm số
lƣợng đông đảo nhất là ngƣời Anh, New
Zealand, Italia và Việt Nam. Trong những
năm 2005, 2006 có hơn 131.000 ngƣời tới
định cƣ ở Australia, những ngƣời này chủ
yếu đến từ các nƣớc châu Á và châu Đại
Dƣơng5. Dân di cƣ mang đến Australia
những nét văn hoá và truyền thống của họ
và kết hợp với những thành tố văn hoá ở
đây có từ thời thực dân Anh.
Sau khi bãi b chính sách Australia da
trắng (White Australia policy) vào năm



NGUYỄN ĐỨC HÒA

1973, Chính phủ nƣớc này có nhiều sáng
kiến nhằm tạo sự hài hoà chủng tộc dựa
vào chính sách đa văn hoá6. Theo con số
thống kê, Australia mở cửa đón 300.000
ngƣời di trú mới trong hai năm 2008 và
2009, đây là con số lớn nhất từ sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai khi mà Bộ Nhập
cƣ đƣợc thành lập7. Trong công luận
Australia n i lên các vấn đề tranh cãi nhƣ
sự di cƣ của ngƣời Anh, chính sách tội ác
đối với th dân châu Úc và đối xử bất công
đối với ngƣời nhập cƣ gốc châu Á. Nền
văn hoá của th dân dần đƣợc tôn trọng
hơn trong nỗ lực tạo nên sự đa dạng văn
hoá của Australia ngày nay và là cơ sở để
đất nƣớc này hƣớng đến khu vực châu ÁThái Bình Dƣơng, đặc biệt là các nƣớc
Đông Nam Á.
3. QUAN HỆ HỢP TÁC AUSTRALIA
VÀ ASEAN
Một số vấn đề trong quá khứ đã cản trở
không nh quan hệ giữa Australia và
ASEAN (đặc biệt là các nƣớc Đông
Dƣơng) nhƣ nƣớc này đƣa quân tham gia
chiến tranh Việt Nam8. Những năm gần
đây, sự liên quan của Australia vào những
vấn đề nóng b ng trên thế giới nhƣ tham

gia chiến tranh vùng Vịnh, gửi quân
tới Apganixtan, cho đến sự can dự của nƣớc
này vào sự kiện ở Aceh, Đông Timo và Fuji
đã làm dấy lên quan ngại của các nƣớc
ASEAN đặc biệt là từ nƣớc Indonesia
láng giềng.
Cuối thế kỉ XX, cả Mĩ, Trung Quốc,
Ấn Độ và Nhật Bản đều muốn tăng cƣờng
các mối quan hệ với ASEAN để có vai trò
to lớn hơn trong khu vực. Ấn Độ đã công
bố một chính sách "Hƣớng Đông" nhằm
thúc đẩy vị trí của họ ở Đông Nam Á. Sự
gần gũi về địa lí cùng với những lợi ích
kinh tế thiết thực và an ninh khu vực đã
thúc đẩy chính sách của Australia hƣớng về

châu Á nói chung và ASEAN nói riêng khu vực này thành trọng tâm trong chính
sách đối ngoại của nƣớc này những năm
đầu thế kỉ XXI. Ngƣời ta cho rằng
Australia đang đặt ra mục tiêu phấn đấu trở
thành một cƣờng quốc châu Á – Thái Bình
Dƣơng thực thụ9. Trong bối cảnh suy thoái
kinh tế toàn cầu, sự hồi phục nhanh chóng
của kinh tế châu Á và sự tăng trƣởng ấn
tƣợng của ASEAN trở nên rất có ý nghĩa
với Australia.
3.1. Australia
Australia có diện tích đứng thứ bảy
trên thế giới, tài nguyên thiên nhiên phong
phú với các ngành công nghiệp đạt trình độ

phát triển rất cao nhƣ khai khoáng, thiết bị
công nghiệp, hoá chất, thép và chế biến
thực phẩm. Theo con số thống kê của Quỹ
tiền tệ quốc tế IMF (International
Monetary Fund), GDP thực tế của
Australia năm 2010 đạt 1.235,539 tỉ USD
(số liệu thống kê của Mĩ là 1.220,000 tỉ
USD và của World Bank là 924,843 tỉ
USD)10. Và thu nhập bình quân theo đầu
ngƣời vào năm 2010 của Australia đứng
vào hàng thứ 7 trên thế giới: 55.590 USD
(cao hơn cả Hoa Kì - 47.284 USD)11.
Australia thực sự trở thành một đối tác có
tiềm năng to lớn đối với các nƣớc ASEAN
trong hợp tác kinh tế, kĩ thuật, đầu tƣ vốn
và chuyển giao công nghệ - những yếu tố
mà các nƣớc ASEAN đang rất cần.
Australia là bạn hàng lớn thứ 6 của
ASEAN. Với hơn 600 triệu dân, ASEAN là
khu vực kinh tế thƣơng mại rất quan trọng
với Australia. Các nƣớc ASEAN cũng đã
nhận thức đƣợc lợi ích của sự hợp tác đa
phƣơng trong bối cảnh khủng hoảng kinh
tế toàn cầu hiện nay. Việc liên kết kinh tế
giữa ASEAN với Australia và New
Zealand là rất cần thiết và cũng có lợi cho
chính các nƣớc ASEAN.


QUAN HỆ AUSTRALIA - ASEAN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI


3.2. ASEAN
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á ASEAN (Association of Southeast Asia
Nations) là một liên minh chính trị, kinh tế,
văn hoá và xã hội của các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á thành lập ngày 8
tháng 8 năm 1967, nay đã phát triển đủ 11
thành viên. ASEAN có diện tích là
4.464.322 km² với dân số khoảng 577 triệu
ngƣời. Các nƣớc ASEAN có nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú và hiện nay
đang đứng hàng đầu thế giới về cung cấp
một số nguyên liệu cơ bản nhƣ: cao su
(90% sản lƣợng cao su thế giới); thiếc và
dầu thực vật (90%), gỗ xẻ (60%), gỗ súc
(50%), cũng nhƣ gạo, đƣờng, dầu thô,
dứa... Công nghiệp của các nƣớc thành
viên ASEAN cũng đang trên đà phát triển,
đặc biệt trong các lĩnh vực: dệt, hàng điện
tử và các loại hàng tiêu dùng. Những sản
phẩm này đƣợc xuất khẩu với khối lƣợng
lớn và đang thâm nhập một cách nhanh
chóng vào thị trƣờng thế giới. Vào năm
2010, ASEAN có GDP khoảng 1844,819 tỉ
USD12 và t ng kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ
gần 800 tỉ USD. ASEAN là khu vực có tốc
độ tăng trƣởng kinh tế cao so với các khu
vực khác trên thế giới và đƣợc coi là t
chức khu vực thành công nhất của các
nƣớc đang phát triển.

3.3. Hợp tác an ninh chính trị giữa
Australia và ASEAN
Australia đã bắt đầu thử nghiệm cho sự
hợp tác chiến lƣợc gần gũi hơn với các
nƣớc Đông Nam Á trong những năm cuối
thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI, bắt đầu với
Indonesia và sau đó là xây dựng các quan
hệ thân thiện hơn với Việt Nam. Thủ tƣớng
Paul Keating nhấn mạnh: Australia và Việt
Nam có thể hàn gắn những vết thƣơng của
quá khứ, để các thế hệ tƣơng lai không còn
phải trả giá cho sự thù địch trƣớc đây13.

Trong quá trình hợp tác với ASEAN,
Australia tích cực hoạt động để đảm bảo vị
thế nhƣ là thành viên châu Á trên nhiều
phƣơng diện. Liên đoàn Bóng đá châu Á
(AFC) đã nồng nhiệt tiếp nhận Australia
làm thành viên 46 và cho phép nƣớc này
đƣợc tham dự các giải của Liên đoàn từ
2006. Đó là cách thức giúp Australia gắn
bó, gần gũi với châu Á hơn.
Australia tích cực tham gia vào các cơ
chế đối thoại tại châu Á – Thái Bình
Dƣơng nhƣ Diễn đàn An ninh khu vực
ASEAN (ARF) và APEC. Nhiều cơ quan
hoặc t chức chính trị, xã hội của Australia
đã bắt đầu tham gia vào các cơ chế dành
cho các nƣớc châu Á hơn là của châu Đại
Dƣơng. Australia hợp tác chặt chẽ hơn với

các các cơ quan của ASEAN nhƣ Hội đồng
điều phối ASEAN, các Hội đồng Cộng
đồng ASEAN (gồm Hội đồng Chính trị-An
ninh ASEAN, Hội đồng Kinh tế ASEAN,
Hội đồng Xã hội-Văn hoá ASEAN) và các
cơ quan cấp bộ trƣởng của ASEAN.
Mốc quan trọng đánh dấu hợp tác
ASEAN - Australia diễn ra tại Hội nghị
Thượng đỉnh chính thức ASEAN lần thứ
11(12 – 14/12 năm 2005) tại Kuala
Lumpur, Malaysia. Hội nghị cấp cao Đông
Á lần thứ nhất (EAS-1) là bƣớc phát triển
mới góp phần thúc đẩy xu thế đối thoại và
hợp tác vì phát triển ở khu vực, thể hiện
tính năng động của ASEAN. Nội dung thảo
luận tập trung vào những vấn đề lớn (an
ninh, kinh tế) mà các bên cùng quan tâm.
Các nhà lãnh đạo 16 nƣớc tham dự EAS-1
(10 nƣớc thành viên ASEAN, Australia,
Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc
và New Zealand) đã kí Tuyên bố về EAS để
xác định phƣơng hƣớng và khuôn kh cho
EAS, xác định EAS là diễn đàn để đối
thoại và hợp tác về các vấn đề lớn cùng
quan tâm về chính trị - an ninh, kinh tế và


NGUYỄN ĐỨC HÒA

văn hoá - xã hội; coi đây là tiến trình mở

với ASEAN đóng vai trò chủ đạo.
Quyết định b nhiệm bà Gillian Bird
làm Đại sứ đầu tiên của Australia tại
ASEAN (5/9/2008) cho thấy Chính phủ
Australia rất coi trọng quan hệ với ASEAN
trong thế kỉ XXI. Việc b nhiệm đại sứ tại
ASEAN sẽ tăng cƣờng khả năng của
Australia trong việc hợp tác chặt chẽ với
ASEAN để giải quyết các vấn đề hợp tác
toàn diện về chính trị và kinh tế khu vực.
Các quan hệ song phƣơng v n sẽ là nền
tảng của an ninh Đông Nam Á và Australia
chú trọng vào việc củng cố những quan hệ
này14. Một cuộc họp riêng đƣợc gọi là
ASEAN-CER đƣợc t chức cho các lãnh
đạo của ASEAN với Australia, New
Zealand vào tháng 6 năm 2009 càng góp
phần làm phát triển mối quan hệ hợp tác,
đối thoại giữa hai bên.
ASEAN có sáng kiến thành lập các Ủy
ban đối ngoại ở các nƣớc Australia,
Canada, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, New
Zealand, Mĩ và UNDP. Ủy ban này gồm
trƣởng các đoàn ngoại giao của các nƣớc
ASEAN tại các nƣớc sở tại, hiện có 11 Ủy
ban ASEAN tại các bên, trong đó có Ủy
ban tại Canberra (Australia).
Vị thế của ASEAN đƣợc nâng lên tầm
cao mới qua việc kết nạp cả Nga và Mĩ
trong cơ chế cao cấp Đông Á lấy ASEAN

làm trung tâm. Việc kết nạp cả Nga và Mĩ
nằm trong lợi ích chung của ASEAN bởi
các nƣớc này đã có sự hiện diện ở khu vực
mà Australia rất quan tâm. Theo các nhà
lãnh đạo ASEAN thì cách tốt nhất là cả
Nga và Mĩ có sự hiện diện trong ngôi nhà
ASEAN. Thủ tƣớng Australia Julia Gillard
khẳng định rằng Australia rất phấn chấn vì
có thêm Mĩ và Nga tham gia vào Cấp cao
Đông Á15. Cơ chế này đã làm cho cho t ng
GDP cả khối lên tới 30.000 tỉ USD chiếm

hơn một nửa đầu tƣ thƣơng mại toàn cầu.
Điều đó khẳng định ASEAN sẽ trở thành
trung tâm mới của sự thu hút đầu tƣ và
tăng trƣởng toàn cầu và Australia cũng đã
nhận thấy chính sách hƣớng Đông của
mình là một sự lựa chọn khôn ngoan.
Với chủ đề "Hƣớng tới cộng đồng
ASEAN: từ tầm nhìn đến hành động", Việt
Nam đã chủ trì thành công các Hội nghị
cấp cao ASEAN 16 và 17, Đại hội đồng
Liên nghị viện ASEAN (AIPA), Cấp cao
Đông Á (EAS), Diễn đàn Khu vực ASEAN
(ARF), Hội nghị những ngƣời đứng đầu
các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA)
và nhiều hoạt động quan trọng khác. Lần
đầu tiên trong lịch sử, 18 Bộ trƣởng Quốc
phòng của ASEAN và 8 nƣớc đối tác đối
thoại bao gồm: Australia, Trung Quốc, Ấn

Độ, Nhật Bản, New Zealand, Hàn Quốc,
Nga và Mĩ đã tham dự Hội nghị Bộ trƣởng
Quốc phòng ASEAN mở rộng (ADMM+)
vào ngày 2-7-2010, xác định tiềm năng và
định hƣớng hợp tác, tìm ra một cấu trúc
thích hợp nhất cho việc giải quyết an ninh
chính trị tại châu Á. Thông qua đó, đã ghi
đậm dấu ấn Hà Nội- Việt Nam trong việc
triển khai Hiến chƣơng ASEAN và Lộ
trình xây dựng Cộng đồng ASEAN trên cả
ba trụ cột chính trị - an ninh, kinh tế và văn
hoá – xã hội cũng nhƣ các kế hoạch quan
trọng khác, nhất là về kết nối ASEAN. Là
một bên đối thoại của ASEAN, Australia
hết sức ủng hộ vai trò trung tâm của
ASEAN trong tiến trình hợp tác khu vực.
Chuyến xuất ngoại châu Á đầu tiên
(9/2010) của tân Thủ tƣớng Australia Julia
Gillard là Việt Nam. Bà có mặt tại Hà Nội
vào tháng 10 để dự Hội nghị thƣợng đỉnh
khối ASEAN. Thủ tƣớng Julia Gillard và
ngoại trƣởng Kevin Rudd (vốn là cựu Thủ
tƣớng Australia) tuyên bố sẽ tăng cƣờng
mối quan hệ với các nƣớc châu Á nói


QUAN HỆ AUSTRALIA - ASEAN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI

chung và khối ASEAN nói riêng trong
nhiệm kì 2010-2013. Đây là lần đầu tiên

Australia đƣợc mời họp Thƣợng đỉnh với
10 nƣớc thành viên khối ASEAN, cho thấy
vai trò ngày càng quan trọng hơn của
Australia ở khu vực Châu Á-Thái Bình
Dƣơng trong bối cảnh trao đ i mậu dịch
giữa Australia và ASEAN đang tăng lên
nhanh chóng.
Thủ tƣớng Julia Gillard nói đến vai trò
của Australia trong việc hình thành Cộng
đồng Châu Á-Thái Bình Dƣơng – vốn
đƣợc sự tán đồng của cựu Thủ tƣớng Kevin
Rudd trƣớc đây. Theo bà, Australia có thể
dựa vào khối ASEAN để thúc đẩy sáng
kiến thành lập cộng đồng Châu Á-Thái
Bình Dƣơng, ASEAN trở thành đối tác lớn
của Australia.
Ngày 29 và 30/10/2010, Thủ tƣớng
Julia Gillard dự hai cuộc họp đa phƣơng
đánh dấu mốc phát triển mới trong quan hệ
Australia – ASEAN. Đầu tiên là Diễn đàn
An ninh Đông Á bàn về phƣơng cách giải
quyết những thách thức an ninh truyền
thống giữa ASEAN và sáu đối tác an ninh
hàng đầu. Nhóm nƣớc tham gia đối thoại
hàng năm cùng với ASEAN gồm Trung
Quốc, Nhật, Hàn Quốc, Ấn Độ, Australia,
New Zealand và Mĩ. Sau đó là Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN - Australia (Asean –
Australia Summit) bàn về an ninh, mậu
dịch, hợp tác thƣơng mại. Đây là Hội nghị

cấp cao ASEAN - Australia đầu tiên sau 35
năm thiết lập quan hệ đối thoại giữa
ASEAN và Australia. Bên cạnh chính trị,
Australia cho rằng hợp tác kinh tế với
ASEAN sẽ đem lại nhiều lợi ích cho nƣớc
này trong thế kỉ XXI.
3.4. Hợp tác kinh tế ASEAN –
Australia
Thực hiện chính sách ngoại giao kinh
tế, Australia ngày càng tăng cường làm ăn,

hợp tác kinh tế với các nước châu Á và
ASEAN. Trong năm 2007, t ng giá trị trao
đ i thƣơng mại toàn cầu của Australia đạt
hơn 350 tỉ USD, trong đó hơn 200 tỉ USD
là buôn bán với châu Á. Hiện nay, bạn
hàng lớn nhất của Australia không phải là
Mĩ mà chính là Nhật với kim ngạch khoảng
40 tỉ USD.
Về phía ASEAN, bạn hàng lớn nhất
của các nƣớc này v n là Mĩ. Theo Hội
đồng Kinh doanh Mĩ - ASEAN, các thành
viên Hiệp hội ASEAN là đối tác thƣơng
mại lớn thứ năm của Mĩ với kim ngạch
tăng mạnh từ 161 tỉ USD năm 2006 lên
khoảng 180 tỉ USD năm 2008. Năm 2008,
Mĩ xuất khẩu sang ASEAN trị giá 68,4 tỉ
USD, tƣơng đƣơng kim ngạch xuất sang
Trung Quốc và gấp ba lần kim ngạch xuất
sang Ấn Độ16. Điều đó không hề cản trở sự

hợp tác kinh tế giữa Australia với ASEAN,
mà trái lại nó phù hợp với ngoại giao kinh
tế của Australia vốn luôn coi Mĩ là đồng
minh quan trọng hàng đầu. Trao đ i mậu
dịch hai chiều giữa Australia và khu vực
ASEAN đạt 16,7 tỉ AUD (1994 – 1995),
trong đó xuất khẩu của Australia sang
ASEAN đạt 10,3 tỉ AUD. Nhƣ vậy,
ASEAN đã vƣợt cộng đồng châu Âu để trở
thành thị trƣờng lớn thứ hai của Australia
(chỉ sau Nhật Bản)17.
ASEAN đã lớn mạnh, trở thành một t
chức khu vực thành công và đang mở rộng
vai trò của khối này với tƣ cách là một nền
kinh tế hợp nhất, cũng nhƣ một động lực
duy trì hoà bình và n định khu vực và trên
thế giới. Các nƣớc ASEAN đã nhất trí
thành lập một khối chính trị chặt chẽ hơn
cùng với việc thành lập một khu vực tự do
thƣơng mại cùng với các đối tác hàng đầu
vào năm 2015. Viện Chính sách Chiến
lƣợc Australia (ASPI) cuối tháng 2/2011
công bố tập tài liệu mới (Changing pace:


NGUYỄN ĐỨC HÒA

ASPI’s strategic assessment 2011) đánh giá
về mô hình chiến lƣợc toàn cầu đang thay
đ i, trong đó có phần nhận định về môi

trƣờng an ninh Đông Nam Á và những
hành động, chính sách của Australia với
Đông Nam Á. Các nƣớc ASEAN rất khác
nhau về hệ thống chính trị và những hoàn
cảnh chiến lƣợc, nhƣng khu vực này đã
đƣợc hƣởng lợi nhiều từ cơ hội phát triển
và 30 năm tƣơng đối hoà bình. Nếu 10 nền
kinh tế ASEAN gộp lại với nhau, với t ng
dân số trên 600 triệu ngƣời, khu vực này sẽ
có GDP (PPP) là 3.076 tỉ AUD và lớn hơn
quy mô kinh tế của nƣớc Đức18.
Năm 2007, ASEAN kỉ niệm lần thứ 40
ngày khởi đầu và 30 năm quan hệ ngoại
giao với Hoa Kì. Ngày 26 tháng 8 năm
2007, ASEAN đặt các mục tiêu hoàn thành
mọi thoả thuận tự do thƣơng mại của T
chức này với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ấn Độ, Australia và New Zealand
vào năm 2013, cùng với việc thành lập
Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm
201519. Đến nay, ASEAN có 11 nƣớc và t
chức đối thoại, hợp tác kinh tế quan trọng
là: Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,
Australia, New Zealand, Ấn Độ, Nga, EU,
Mĩ, Ca-na-đa và UNDP.
Australia là một đối tác thƣơng mại
quan trọng của ASEAN. T ng kim ngạch
thƣơng mại của ASEAN và Australia tăng
từ 41,9 tỉ USD năm 2007 lên 51,5 tỉ USD
trong năm 2008. T ng số vốn đầu tƣ trực

tiếp (FDI) từ Australia vào ASEAN cũng
tăng từ 303 triệu USD (2006) lên 973,3
triệu USD năm 2008. Số lƣợng khách du
lịch cùng các doanh nhân từ Australia đến
ASEAN tìm cơ hội làm ăn, đầu tƣ tăng từ
2,4 triệu ngƣời năm 2007 lên 2,9 triệu
ngƣời năm 200820. Các cuộc hội nghị tham
vấn Bộ trƣởng kinh tế ASEAN (AEM) –
với Khu vực Quan hệ kinh tế Australia –

New Zealand (CER) đƣợc t chức hàng
năm đã trở thành diễn đàn cấp cao nhất,
nơi các chính sách thƣơng mại và các sáng
kiến hỗ trợ cho quan hệ đối tác chặt chẽ
giữa ASEAN và Australia đƣợc khởi
xƣớng và thảo luận. Các quan chức kinh tế
cấp cao ASEAN (SEOM) cũng thƣờng
xuyên gặp gỡ các đồng nhiệm CER.
Bộ trƣởng Thƣơng mại Australia Simon
Crean tuyên bố Hiệp định thƣơng mại tự do
(FTA) ASEAN - Australia - New Zealand là
hiệp định thƣơng mại toàn diện nhất mà
Canberra từng đàm phán. Hiệp định thành
lập khu vực mậu dịch tự do ASEANAustralia-New Zealand (AANZFTA) đã
đƣợc các Bộ trƣởng kinh tế ASEAN,
Australia và New Zealand kí kết bên lề Hội
nghị thƣợng đỉnh ASEAN lần thứ 14 (vào
ngày 27/2/2009) tại Cha-am/Hua Hin, Thái
Lan. Đây là th a thuận kinh tế riêng lẻ toàn
diện nhất ASEAN tham gia từ trƣớc đến

nay, bao gồm thƣơng mại về hàng hoá và
dịch vụ (gồm các dịch vụ tài chính và viễn
thông), đầu tƣ, thƣơng mại điện tử, di
chuyển lao động, quyền sở hữu trí tuệ, chính
sách cạnh tranh và hợp tác kinh tế. Đây là
th a thuận liên khu vực đầu tiên của
ASEAN và hiệp định thƣơng mại tự do đầu
tiên có Australia và New Zealand cùng
tham gia đàm phán.
Hiệp định AANZFTA có vai trò rất
quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ
kinh tế, thƣơng mại và đầu tƣ giữa ASEAN
và Úc, New Zealand vì đây là hiệp định đa
phƣơng đầu tiên giữa ASEAN với
Australia. Sau khi Hiệp định AANZFTA
đƣợc kí kết, các bên đang chuẩn bị tiến tới
thông qua và thực thi Hiệp định. Khi
AANZFTA có hiệu lực, rất nhiều mặt hàng
của các nƣớc ASEAN nhƣ: cá, ngũ cốc,
trái cây, rau củ, giày da, may mặc.... sẽ
đƣợc hƣởng mức thuế suất 0% khi xuất


QUAN HỆ AUSTRALIA - ASEAN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỈ XXI

khẩu sang Australia. Hiệp định quy định
việc xóa b tất cả các loại thuế của
Australia đánh vào các hàng nhập khẩu từ
các nƣớc tham gia AANZFTA, tạo cơ chế
giải quyết tranh chấp giữa Nhà nƣớc và

nhà đầu tƣ và các cam kết mở cửa thị
trƣờng trong lĩnh vực đầu tƣ.
Ngày 27 tháng 2 năm 2009 Thoả thuận
tự do thương mại giữa 10 quốc gia thành
viên khối ASEAN và New Zealand cùng
đối tác thân cận của ASEAN là Australia
đã đƣợc kí kết, ƣớc tính rằng Thoả thuận tự
do Thƣơng mại này sẽ làm tăng GDP của
12 quốc gia lên thêm hơn 48 tỉ USD trong
giai đoạn 2000 - 202021.
Thƣơng mại hai chiều giữa Australia
và ASEAN hiện vào khoảng 80 tỉ AUD
hàng năm. Hiện có trên 18.000 công ty
Australia đang làm ăn với nhiều bạn hàng
tại ASEAN. Hiệp định thƣơng mại tự do
Australia - ASEAN chính thức có hiệu lực
từ ngày 1/1/2010 vốn là hiệp định thƣơng
mại lớn nhất từ trƣớc đến nay của
Australia. Qua đó các công ty Australia
đƣợc hƣởng các điều kiện xuất khẩu hàng
hoá và dịch vụ dễ dàng hơn sang một trong
các thị trƣờng lớn nhất ở châu Á (có 600
triệu ngƣời tiêu dùng, GDP hàng năm hơn
ba nghìn tỉ AUD). Bộ Ngoại thƣơng
Australia cho biết giao dịch thƣơng mại
giữa Australia với ASEAN sẽ còn lớn hơn
trao đ i hàng hoá giữa Australia với Trung
Quốc hay giữa Australia và Nhật Bản22.
Hợp tác Australia –ASEAN trở nên đa
dạng hơn, qua việc nƣớc này tham gia tích

cực vào sự phát triển kinh tế Tiểu vùng
Mekong. Vào năm 2009, chính phủ
Australia công bố một khoản trợ giúp trị
giá 13 triệu đô la Australia cho Ủy ban
sông Mekong nhằm hỗ trợ quản lí nguồn
nƣớc tốt hơn trong lƣu vực sông Mekong.

Bộ trƣởng Ngoại giao Australia S. Smith
cho biết: Australia sẽ cung cấp 1,2 triệu
đô la Australia để hỗ trợ thúc đẩy thƣơng
mại dọc theo các hành lang giao thông
khu vực quan trọng trong Tiểu vùng
Mekong mở rộng23.
Chính phủ Australia cam kết sẽ dành
khoản ngân sách viện trợ phát triển trị giá
105,9 triệu AUD (gần 85 triệu USD) cho
Việt Nam trong tài khoá của Australia kéo
dài từ 1/7/2009 đến 30/6/2010. Trong năm
tài khoá này, Australia sẽ cung cấp 28 triệu
AUD hỗ trợ các dự án giao thông trọng
điểm và xây mới các tuyến đƣờng trong
khu vực nhằm kết nối các vùng nông thôn
nghèo với các tuyến giao thông chính và
hành lang kinh tế trọng điểm của khu vực,
đặc biệt là lƣu vực sông Mekong.
3. KẾT LUẬN
Trải qua những thăng trầm của lịch sử,
dù có tồn tại những dị biệt, nhƣng nhìn
chung xu hƣớng hợp tác giữa Australia với
các nƣớc Đông Nam Á là tốt đẹp. Chính

những yếu tố giao lƣu gần gũi về lịch sử và
văn hoá đã tạo ra nét đặc biệt trong quan hệ
Australia với châu Á và ASEAN. Với GDP
khoảng hơn một nghìn tỉ USD, dân số 30
triệu ngƣời, Australia vốn đã có một lịch sử
hợp tác bền chặt và thân thiện với ASEAN.
Australia là đối tác đối thoại đầu tiên của
ASEAN. Việc duy trì một nền kinh tế mở
và tiếp tục hội nhập sâu vào thị trƣờng toàn
cầu sẽ là những yếu tố quan trọng giúp nền
kinh tế thị trƣờng của cả Australia và
ASEAN phát triển. Chính sách hƣớng về
châu Á mở ra hợp tác hiệu quả trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là về chính trị, kinh tế
giữa Australia và các nƣớc châu Á nói
chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng,
trong đó có Việt Nam.


Chú thích:
1
/>2
“Lịch sử và ý nghĩa của ngày Quốc khánh Australia”
/>24094152#Pn3wBhHFePgU
3
Australian Bureau of Statistics. Year Book Australia 2005.
4
Nguyễn Tiến Đạt (2006), Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo trên
thế giới, Nxb Giáo dục, tr.147
5

“Background note: Australia”. US Department of State. 2007.
6
“The Evolution of Australia's Multicultural Policy”. Department of Immigration and
Multicultural and Indigenous Affairs (2005).
7
Inflow of foreign-born population by country of birth, by year, Australian Immigration
Fact Sheet 20. Migration Programme Planning Levels and Immigration intake to rise to
300.000, 11/06/2008.
8
Gareth Evans & Bruce Grant, 1999, “Đông Dƣơng”, tr. 272
9
Đỗ Thị Hạnh (1999), Quan hệ của Australia với Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế giới
thứ II, Nxb Giáo Dục, tr.174.
10
International Monetary Fund, World Economic Outlook Database, April 2011: Nominal
GDP list of countries. Data for the year 2010
11
/>12
/>13
Vũ Tuyết Loan (2004), Chính sách của Australia đối với Asian (từ 1991 – nay) hiện
trạng và triển vọng, Nxb KHXH, tr.121.
14
/>15
Anh Phƣơng (2010), “Hội nghị nâng cao vị thế của ASEAN- Bƣớc phát triển đột phá về
mọi mặt”, Giáo dục & Thời đại, (157), Thứ Ba 2-11-2010, tr.10.
16
/>17
Đỗ Thị Hạnh (1999), Quan hệ của Australia với Đông Nam Á Sđd … tr.198
18
/>19

Ong, Christine. “ASEAN confident of concluding FTAs with partners by 2013”, Channel
NewsAsia, 27/ 8/ 2007.
20
/>21
“ASEAN, Australia and New Zealand Free Trade Agreement - NZ Ministry of Foreign
Affairs and Trade”. Mfat.govt.nz.
22
/>23
/>

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.

/>“Lịch sử và ý nghĩa của ngày Quốc khánh Australia”
/>070124094152#Pn3wBhHFePgU
3. Australian Bureau of Statistics. Year Book Australia 2005.
4. Nguyễn Tiến Đạt (2006), Kinh nghiệm và thành tựu phát triển giáo dục và đào tạo
trên thế giới, Nxb.GD, tr.147.
5. “Background note: Australia”. US Department of State. 2007.
6. “The Evolution of Australia's Multicultural Policy”. Department of Immigration and
Multicultural and Indigenous Affairs (2005).
7. Inflow of foreign-born population by country of birth, by year, Australian Immigration
Fact Sheet 20. Migration Programme Planning Levels and Immigration intake to rise
to 300.000, 11/06/2008.
8. Gareth Evans & Bruce Grant (1999), Đông Dương, tr. 272.
9. Đỗ Thị Hạnh (1999), Quan hệ của Australia với Đông Nam Á từ sau chiến tranh thế
giới thứ II, Nxb Giáo dục, tr.174, 182.
10. Vũ Tuyết Loan (2004), Chính sách của Australia đối với Asean (từ 1991 đến nay) hiện
trạng và triển vọng, Nxb KHXH, tr. 35-36, 121.




×