Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

Tình trạng dinh dưỡng và thực trạng nuôi dưỡng bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện lão khoa trung ương năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.04 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TÊ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ THANH HÀ

TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ THỰC TRẠNG
NUÔI DƯỠNG BỆNH NHÂN TAI BIÊN MẠCH MÁU NÃO
TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG NĂM 2019

LUẬN VĂN THẠC SĨ DINH DƯỠNG


HÀ NỘI – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TÊ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

LÊ THANH HÀ
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ THỰC TRẠNG
NUÔI DƯỠNG BỆNH NHÂN TAI BIÊN MẠCH MÁU NÃO
TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG NĂM 2019
Chuyên ngành: Dinh dưỡng
Mã số: 60720303
LUẬN VĂN THẠC SĨ DINH DƯỠNG
Người hướng dẫn khoa học
1. TS. Nghiêm Nguyệt Thu


2. PGS.TS. Phạm Văn Phú


HÀ NỘI – 2019
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
TS.BS. Nghiêm Nguyệt Thu và PGS.TS. Phạm Văn Phú đã tận tình hướng
dẫn và chỉ bảo cặn kẽ cho em trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Em xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới Ban Lãnh đạo và Phòng ĐT –
QLKH – HTQT của Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng đã tạo
điều kiện thuận lợi để em có thể hoàn thành luận văn này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban Giám hiệu, Phòng Đào tạo Sau
Đại học Trường Đại học Y Hà Nội đã tạo môi trường học tập thuận lợi cho em
trong suốt thời gian học tập và thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Bộ môn Dinh dưỡng & An toàn
thực phẩm – Viện Y học Dự phòng và Y tế Công cộng đã đóng góp nhiều y
kiến quy báu cho em trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Bệnh viện Lão khoa Trung
ương, y bác sĩ đang công tác tại khoa Cấp cứu và Đột Quị, khoa Thần kinh Alzheimer đã hỗ trợ, tạo điều kiện cho em trong quá trình thu thập số liệu để
hoàn thiện luận văn.
Cuối cùng em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, người
thân và bạn bè đã luôn ở bên động viên, khích lệ để em không ngừng học tập
và phấn đấu trưởng thành như ngày hôm nay.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Học viên


Lê Thanh Hà


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
- Ban Giám hiệu Trường Đại học Y Hà Nội.
- Phòng Đào tạo Sau đại học - Trường Đại học Y Hà Nội.
- Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng - Trường Đại học
Y Hà Nội.
- Bộ môn Dinh dưỡng & An toàn thực phẩm.
- Hội đồng chấm Khóa luận tốt nghiệp thạc sĩ năm học 2017 – 2019.
Em xin cam đoan đây là nghiên cứu của em. Các số liệu, cách xử ly,
phân tích số liệu là hoàn toàn trung thực và khách quan. Các kết quả nghiên
cứu này chưa được công bố trên bất kỳ tài liệu nào.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Lê Thanh Hà


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT


BMI
CED
CRP
ĐTĐ
EN
ESPEN

Body Mass Index: Chỉ số khối cơ thể
Chronic Energy Deficiency: Thiếu năng lượng trường diễn
C – reactive protein: Protetin phản ứng C
Đái tháo đường
Enteral nutrition: nuôi dưỡng đường ruột
European Society for Clinical Nutrition and Metabolism

MNA
MUAC
NRS 2002

Hiệp hội Dinh dưỡng lâm sàng Châu Âu
Mini Nutritional Assessment
Mid upper arm circumference: Chu vi vòng cánh tay
Nutritional Risk Screening 2002: Công cụ sàng lọc nguy cơ

PN
SDD
SGA

dinh dưỡng 2002
Parenteral Nutrition: nuôi dưỡng đường tĩnh mạch

Suy dinh dưỡng
Subjective Global Assessment: Công cụ đánh giá tổng thể

TBMMN
THA
TTDD
WHO

chủ quan
Tai biến mạch máu não
Tăng huyết áp
Tình trạng dinh dưỡng
World Health Organization: Tổ chức Y tế Thế Giới

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐÊ...................................................................................................1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU..........................................................3
1.1. Đại cương về tai biến mạch máu não......................................................3
1.1.1. Định nghĩa.........................................................................................3
1.1.2. Phân loại............................................................................................3
1.1.3. Các yếu tố nguy cơ............................................................................4
1.1.4. Tỷ lệ mắc TBMMN trên Thế Giới và ở Việt Nam............................6


1.2. Dinh dưỡng đối với bệnh nhân tai biến mạch máu não..........................7
1.2.1. Tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với bệnh nhân TBMMN.........7
1.2.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân TBMMN....................................8
1.2.3. Phương pháp nuôi dưỡng bệnh nhân TBMMN................................9
1.2.4. Nguyên tắc dinh dưỡng cho bệnh nhân TBMMN...........................12
1.3. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng.......................................14

1.3.1. Khái niệm........................................................................................14
1.3.2. Các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng đối với người
bệnh TBMMN.................................................................................14
1.4. Thực trạng tình trạng dinh dưỡng và nuôi dưỡng người bệnh TBMMN. .20
1.4.1. Thế Giới..........................................................................................20
1.4.2. Việt Nam.........................................................................................21
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............22
2.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu........................................22
2.2. Thiết kế nghiên cứu...............................................................................22
2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu.......................................................22
2.3.1. Cỡ mẫu............................................................................................22
2.3.2. Phương pháp chọn mẫu...................................................................23
2.4. Phương pháp thu thập số liệu và tiêu chuẩn đánh giá...........................23
2.4.1. Nhân trắc.........................................................................................23
2.4.2. Sàng lọc dinh dưỡng theo bộ công cụ NRS 2002...........................25
2.4.3. Thực trạng nuôi dưỡng và khẩu phần ăn.........................................27
2.5. Biến số và chỉ số nghiên cứu.................................................................27
2.6. Quy trình thu thập số liệu......................................................................28
2.7. Phân tích số liệu....................................................................................29
2.8. Sai số và khống chế sai số trong nghiên cứu.........................................29
2.9. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu.........................................................29


CHƯƠNG 3: KÊT QUẢ NGHIÊN CỨU.....................................................31
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu...........................................31
3.2. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu.................................33
3.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu lúc nhập viện....33
3.2.2. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu sau quá trình nằm viện..37
3.3. Thực trạng nuôi dưỡng của đối tượng nghiên cứu................................39
3.3.1. Các đường nuôi ăn và thời gian nuôi ăn.........................................39

3.3.2. Khẩu phần ăn trong quá trình nằm viện..........................................41
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN..............................................................................44
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu:..........................................44
4.2. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu.................................46
4.2.1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu lúc nhập viện....46
4.2.2. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu sau 7 ngày nhập viện. 51
4.3. Thực trạng nuôi dưỡng của đối tượng nghiên cứu................................54
4.3.1. Các đường nuôi dưỡng và thời gian nuôi ăn...................................54
4.3.2. Khẩu phần ăn trong quá trình nằm viện..........................................55
KÊT LUẬN.....................................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1:

Phân loại tình trạng dinh dưỡng cho người trưởng thành...............16

Bảng 3.1.

Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu.....................................31

Bảng 3.2.

Đặc điểm bệnh ly của đối tượng nghiên cứu.................................32

Bảng 3.3.

Số đối tượng nghiên cứu sử dụng MUAC và chiều dài cẳng chân để
ước tính cân nặng và chiều cao.....................................................33


Bảng 3.4.

Đặc điểm nhân trắc của bệnh nhân lúc nhập viện..........................34

Bảng 3.5.

Tình trạng dinh dưỡng theo chu vi vòng cánh tay.........................35


Bảng 3.6.

Phân loại giữa BMI và nhóm tuổi của bệnh nhân lúc nhập viện........35

Bảng 3.7.

Mối liên quan giữa NRS 2002 và BMI của bệnh nhân lúc nhập
viện..............................................................................................36

Bảng 3.8.

Thay đổi chu vi vòng cánh tay trong tuần đầu nhập viện...............37

Bảng 3.9.

Thay đổi cân nặng của bệnh nhân trong tuần đầu nhập viện..........37

Bảng 3.10. Chỉ số BMI lúc nhập viện và sau 7 ngày nằm viện........................37
Bảng 3.11. Chỉ số Albumin, CRP, Hemoglobin máu trong 7 ngày nằm viện...38
Bảng 3.12. Chỉ số Cholesterol, Triglycerid, HDL-cholesterol, LDL-cholesterol

máu trong 7 ngày nằm viện..........................................................38
Bảng 3.13. Tỷ lệ các đường nuôi dưỡng bệnh nhân trong 7 ngày từ lúc nhập
viện..............................................................................................39
Bảng 3.14. Tỷ lệ bệnh nhân được nuôi ăn trong vòng 48 giờ đầu sau nhập
viện..............................................................................................40
Bảng 3.15. Tỷ lệ bệnh nhân được nuôi ăn qua sonde dạ dày trong vòng 48h đầu
sau nhập viện................................................................................40
Bảng 3.16. Mức tiêu thụ năng lượng trung bình từ khẩu phần ăn trong 7 ngày
nuôi dưỡng...................................................................................41
Bảng 3.17. Giá trị năng lượng và protein theo cân nặng bệnh nhân đạt được
trong tuần đầu nhập viện..............................................................41
Bảng 3.18. Mức năng lượng khẩu phần bệnh nhân đạt được trong ngày đầu nhập
viện và ngày 7 sau nằm viện..........................................................42
Bảng 3.19. Mức protein khẩu phần bệnh nhân đạt được trong ngày đầu nhập viện
và ngày 7 sau nằm viện.................................................................43


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 .

Các bệnh ly khác kèm theo......................................................33

Biểu đồ 3.2.

Tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân lúc nhập viện theo BMI. 34

Biểu đồ 3.3.

Nguy cơ dinh dưỡng của bệnh nhân lúc nhập viện theo NRS 2002. .36


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1.

Các bước đo chu vi vòng cánh tay.............................................23

Hình 2.2.

Cách đo chiều dài cẳng chân......................................................24


1

ĐẶT VẤN ĐÊ
Ngày nay, dân số người cao tuổi đang tăng lên nhanh chóng cả về số
lượng và tỷ lệ so với tổng dân số. Theo Tổ chức Y tế Thế Giới (WHO), dân số
già là một thách thức mới trong vấn đề chăm sóc sức khỏe. Theo dự báo dân
số của Tổng cục điều tra dân số (2010) tỷ lệ người cao tuổi so với tổng dân số
Việt Nam đã lên đến 10% vào năm 2012 [1]. Dân số già hóa kéo theo tỷ lệ
mắc các bệnh tuổi già ngày càng tăng.
Tai biến mạch máu não (TBMMN) là bệnh thường gặp ở người cao tuổi,
là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ ba sau bệnh tim mạch và ung thư ở các
nước phát triển. Theo báo cáo của WHO tỷ lệ mắc mới của TBMMN trong
một năm là từ 100-250/100.000 dân [2]. TBMMN là bệnh có tỷ lệ tử vong rất
cao hoặc để lại những di chứng hết sức nặng nề, ảnh hưởng đến đời sống, sinh
hoạt của người bệnh, gia đình và xã hội. Năm 2013 trên toàn cầu, có gần 25,7
triệu người sống sót sau TBMMN, 6,5 triệu người chết vì TBMMN, 113 triệu
người giảm hoặc mất khả năng vận động dẫn đến khyết tật do TBMMN, 10,3
triệu người mắc mới TBMMN [3]. Chi phí cho điều trị, chăm sóc bệnh nhân
TBMMN rất tốn kém song kết quả đạt được còn hạn chế. Hoa Kỳ mỗi năm
chi tiêu 7 tỷ đô la cho TBMMN, ở Pháp chi phí cho TBMMN chiếm 2,5-3,0%

tổng số chi phí y tế trong cả nước [4].
Ở Việt Nam, vấn đề dịch tễ học TBMMN trong cộng đồng chỉ mới được
quan tâm gần đây. Số liệu thống kê chưa đầy đủ cho thấy có nhiều người mắc
bệnh ly mạch máu não và có tỷ lệ từ vong rất cao. Theo công trình nghiên cứu
dịch tễ học TBMMN ở Việt Nam từ năm 1989-1994 của Bộ môn thần kinh
trường Đại học Y Hà Nội và trường Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh
cho thấy tỷ lệ hiện mắc ở Hà Nội là 105/100.000 dân, ở thành phố Hồ Chí
Minh là 400/100.000 dân, ở Huế là 106/100.000 dân. Tỷ lệ tử vong do
TBMMN ở 3 địa phương trên lần lượt là: 17,6% ở Hà Nội, 28,0% ở thành phố
Hồ Chí Minh và 30,7% ở Huế [5].


2

Bệnh nhân TBMMN thường giảm hoặc mất khả năng vận động, liệt nửa
người, rối loạn nuốt, giảm độ nhạy của các cơ quan cảm thụ: thị giác, thính
giác, khứu giác và vị giác. Những vấn đề này thường làm bệnh nhân khó khăn
trong việc đi lại, ăn uống. Từ đó thể trạng cũng như khả năng phục hồi của
bệnh nhân giảm rõ rệt, tăng nguy cơ SDD [6].
Tình trạng SDD trong quá trình nằm viện chiếm tỉ lệ khá cao. Ở Úc tỷ lệ
SDD ở người bệnh mới vào viện chiếm khoảng 40%. Ở Brazil tỷ lệ SDD nằm
viện là 56,5%, trong đó SDD nặng là: 17,4%, SDD nhẹ và vừa là 39,1% [7].
Theo Hiệp hội dinh dưỡng lâm sàng châu Âu ESPEN (2006) thì tỷ lệ SDD
chiếm 20 - 60% bệnh nhân nằm viện và có đến 30 - 60% bị giảm cân trong
thời gian điều trị [8].
Người ta ước tính cứ 5 bệnh nhân TBMMN nhập viện thì có 1 bệnh nhân
có tình trạng SDD [9]. Một nghiên cứu của Foley NC (2009) ước tính tỷ lệ
SDD sau TBMMN dựa trên 18 báo cáo khác nhau nhận thấy tỷ lệ SDD dao
động từ 6,1 đến 62,0% [10]. Bệnh nhân TBMMN nếu kèm theo SDD càng làm
tăng nguy cơ gây suy giảm miễn dịch, nhiễm khuẩn bệnh viện, tàn phế, tăng

thời gian nằm viện và thậm chí có thể dẫn đến tử vong.
Để có thể góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc điều trị cũng như
giảm chi phí chăm sóc y tế, giảm biến chứng, cải thiện tình trạng dinh dưỡng
cho người bệnh TBMMN. Đề tài: “Tình trạng dinh dưỡng và thực trạng
nuôi dưỡng bệnh nhân tai biến mạch máu não tại bệnh viện Lão khoa
trung ương năm 2019” được tiến hành nhằm mục tiêu sau:
1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của bệnh nhân tai biến mạch máu
não tại bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2019.
2. Mô tả thực trạng nuôi dưỡng bệnh nhân tai biến mạch máu não tại
bệnh viện Lão khoa Trung ương năm 2019.


3

CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương về tai biến mạch máu não
1.1.1. Định nghĩa
Tai biến mạch máu não là một hội chứng lâm sàng đặc trưng bởi các dấu
hiệu rối loạn chức năng của não (khu trú hoặc toàn thể) phát triển nhanh, kéo
dài trên 24 giờ hoặc dẫn đến tử vong, không xác định nguyên nhân nào khác
ngoài căn nguyên mạch máu [11].
1.1.2. Phân loại
TBMMN não thực ra là một nhóm bệnh ly khá phức tạp do nhiều nguyên
nhân tùy thuộc vào vị trí tổn thương (động mạch, tĩnh mạch), vào cơ chế bệnh
sinh (chảy máu, thiếu máu).v.v...
TBMMN thường được phân thành ba loại:
+ TBMMN thiếu máu cục bộ não (nhồi máu não hay nhũn não).
+ TBMMN chảy máu não.

+ Loại hỗn hợp vừa chảy máu não vừa nhồi máu não.
Thiếu máu não cục bộ là hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần
hoàn não do tắc một phần hay toàn bộ một động mạch não. Khu vực được
tưới bởi mạch máu bị tắc không được nuôi dưỡng sẽ bị hủy hoại nhũn ra.
Trong thiếu máu cục bộ não người ta phân biệt các loại:
Thiếu máu cục bộ não thoáng qua: được coi là nguy cơ của thiếu máu
cục bộ hình thành.
Thiếu máu cục bộ não hồi phục: nếu quá trình phục hồi quá 24 giờ
không di chứng hoặc di chứng không đáng kể.
Thiếu máu cục bộ não hình thành: không hồi phục, di chứng nhiều.
Chảy máu não: là sự xuất hiện của máu trong nhu mô não. Có thể đi
kèm máu trong khoang dưới nhện và các não thất [12].


4

1.1.3. Các yếu tố nguy cơ
Có nhiều yếu tố nguy cơ gây TBMMN, được chia thành 2 nhóm: Nhóm
không thay đổi được và nhóm thay đổi được [13].
1.1.3.1. Nhóm yếu tố nguy cơ không thay đổi được
Tuổi: Yếu tố tác động mạnh nhất đến TBMMN là tuổi. Theo nghiên cứu
của nhiều tác giả, TBMMN có chiều hướng tăng theo tuổi, tuổi càng cao có
nguy cơ mắc bệnh càng tăng. Cứ 10 năm sau 55 tuổi, tỷ lệ TBMMN tăng gấp
đôi ở cả nam và nữ [14]. Hơn một nửa bệnh nhân TBMMN xảy ra ở người
trên 75 tuổi và hơn 80% ở người trên 65 tuổi [15]. Nghiên cứu của Trần Quốc
Khánh (2009), Đặng Việt Thu (2011), tuổi trung bình bệnh nhân TBMMN lần
lượt là 71,0 ± 8.4 và 72,1 ± 8.0 [16],[17].
Giới: TBMMN hay gặp ở nam nhiều hơn ở nữ. Nghiên cứu của Đinh
Văn Thắng (2007) thấy tỷ lệ nam và nữ lần lượt là 54,3% và 45,7%, tỷ lệ
nam/nữ là 1,1/1,0 [18]. Nghiên cứu của Đặng Việt Thu (2011) thấy tỷ lệ nam

và nữ lần lượt là 56,0% và 44,0%, tỷ lệ nam/nữ là 1,27/1,0 [17].
Chủng tộc: So với người da trắng, những người da đen có tỷ lệ tử vong
do TBMMN cao hơn. Với độ tuổi như nhau, tỷ lệ mới mắc TBMMN ở người
da đen cao hơn người da trắng [19]. Trong một nghiên cứu dịch tễ của Hoa
Kỳ, ở cùng độ tuổi như nhau, tỷ lệ tử vong do TBMMN ở người da đen gấp
1,98 lần so với người da trắng [20].
Các yếu tố di truyền: tiền sử bố mẹ mắc TBMMN đều làm tăng nguy
cơ mắc bệnh này ở con cái. Các bất thường về di truyền có thể làm bộc lộ các
yếu tố nguy cơ như THA, ĐTĐ, tăng lipid máu, tăng hormocystein máu, rối
loạn đông máu. Giảm nồng độ Protein C, Protein S, đột biến yếu tố Vleiden
và giảm các yếu tố khác có thể làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch. Phình
tách động mạch, hội chứng moyamoya, loạn sản xơ cơ... đều có yếu tố gia
đình chiếm từ 10 đến 20% các trường hợp [21].


5

1.1.3.2. Nhóm yếu tố nguy cơ biến đổi được
Tăng huyết áp (THA): là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất trong
TBMMN. Khi THA đột ngột sẽ gây vỡ các vi tĩnh mạch, gây nên hiện tượng
chảy máu não. Mặt khác THA cũng thúc đẩy quá trình xơ vữa động mạch,
hình thành cục máu đông gây tắc mạch não [22].
Đái tháo đường (ĐTĐ): Ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ các nghiên
cứu đều cho rằng ĐTĐ là yếu tố nguy cơ gây ra tất cả các thể TBMMN [22],
[23]. Nghiên cứu UKPDS (United Kingdom Prospective Diabetes Study) cho
thấy giảm nồng độ HbA1C xuống 1% liên quan với giảm 15% nguy cơ mắc
TBMMN và 18% nhồi máu cơ tim [24].
Rối loạn lipid máu: Nhiều nghiên cứu về mối liên quan giữa nồng độ lipid
máu và TBMMN đã được thực hiện từ năm 1930, Nghiên cứu về Tim mạch của
Frick MH (1987) trên 1081 người tuổi từ 40-55 điều trị Gemifibrozil và giả dược

theo dõi 5 năm thấy hạ lipid máu làm giảm 34% nguy cơ TBMMN [25].
Béo phì: Người ta cho rằng béo phì không trực tiếp gây TBMMN mà có
thể thông qua các bệnh ly tim mạch. Những kết quả nghiên cứu ở Bắc Mỹ,
Châu Phi cận Sahara và Châu Âu cho thấy béo phì là yếu tố nguy cơ gây ra tất
cả các thể TBMMN. Những nghiên cứu gần đây cho rằng béo phì liên quan
chặt chẽ với xơ vữa động mạch [26].
Các bệnh lý tim mạch: Các bệnh tim mạch gây tắc mạch não như: Hẹp
hai lá, rối loạn nhịp tim đặc biệt là rung nhĩ, rung thất, bệnh cơ tim... là yếu tố
nguy cơ quan trọng nhất của nhồi máu cơ tim ở các nước phát triển. Vai trò
bệnh ly tim mạch dẫn đến TBMMN tăng theo tuổi. Theo nghiên cứu
Framingham, sau 36 năm thấy 8% TBMMN do THA, 32,7% do bệnh mạch
vành, 14,5% do suy tim, 14,5% do rung nhĩ và chỉ có 13,6% không do các
bệnh trên [27].


6

Thuốc lá: Hút thuốc là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với nhồi máu
cơ tim và TBMMN. Nghiên cứu Framingham cho thấy nguy cơ TBMMN
giảm đáng kể sau 2 năm không hút thuốc [27].
Lạm dụng rượu: Hiện nay các nghiên cứu trên thế giới còn nhiều y kiến
khác nhau về vai trò của rượu đối với TBMMN. Có tác giả thấy tỷ lệ tiêu thụ
rượu tăng lên 10% sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ mới mắc TBMMN lên 29% và
tỷ lệ tử vong do TBMMN lên 16%. Sau khi mắc TBMMN lần đầu, việc lạm
dụng rượu sẽ làm tăng nguy cơ tái phát TBMMN lần sau [28].
Tăng acid uric máu: Acid uric là sản phẩm cuối cùng của quá trình oxy
hóa phân hủy purin và được bài tiết khỏi cơ thể qua thận. Acid uric làm ảnh
hưởng tới quá trình ngưng kết tiểu cầu và làm tăng đông máu. Khi acid uric
máu ≥ 7mg/100ml sẽ làm tăng nguy cơ mắc TBMMN và nhồi máu cơ tim gấp
2 lần ở nam giới và là yếu tố tiên lượng kết quả điều trị sau nhồi máu cơ tim

và TBMMN ở cả 2 giới [29].
1.1.4. Tỷ lệ mắc TBMMN trên Thế Giới và ở Việt Nam
Thế giới
Tại Mỹ, số ca TBMMN tăng lên nhanh chóng. Trong thời gian từ năm
1973-1991, số ca bị TBMMN ở Mỹ tăng từ 1,5 triệu lên 2,4 triệu. Mỗi năm có
khoảng 700.000 người mắc, trong đó 500.000 bị TBMMN lần đầu và 200.000
bị tái phát lần sau, chi phí cho điều trị TBMNN ở Mỹ mỗi năm ước tính lên
đến 7,3 tỷ USD [30]. Tại Pháp tỷ lệ hiện mắc hàng năm là 350/100.000 dân ở
lứa tuổi 55 đến 64, 600/100.000 dân ở lứa tuổi 65 đến 74 và 950/100.000 dân
ở lứa tuổi trên 75 [31].
TBMMN là một vấn đề sức khỏe đặc biệt nghiêm trọng ở châu Á, nơi có
hơn 60% dân số Thế Giới và có nhiều quốc gia thuộc nhóm các nước phát triển
và đang phát triển. Năm 2017, một nghiên cứu trên quy mô lớn ở các nước châu
Á được thực hiện và nhận thấy: tỷ lệ mắc thấp nhất được ghi nhận ở Malaysia


7

(67/100.000 dân/năm), tỷ lệ mắc cao nhất là ở Nhật Bản (422/100.000 dân/năm).
Một số nước như Trung Quốc tỷ lệ mắc là 219/100.000 dân, Hàn Quốc là
216/100.000 dân [32].
Việt Nam
Vấn đề dịch tễ TBMMN trong cộng đồng mới chỉ được quan tâm gần
đây, số lượng công trình nghiên cứu về vấn đề này còn ít.
Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc TBMMN được cho là cao. Nghiên cứu dịch tễ
học năm 1995 của Nguyễn Văn Đăng nhận thấy:Tỷ lệ hiện mắc là 98/100.000
dân/năm [6]. Một báo cáo gần đây về dịch tễ học TBMMN ở các quốc gia
Đông Nam Á ghi nhận tỷ lệ mắc tại Việt Nam là 250/100.000 dân/năm [32].
Các nghiên cứu về tình hình TBMMN tại các bệnh viện cho thấy số bệnh
nhân TBMMN đang ngày càng tăng lên. Tại khoa thần kinh bệnh viện Bạch

Mai (1986-1989) trung bình có 80 bệnh nhân điều trị mỗi năm, nhưng tới giai
đoạn 1997-2000 con số này tăng lên trung bình mỗi năm là 1575 trường hợp
[33]. Tại bệnh viện Trung ương quân đội 108 từ năm 1997 – 1999 tỷ lệ bệnh
nhân TBMMN chiếm 17% bệnh nhân vào khoa thần kinh, nhưng tỷ lệ tử vong
do TBMMN chiếm đến 60% số bệnh nhân tử vong của khoa [34].
1.2. Dinh dưỡng đối với bệnh nhân tai biến mạch máu não
1.2.1. Tầm quan trọng của dinh dưỡng đối với bệnh nhân TBMMN
Trong bất kỳ một bệnh nào chế độ dinh dưỡng đều hết sức quan trọng.
Đối với bệnh nhân TBMMN việc hỗ trợ dinh dưỡng lại càng được chú y hơn
cả. Một nghiên cứu đã chỉ ra rằng, tổn thương não sau TBMMN gây nên
những rối loạn về chuyển hóa và sinh ly từ đó sẽ dẫn đến tình trạng SDD và
nếu bệnh nhân đã SDD trước đó nó sẽ nặng thêm tình trạng của bệnh nhân
[10], [35]. Việc mất khối nạc cơ thể (Lean Body Mass – LBM) được quan sát
thấy ở bệnh nhân TBMMN ước tính lên đến 25gN mỗi ngày khiến bệnh nhân
có cân nặng khoảng 70 kilogram mất 10% LBM trong một tuần [36].


8

Ngoài ra sau TBMMN một số chất trung gian chuyển hóa của quá trình
viêm như catecholamine, cortisol, interleukin-6, interleukin-IRA đều tăng dẫn
đến tăng huy động protein của cơ thể làm bệnh nhân sụt cân rõ rệt [37].
Khi đã xác định được bệnh nhân TBMMN không thể ăn uống đường
miệng thì việc nuôi ăn qua đường ruột (Enteral Nutrition – EN) phải được bắt
đầu trong vòng 24 – 48 giờ đầu tiên vì đó là một kế hoạch quan trọng trong
việc hỗ trợ dinh dưỡng ban đầu. Nuôi dưỡng đường ruột sớm sẽ giảm được
teo ruột, giảm mất khối cơ và giảm nhiễm khuẩn [38]. Nghiên cứu của Chiang
và cộng sự cho thấy nuôi dưỡng đường ruột sớm trước 48 giờ với bệnh nhân
TBMMN nặng có tỷ lệ sống sót cao hơn, hồi phục GCS (Glasgrow Coma
Score) ở tháng đầu tiên sau TBMMN [39]. Việc hỗ trợ dinh dưỡng sớm cung

cấp protein và chất béo làm giảm phản ứng viêm, tăng cường khả năng miễn
dịch, giảm các ca nhập ICU (Intensive Care Unit), cải thiện chức năng hệ thần
kinh sau 3 tháng [40].
1.2.2. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở bệnh nhân TBMMN
SDD đang là hiện tượng phổ biến của hầu hết tất cả bệnh nhân nằm viện.
Ngay cả ở những nước phát triển có nền y học hiện đại, tỷ lệ SDD trong bệnh
viện vẫn ở mức khá cao. Ở Úc tỷ lệ SDD ở người bệnh mới vào viện chiếm
khoảng 40%, tại Anh là 22% [7],[41]. Bệnh nhân nặng tại khoa điều trị tích
cực (ICU) thường có tình trạng SDD, trong một nghiên cứu theo dõi 346 bệnh
nhân điều trị tại ICU có trên 40% bệnh nhân bị giảm cân đáng kể (>10kg)
trong 6-8 tháng nằm điều trị [42]. Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hoan (2016)
trên bệnh nhân nặng nằm điều trị ở khoa ICU tại bệnh viện Bạch Mai cho
thấy tỷ lệ SDD đánh giá bằng điểm NUTRIC là 27% bệnh nhân có nguy cơ
dinh dưỡng [43].
Các bệnh nhân TBMMN có nguy cơ SDD cao hơn những bệnh nhân
khác do ở bệnh nhân TBMMN thường có các triệu chứng như: rối loạn nuốt,


9

liệt nửa người, suy giảm nhận thức, giảm xúc giác và vị giác... Tỷ lệ SDD sau
TBMMN rất khác nhau giữa các báo cáo được công bố. Nghiên cứu của
Corrigan (2011) trên bệnh nhân TBMMN tuổi từ 50-70 nhận thấy có 56,3%
bệnh nhân bị suy dinh dưỡng trong thời gian 3 tuần nằm viện [44]. Một
nghiên cứu khác của Foley NC (2009) ước tính tỷ lệ suy dinh dưỡng sau
TBMMN dựa trên 18 báo cáo khác nhau nhận thấy tỷ lệ suy dinh dưỡng dao
động từ 6,1 đến 62,0% [10]. Sự khác biệt về thời gian đánh giá, công cụ dùng
để đánh giá, loại TBMMN (xuất huyết não hay nhồi máu não), tình trạng hôn
mê và biến chứng sau TBMMN góp phần dẫn đến sự dao động tỷ lệ này. Hơn
nữa khi nhập viện ngoài TBMMN các bệnh ly mạn tính kèm theo như đái

tháo đường, tăng huyết áp, Gout, suy tim... cũng là nguyên nhân tăng nguy cơ
SDD, đặc biệt ở bệnh nhân cao tuổi.
Suy dinh dưỡng liên quan đến tăng tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong.
Những bệnh nhân SDD nói chung và đặc biệt những bệnh nhân TBMMN có
SDD nói riêng cần phải được hỗ trợ dinh dưỡng càng sớm càng tốt. Một mặt
ngăn ngừa các biến chứng nặng hơn, mặt khác tăng khả năng phục hồi ở bệnh
nhân sau TBMMN.
1.2.3. Phương pháp nuôi dưỡng bệnh nhân TBMMN
Đường nuôi dưỡng
Đối với bệnh nhân, luôn lựa chọn đường ruột: bệnh nhân tự ăn hoặc ăn
qua ống thông. Nếu có chống chỉ định (hôn mê, nôn, rối loạn nuốt, co giật...)
chuyển sang nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch ngoại vi, thậm chí nhiều
trường hợp bệnh nhân còn được nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch trung tâm.
1.2.3.1. Nuôi dưỡng qua ống thông
Mục đích là đưa ống thông qua đường mũi hoặc đường miệng vào dạ
dày để cung cấp thức ăn cho người bệnh cấp khi không tự ăn được bằng
đường miệng hoặc ăn không đủ qua đường miệng. Các lợi ích về dinh dưỡng


10

và phi dinh dưỡng của EN như duy trì tính toàn vẹn và cấu trúc chức năng
ruột phòng ngừa tăng tính thấm của ruột điều chỉnh đáp ứng chuyển hóa giúp
giảm kháng insulin, giúp cung cấp các chất dinh dưỡng, cung cấp đủ protein
và calories, vận chuyển các vi chất dinh dưỡng, các chất chống oxy hóa và
duy trì khối cơ nạc [45].
Nuôi dưỡng qua ống thông là phương pháp được ưu tiên lựa chọn để
nuôi dưỡng bổ sung hoặc thay thế cho nuôi đường miệng, khi lượng thức ăn
qua miệng quá ít không đáp ứng được nhu cầu hoặc không thể nuôi dưỡng
qua đường miệng trong trường hợp bệnh nhân hôn mê và rối loạn nuốt.

Các đường nuôi dưỡng qua ống thông hiện nay đang được sử dụng là:
+ Đường nuôi dưỡng qua sonde mũi – dạ dày.
+ Đường nuôi dưỡng qua sonde mũi – tá tràng.
+ Đường nuôi dưỡng qua sonde mũi – ruột non.
+ Mở thông dạ dày.
+ Mở thông hỗng tràng.
+ Mở thực quản [45].
Việc lựa chọn đường nuôi dưỡng dựa vào 4 yếu tố: Tình trạng sinh ly
của đường tiêu hóa, nguy cơ hít sặc, thời gian phải nuôi qua sonde và kỹ thuật
phù hợp với bệnh nhân.
Có 3 phương pháp chính nuôi dưỡng qua ống thông là: nhỏ giọt liên tục
(continuos), nhỏ giọt ngắt quãng (intermittent) hoặc bơm trực tiếp (bolus) vào
đường tiêu hóa là những phương pháp thông dụng nhất.
+ Nhỏ giọt liên tục (continous): là phương pháp có nhiều ưu điểm hơn
vì tránh đưa một khối lượng lớn với tốc độ nhanh dung dịch vào đường tiêu
hóa gây nên hiện tượng quá tải, chướng bụng, ỉa chảy, tăng nhanh nhu động
ruột và có thể trào ngược vào phổi.
+ Nhỏ giọt ngắt quãng (intermittent): Phụ thuộc vào tình trạng bệnh
nhân cho phép, phương pháp này cho phép các bệnh nhân có thời gian nghỉ
ngơi và tự chủ nhiều hơn so với nhỏ giọt liên tục.


11

+ Bơm trực tiếp (bolus): tổng lượng thức ăn được chia đều thành nhiều
bữa (thông thường 6 bữa/ ngày) trung bình khoảng 200-400 ml/bữa. Thời gian
bơm thức ăn ít nhất là 15 phút. Nuôi ăn bằng cách bơm trực tiếp được chỉ
định rộng rãi cho bệnh nhân, trường hợp bệnh nhân nặng nên duy trì tư thế
nằm đầu cao 30 độ trong khi cho ăn. Cần chú y trước khi bơm thức ăn, phải
kiểm tra lượng thức ăn còn đọng lại trong dạ dày bằng cách hút dịch dạ dày,

để kiểm tra dịch tồn dư dạ dày [45].
1.2.3.2. Nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch
Nuôi dưỡng đường tĩnh mạch được chỉ định khi cung cấp qua đường
miệng hoặc đường tiêu hóa là không thể hoặc không đầy đủ. Nuôi tĩnh mạch
là phương pháp nuôi dưỡng tạm thời trong thời gian ngắn, trong một số
trường hợp cần thiết với một số trường hợp bệnh nặng trong phòng hồi sức
cấp cứu và trong trường hợp một số bệnh ly đặc biệt như: tắc ruột, liệt ruột,
xuất huyết tiêu hóa nặng, viêm phúc mạc, viêm tụy cấp...[45].
Nuôi dưỡng bằng đường tĩnh mạch cũng gặp một số biến chứng sau:
+ Gây thiếu các chất: taurin, choline, Vitamin E và nhất là glutamin –
một acid amin quan trọng trong quá trình trao đổi chất. Nếu nuôi dưỡng tĩnh
mạch kéo dài sẽ dẫn đến thiếu một số yếu tố vi lượng như: đồng, kẽm,
phosphate và chrom.
+ Cơ học: gây huyết khối, tắc mạch, hoại tử da.
+ Nhiễm khuẩn: tụ cầu vàng candida.
+ Chuyển hóa: hạ đường máu hoặc tăng đường máu [45].
Hiện nay người ta thường áp dụng cả hai kỹ thuật nuôi dưỡng qua đường
tĩnh mạch là nuôi dưỡng qua tĩnh mạch trung tâm và nuôi dưỡng qua tĩnh
mạch ngoại vi.


12

+ Nuôi dưỡng tĩnh mạch ngoại vi: dễ thực hiện, ít biến chứng hơn
nhưng phải thay đổi nơi tiêm truyền nhiều lần do vậy thường được áp dụng
khi nuôi ăn ngắn ngày (7-14 ngày) hoặc chỉ nuôi hỗ trợ. Chống chỉ định trong
trường hợp bệnh nhân rối loạn chuyển hóa hoặc ven ngoại vi quá kém.
+ Nuôi dưỡng qua tĩnh mạch trung tâm: thường được tiến hành khi
cần nuôi dưỡng dài ngày (trên 2 tuần) và có thể cung cấp nhiều năng lượng
hơn nhưng kỹ thuật phức tạp hơn và có nhiều biến chứng hơn. Các dịch

truyền thường là ưu trương [45].
1.2.4. Nguyên tắc dinh dưỡng cho bệnh nhân TBMMN
Đối với bệnh nhân TBMMN việc nuôi ăn qua sonde dạ dày thường
được áp dụng nhiều hơn so với việc nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch. Việc
chỉ định nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch trung tâm với bệnh nhân TBMMN
ít gặp hơn vì gặp rất nhiều biến chứng như: nhiễm khuẩn huyết liên quan đến
catheter, và mất cân bằng điện giải [46].
Dinh dưỡng hỗ trợ đối với bệnh nhân TBMMN do rối loạn nuốt, thay đổi
trạng thái tâm thần và khả năng bệnh nhân phải đặt ống sonde. Dinh dưỡng
đường ruột được ưu tiên lựa chọn để hỗ trợ càng sớm càng tốt cho bệnh nhân.
Mức độ tổn thương thần kinh và hồi phục sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu dinh
dưỡng và kế hoạch hỗ trợ dinh dưỡng. Thời điểm chỉ định khi bệnh nhân
không thể ăn qua đường miệng, nuôi dưỡng đường ruột nên bắt đầu từ 24-48
giờ đầu vì nó là mục tiêu quan trọng trong kế hoạch chăm sóc ban đầu. Các
vấn đề dinh dưỡng: vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến đường tiêu hóa là tổn
thương chức năng miệng, hầu họng, và thực quản biểu hiện bằng nuốt khó.
Nuốt đòi hỏi nhiều đầu nhận cảm thần kinh để thực hiện chính xác, và
TBMMN làm tổn thương đến hệ thống này ở khoảng 60% bệnh nhân. Phối
hợp với chuyên môn phục hồi chức năng đánh giá chức năng nuốt, và tập


13

phục hồi chức năng nuốt cho bệnh nhân. Khi chuẩn bị thức ăn lưu y thay đổi
độ đặc lỏng phù hợp với tình trạng nuốt khó để giảm nguy cơ sặc. Quyết định
nuôi dưỡng bệnh nhân TBMMN như thế nào cần phải phụ thuộc vào tình
trạng của bệnh nhân, bệnh mắc kèm theo. Chọn đường nuôi cần bắt đầu càng
sớm càng tốt ngay khi bệnh nhân TBMMN ổn định và được hồi sức đầy đủ.
Chưa có nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho bệnh nhân TBMMN,
nhưng có hướng dẫn của Chương trình giáo dục quốc gia về Cholesterol máu

để phòng ngừa TBMMN ở bệnh nhân mắc bệnh mạch vành và đái tháo đường
được nghiên cứu > 90.000 bệnh nhân thấy chế độ ăn hợp ly giảm nguy cơ
mắc TBMMN [47]. Các phương trình đơn giản dựa vào cân nặng để ước tính
tiêu hao năng lượng từ 25-30 kcal/kg/ngày thích hợp để ước tính nhu cầu
năng lượng đủ ở hầu hết các bệnh nhân [48]. Qua các nghiên cứu đo năng
lượng lúc nghỉ của bệnh nhân sau TBMMN, nghiên cứu của Weekes đo năng
lượng lúc nghỉ của bệnh nhân 24-72 giờ sau TBMMN và lặp lại sau 10 – 14
ngày cũng thu được kết quả là nhu cầu năng lượng của bệnh nhân không tăng
cao so với người khỏe mạnh cùng lứa tuổi [49]. Các số liệu cho thấy cung cấp
đầy đủ protein là một vấn đề thiết yếu trong nuôi dưỡng bệnh nhân TBMMN.
Tầm quan trọng của sự tổng hợp protein não với sự tồn tại cũng như phục hồi
các tế bào thần kinh đã được nghiên cứu và chứng minh. Nhu cầu protein nên
được cá nhân hóa cho từng bệnh nhân, nhưng khuyến nghị chung từ 1,01,5g/kg/ngày [44]. Bệnh nhân TBMMN nên được áp dụng chế độ ăn cho từng
bệnh ly kèm theo như: ĐTĐ, THA, suy tim, rối loạn mỡ máu. Những chế độ
ăn này nên được xây dựng cẩn thận và cá nhân hóa theo mục tiêu dinh dưỡng
cho từng bệnh nhân vì những hạn chế về chế độ ăn uống có thể dẫn đến giảm
lượng thức ăn, đặc biệt ở người cao tuổi [50].


14

1.3. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng
1.3.1. Khái niệm
Tình trạng dinh dưỡng của mỗi cá thể phản ánh một mức độ mà trong
đó các nhu cầu sinh ly về các chất dinh dưỡng được thỏa mãn [51].
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng là xác định chi tiết, đặc hiệu và toàn diện
tình trạng dinh dưỡng người bệnh. Việc đánh giá này được thực hiện bởi các
cán bộ được đào tạo về dinh dưỡng như cán bộ y tế, tiết chế, y tá điều dưỡng.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng là cơ sở cho hoạt động tiết chế dinh dưỡng.
Quá trình đánh giá tình trạng dinh dưỡng giúp xây dựng kế hoạch chăm sóc

dinh dưỡng cho bệnh nhân và cũng là cơ sở cho việc theo dõi các can thiệp về
dinh dưỡng cho người bệnh [51].
1.3.2. Các phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng đối với người
bệnh TBMMN
1.3.2.1. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng qua chỉ số nhân trắc
Nhân trắc học dinh dưỡng có mục đích xác định, đo lường các biến đổi
về kích thước và cấu trúc cơ thể theo tuổi và tình trạng dinh dưỡng. Số đo
nhân trắc được sử dụng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng, để theo dõi thay
đổi về tình trạng dinh dưỡng và tình trạng mất khối cơ. Phương pháp này có
ưu điểm là đơn giản, an toàn và có thể điều tra trên một mẫu lớn, trang thiết bị
không đắt, dễ vận chuyển. Có thể khai thác đánh giá được các dấu hiệu về
dinh dưỡng trong quá khứ và xác định được mức độ SDD. Tuy nhiên, phương
pháp này cũng có một vài nhược điểm như: không đánh giá được sự thay đổi
về tình trạng dinh dưỡng trong giai đoạn ngắn hoặc không nhạy để xác định
các thiếu hụt dinh dưỡng đặc hiệu [52].
Trong thực hành trên lâm sàng, các số đo nhân trắc thường được dùng là:
cân nặng (tình bằng kilogram), chiều cao (tính bằng centimetes), chỉ số BMI,


15

chiều dài cẳng chân, chu vi vòng cánh tay [51].
Ở bệnh nhân TBMMN, các biến chứng làm bệnh nhân nằm liệt tại
giường. Vì vậy việc xác định chiều cao và cân nặng của bệnh nhân gặp rất
nhiều khó khăn. Hai chỉ số là chiều dài cẳng chân và chu vi vòng cánh tay
thường được sử dụng để ước tính chiều cao và cân nặng đối với những bệnh
nhân cao tuổi, bệnh nhân nặng, đặc biệt đối với bệnh nhân TBMMN [53].
• Chu vi vòng cánh tay
Được sử dụng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng liên quan tới khối cơ
và lượng protein khẩu phần. Nghiên cứu của James và cộng sự (1994) tại 5

nước châu Phi, Ấn Độ, Trung Quốc và Pagua New Guinea cho kết quả chu vi
vòng cánh tay bằng 23 cm ở nam và 22 cm ở nữ là điểm cắt có giá trị cho
sàng lọc tình trạng dinh dưỡng [54].
• Chiều dài cẳng chân
Ở bệnh nhân TBMMN, nhiều trường hợp bệnh nhân không đứng được
do những hậu quả sau TBMMN làm bệnh nhân mất thăng bằng, liệt nửa
người. Cheng H (2001) đã thực hiện một nghiên cứu với mục đích ước tính
chiều cao của người trưởng thành tại Đài Loan qua chiều dài cẳng chân và
xây dựng công thức:
+ Chiều cao nam = 85,1 + (1,73 x chiều dài cẳng chân) – (0,11x tuổi)
+ Chiều cao nữ = 91,45 + (1,53 x chiều dài cẳng chân) – (0,16 x tuổi) [55].
• Chỉ số khối cơ thể (BMI)
Body Mass Index (BMI) được Adolphe Quetelet người Bỉ đưa ra
năm 1832, chỉ số BMI là công cụ để đánh giá tình trạng dinh dưỡng đơn
giản và hiệu quả được tính theo công thức:
Chỉ số khối cơ thể (BMI)= [56]


16

Bảng 1.1: Phân loại tình trạng dinh dưỡng cho người trưởng thành
(Theo phân loại của WHO năm 1995) [57].
Tình trạng dinh dưỡng
CED độ 3
CED độ 2

Chỉ số BMI
<16
16 – 16,9


CED độ 1
Bình thường
Béo phì độ 1
Béo phì độ 2
Béo phì độ 3

17 – 18,4
18,5 – 24,9
25,0 – 29,9
30,0 – 39,9
≥ 40,0

Tiêu chuẩn chẩn đoán CED theo GLIM (Global Leadership Initiative
on Malnutrition) của ESPEN (2015):
+ Chỉ số khối cơ thể BMI<18,5 đối với người dưới 70 tuổi
+ Hoặc BMI<20,0 với người từ 70 tuổi trở lên [58].
1.3.2.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng qua các chỉ số hóa sinh
Protein toàn phần: Chỉ số này không nhạy vì có nhiều yếu tố ảnh
hưởng: protein khẩu phần, chuyển hóa thay đổi trong trường hợp chấn
thương, stress, nhiễm khuẩn, giảm lượng oxy đi vào cơ thể, thiếu protein
huyết tương do mất protein, thay đổi tính thấm mao mạch, vận động quá
sức… Chỉ số protein toàn phần được coi là giảm khi nhỏ hơn 60 g/l [59].
Albumin: là một protein trong gan thường được dùng để đánh giá tình
trạng dinh dưỡng. Trong một vài nghiên cứu trước đây đã khẳng định rằng
nồng độ albumin máu trong việc chẩn đoán SDD là rất có giá trị [60]. Nồng
độ albumin huyết thanh bị ảnh hưởng bởi một số yếu tố khác ngoài yếu tố
dinh dưỡng như giảm nhanh trong trạng thái stress và tình trạng nhiễm khuẩn,
viêm, bệnh ly gan, bỏng, loạn dưỡng xương. Albumin có chu kỳ bán hủy dài



×