Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế thực tiễn thực hiện tại công ty TNHH tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ hồng bàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.32 KB, 64 trang )

TÓM LƯỢC
Hiện nay đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển Công nghiệp hóa – Hiện
đại hóa đất nước và hội nhập nền kinh tế thế giới WTO. Do vậy mà nền kinh tế thị
trường đa dạng về thành phần kinh tế cùng các hoạt động kinh doanh ở nước ta đã
ngày càng được củng cố và phát triển, các quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư
cũng ngày càng được nâng cao, họ có quyền tự do lựa chọn cho mình loại hình kinh
doanh, ngành nghề kinh doanh phù hợp nhất. Trong đó, xu hướng thành lập các tổ
chức kinh tế, đặc biệt là thành lập doanh nghiệp ngày càng gia tăng ở nước ta. Tuy
nhiên, vấn đề pháp lý về thành lập tổ chức kinh tế không phải ai cũng nắm được rõ.
Luật Hợp tác xã 2012 (LHTX 2012), Luật doanh nghiệp 2014 (LDN 2014) và Luật
đầu tư năm 2014 (LĐT 2014) ra đời đã khắc phục được những thiếu sót của các văn
bản quy phạm pháp luật trước đó, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho các hoạt động
kinh doanh. Trong đó quy định một cách chi tiết và cụ thể về vấn đề đầu tư thành lập
tổ chức kinh tế như điều kiện về chủ thể, vốn, ngành nghề kinh doanh, thủ tục đăng ký
kinh doanh,… Tuy nhiên các quy định này vẫn còn nhiều vướng mắc cần được giải
quyết, đặc biệt trong quá trình áp dụng thực tiễn. Với những lý do đó em quyết định
chon đề tài: “Pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế - Thực tiễn thực hiện tại
Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp của mình. Với mong muốn trước hết là bản thân, sau đó là cho mọi người hiểu
rõ và sâu sắc hơn pháp luật về thành lập tổ chức kinh tế hiện nay ở nước ta, đánh giá
một số thành tựu đã đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại trong quá trình áp
dụng quy định pháp luật, đồng thời đưa ra một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về thành lập tổ chức kinh tế trong thời gian tới.

1


LỜI CẢM ƠN
Nghiên cứu các quy định của pháp luật và việc thực thi pháp luật trong doanh
nghiệp giúp ích rất lớn cho quá trình chuẩn bị hành trang ra trường của sinh viên
chuyên ngành. Được sự giúp đỡ của Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Thương Mại


và sự hỗ trợ của Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng, em đã
được đi thực tế tại doanh nghiệp đồng thời có cơ hội nghiên cứu tìm hiểu về hoạt động
thành lập doanh nghiệp tại công ty. Quá trình này giúp em vận dụng những kiến thức
đã được học, được tích lũy khi ngồi trên ghế nhà trường, nhằm có cái nhìn thực tế hơn
về pháp luật trong đời sống hiện nay và là cơ sở quan trọng giúp em thực hiện khóa
luận này.
Để hoàn thành khóa luận này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS
Trần Thị Thu Phương, người đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình viết Khóa luận
tốt nghiệp. Em chân thành cảm ơn quý Thầy, Cô trong khoa Kinh tế - Luật, Trường
Đại Học Thương Mại đã tận tình truyền đạt kiến thức trong những năm em học tập.
Em chân thành cảm ơn Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ
Hồng Bàng, cùng các anh chị cán bộ nhân viên ở đây đã cho phép và tạo điều kiện
thuận lợi để em thực tập tại quý doanh nghiệp.
Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu nhiều kinh
nghiệm thực tiễn nên nội dung của Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy cô cùng toàn thể cán bộ, công nhân
viên tại doanh nghiệp để Khóa luận này được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em kính chúc quý Thầy, Cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự
nghiệp cao quý của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
S

TỪ VIẾT TẮT


DIỄN GIẢI

LDN
LĐT
LHTX
GCNĐKĐT
GCNĐKDN

Luật Doanh nghiệp
Luật Đầu tư
Luật Hợp tác xã
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

TT
1.
2.
3.
4.
5.

3


LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh và điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay thì sự kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và sự

phát triển toàn diện của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Khi trình độ khoa học phát triển
nhanh với tốc độ chưa từng có và đã vượt ra khỏi phạm vi của mỗi quốc gia, đầu tư
phát triển kinh tế trở thành một yêu cầu mang tính quy luật khách quan. Đó cũng là
vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta và nhiều nước khác
trên thế giới.
Trong quá trình nước ta chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc khuyến khích và bảo đảm đầu
tư trong và ngoài nước là một vấn đề hết sức quan trọng. Điều này sẽ góp phần thúc
đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta hiện nay, đặc biệt là việc công
nhận và thừa nhận các hình thức đầu tư. Theo quy định của LĐT 2014 thì nhà đầu tư
có thể tiến hành đầu tư tại Việt Nam thông qua ba hình thức sau: Đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế; đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức
kinh tế và đầu tư theo hình thức hợp đồng PPP.
Trong đó, đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là một trong những hình thức đầu tư
được sử dụng phổ biến và rộng rãi. Theo đó, nhà đầu tư sẽ bỏ vốn, tài sản để thành lập
nên một tổ chức kinh tế mới và tổ chức này đại diện cho nhà đầu tư tham gia vào hoạt
động đầu tư. Đây là hình thức được nhiều cá nhân, tổ chức lựa chọn bởi vì tính bền
vững và độc lập của nó. Khi thành lập nên một tổ chức kinh tế, nhà đầu tư được sở hữu
vốn điều lệ không hạn chế trong tổ chức kinh tế, trừ một số trường hợp pháp luật quy
định và có quyền quản lý các hoạt động của doanh nghiệp. Trong bối cảnh nền kinh tế
ngày càng hội nhập thì hoạt động đầu tư thành lập tổ chức kinh tế ngày càng thu hút
các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đặc biệt là hoạt động đầu tư thành lập doanh
nghiệp. Số lượng doanh nghiệp được thành tại Việt Nam ngày một nhiều. Cụ thể, chỉ
tính riêng 06 tháng đầu năm 2019, trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp đã thông báo có hơn 60.000 doanh nghiệp được thành lập mới trên cả nước.
Các doanh nghiệp được thành lập cũng không có sự phân bố đồng đều mà thành lập
tập trung ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp như tại Hà Nội, Hồ Chí Minh,
Đà Nẵng. Việc thành lập tổ chức kinh tế với số lượng lớn mang lại nhiều lợi ích cho
kinh tế nước nhà như: Thúc đẩy GDP của cả nước; tạo công ăn, việc làm cho lao động
4



trong nước; giúp thu hút nguồn vốn từ nước ngoài vào Việt Nam kèm theo đó là công
nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến; tạo đà cho kinh tế nước nhà phát triển
như xuất nhập khẩu, dịch vụ, thương mại hàng hóa.
Việt Nam là một nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp,
trong khi phần lớn những kỹ thuật mới xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp
phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển,
nước ta cần nhanh chóng tiếp cận với các kỹ thuật mới. Đầu tư thành lập tổ chức kinh
tế nói chung và đầu tư thành lập doanh nghiệp nói riêng không chỉ tác động mạnh đến
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà còn thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương
diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu các thành phần
kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động,… Qua đó, ta càng thấy
được tầm quan trọng của việc đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
Nhà nước ta nhìn chung đã rất nỗ lực trong việc ban hành và hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đầu tư và hoạt động đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này. Bên
cạnh những thành tựu đạt được thì pháp luật cũng bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập
chẳng hạn như nhiều quy định của luật không rõ ràng gây khó cho nhà đầu tư và cơ
quan nhà nước trong quá trình thực hiện thủ tục thành lập hay những quy định mâu
thuẫn, xung đột giữa LĐT và các luật chuyên ngành dẫn đến các thủ tục bị chồng chéo.
Đáng quan ngại hơn, LHTX 2012, LĐT, LDN 2014 và các văn bản pháp luật liên quan
khác còn tồn tại nhiều bất cập, tạo ra gánh nặng thủ tục cho nhà đầu tư, làm mất đi cơ
hội đầu tư kinh doanh của các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào thị trường Việt
Nam. Chính vì thế, việc nghiên cứu, đổi mới, đơn giản hóa thủ tục gia nhập thị trường
là yêu cầu cấp bách của Chính phủ, tạo sự minh bạch, công bằng, thuận lợi cho hoạt
động đầu tư kinh doanh.
Hiện nay, việc nghiên cứu các quy định pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế đang được rất nhiều người quan tâm. Trên thực tế đã có nhiều bài nghiên cứu
và bài viết về vấn đề đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, nhưng những bài viết đa phần

chỉ phân tích dưới góc độ lý thuyết, chưa đi sâu vào thực tiễn. Qua quá trình thực tập
tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng, em đã được tiếp cận
với hoạt động tư vấn, thực hiện các quy định về thành lập tổ chức kinh tế tại công ty
và càng thấy được tầm quan trọng của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
Nhằm góp phần nghiên cứu, đóng góp ý kiến và đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế nói chung và đầu tư thành
lập doanh nghiệp tại Việt Nam nói riêng, em đã lựa chọn đề tài: “Pháp luật về đầu tư
5


thành lập tổ chức kinh tế – Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở
hữu trí tuệ Hồng Bàng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Đề tài tập trung
nghiên cứu, đánh giá về pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế và những vấn đề
còn tồn tại trong quá trình áp dụng trong thực tiễn.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Về pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế đã có không ít tác giả lấy làm đề
tài cho công trình nghiên cứu của mình. Các tác giả đã nêu ra được những vấn đề còn
tồn đọng cần giải quyết và đưa ra một số giải pháp để giải quyết những vấn đề đó cho
phù hợp với tính chất môi trường liên tục thay đổi của nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Trong số đó có thể kể đến các công trình nghiên cứu như:
1. Nguyễn Thị Thu Thủy (2016), “Pháp luật về đăng ký kinh doanh ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ luật học, Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam Học Viện
Khoa Học Xã Hội. Bài viết phân tích các quy định về đăng ký kinh doanh và pháp luật
về đăng ký kinh doanh, sau đó chỉ ra những bất cập các quy định của pháp luật và đưa
ra giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đăng ký kinh doanh.
2. Uông Hồng Thắng (2015), “Quyền tự do thành lập doanh nghiệp”, Luận văn thạc sĩ,
Viện đại học mở Hà Nội. Bài luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về
quyền tự do thành lập doanh nghiệp và pháp luật về quyền tự do thành lập doanh
nghiệp, những thành tựu đạt được trong thực hiện quyền tự do thành lập doanh nghiệp
và những hạn chế còn tồn tại, sau đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền tự

do thành lập doanh nghiệp.
3. Trần Chí Vương (2012), “Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thực trạng và
giải pháp”, Bài nghiên cứu khoa học, Khoa lý luận chính trị - Trường Đại học kinh tế
thành phố Hồ Chí Minh. Bài viết tập trung nghiên cứu về thực trạng tình hình đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam, những hạn chế, khó khăn gặp phải và đưa ra giải pháp để thúc
đẩy hoạt động đầu tư có vốn nước ngoài phát triển.
Ngoài những công trình nghiên cứu điển hình ở trên còn có những bài phát biểu,
những bài báo và một số bài viết có liên quan như:
1. Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Minh (2018), “Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các
giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI”, Tạp chí Công Thương ngày
04/07. Bài viết tập trung vào thực trạng đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài, quá trình
cấp Giấy chứng nhận đầu tư, các ưu đãi và hỗ trợ đầu tư trong thực tiễn và đưa ra
những giải pháp để tiếp tục thu hút, thúc đẩy giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn FDI trong các năm tới.
2. Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Minh (2018), “Hoàn thiện pháp luật hỗ trợ đầu tư trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Công Thương ngày 04/07. Bài viết tập atrung
6


và phân tích vai trò của việc hỗ trợ đầu tư thành lập doanh nghiệp, thực trạng các quy
định về hỗ trợ đầu tư và các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hỗ trợ đầu tư cho doanh
nghiệp.
3. Anh Nhi (2019), “Gỡ vướng mắc Luật Đầu tư 2014”, VnEconomy ngày 15/02. Bài viết
nêu ra những bất cập của LĐT 2014 về thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, thủ tục
thành lập tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và phương hướng sửa đổi Luật đầu
tư 2014.
4. Nguyễn Duy Thắng (2018), “Hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư - một số quy
định còn mẫu thuẫn, chồng chéo, không còn phù hợp”, Cổng thông tin điện tử Pháp
Điển. Bài viết nêu ra những điểm không thống nhất giữa Luật đầu tư 2014 và các Luật
chuyên ngành khác trong vấn đề về thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, thủ tục

lập báo cáo tác động môi trường,... và đặt ra những vấn đề bất cập cần phải hoàn thiện
Luật đầu tư 2014.
Có thể thấy rằng, đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về pháp luật về
thành lập tổ chức kinh tế nói chung và pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp tại
Việt Nam nói riêng. Những công trình trên cũng đã nêu được những vấn đề lý luận và
thực tiễn về pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế dưới góc độ pháp lý. Đồng
thời, chỉ ra những bất cập còn tồn tại và đưa ra giải pháp để hoàn thiện pháp luật. Tuy
nhiên, các công trình nghiên cứu vẫn chưa đi sâu tìm hiểu việc đầu tư thành lập từng
loại hình tổ chức kinh tế cụ thể. Bên cạnh đó, trải qua các năm các văn bản pháp luật
về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế cũng đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với
tình hình thực tiễn vì vậy việc áp dụng các văn bản pháp luật cũ của các đề tài trên
cũng đã phần nào bớt tính khả thi cũng như bám sát các quy định của pháp luật. Chính
vì vậy, với nền tảng xây dựng đi lên từ các đề tài cũ mà đề tài này em muốn hướng tới
chính là phân tích các quy định pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế; trình bày
thực trạng áp dụng pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế vào trong hoạt động
thành lập doanh nghiệp của các nhà đầu tư, cụ thể là thực trạng áp dụng các quy định
của pháp luật về đầu tư thành lập doanh nghiệp tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở
hữu trí tuệ Hồng Bàng, cùng với đó là những ưu điểm mà pháp luật đã đạt được và hạn
chế cần được khắc phục để pháp luật về hoạt động đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
được hoàn thiện, chặt chẽ hơn, đảm bảo sự công bằng, sự tin tưởng cho các nhà đầu tư
trong hoạt động thành lập tổ chức kinh tế. Sau đây em xin trình bày đề tài: “Pháp luật
về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế – Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Tư vấn
đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng”.

7


-

3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu

Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế với tư cách là một trong những hình thức đầu tư
kinh doanh đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế chung của cả
nước thông qua việc đóng thuế và tạo ra những cơ hội việc làm cho người lao động.
Chính vì những vai trò không thể phủ nhận của nó mà việc xem xét pháp luật về đầu tư
thành lập tổ chức kinh tế càng trở nên cần thiết. Xuất phát từ tình hình thực tiễn của
Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng, em quyết định chọn đề tài
“Pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH
Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định của pháp luật về vấn đề đầu
tư thành lập tổ chức kinh tế; thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng.
4.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu chính của khóa luận là:
- Hệ thống được các quy phạm pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế;
- Phân tích, đánh giá được thực trạng quy định pháp luật hiện hành và thực thực
trạng thực hiện pháp luật tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng
Bàng;
- Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư thành
lập tổ chức kinh tế và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng trong điều
kiện kinh tế, xã hội cụ thể.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung và hướng tiếp cận đề tài
Mặc dù tên đề tài nghiên cứu Khóa luận là “ Pháp luật về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế - Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ
Hồng Bàng” nhưng vấn đề về tổ chức kinh tế là vấn đề tương đối rộng, cho nên trong
giới hạn của khóa luận này, người viết chỉ nghiên cứu những vấn đề pháp lý về đầu tư
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam – Thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Tư vấn

đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng theo quy định của Luật Hợp tác xã 2012, Luật
Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu tư 2014.
Về không gian nghiên cứu

8


-

-

-

Khóa luận hướng tới nghiên cứu các quy định pháp luật về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế tại Việt Nam và cụ thể là tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí
tuệ Hồng Bàng.
Về thời gian nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế trong phạm vi 05 năm trở lại đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề lý
luận và thực tiễn liên quan đến các quy định của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế, hai phương pháp chủ yếu được người viết sử dụng trong quá trình nghiên cứu
đề tài là phương pháp thu thập dữ liệu gồm có dữ liệu sơ cấp, dữ liệu thứ cấp và
phương pháp xử lý dữ liệu là so sánh, phân tích, tổng hợp, cụ thể như sau:
Phương pháp thu thập dữ liệu
+ Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp: Khóa luận sử dụng phương pháp thu thập
dữ liệu sơ cấp là phương pháp quan sát thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư thành
lập tổ chức kinh tế trong khoảng thời gian 05 trở lại đây.

+ Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu thứ cấp được thu thập là các văn
bản quy phạm pháp luật như Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Hợp tác xã 2012, Luật
Đầu tư 2014, Nghị định 78/2015/NĐ-CP, Nghị định 108/2015/NĐ-CP,…và các bài
nghiên cứu, bài viết trên báo, tạp chí về pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
Phương pháp xử lý dữ liệu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các phương pháp chuyên ngành khoa học pháp lý để giải quyết những vấn đề
về pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế một cách toàn diện và hợp lý nhất.
Khóa luận đã sử dụng các phương pháp cụ thể là: Phương pháp so sánh, phân tích,
tổng hợp thông qua số liệu, dữ kiện các năm để tạo cơ sở phân tích, đánh giá thực
trạng các quy định pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Tư
vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng.
Trong khóa luận các phương pháp nghiên cứu được sử dụng cụ thể tại các chương như
sau:
Chương 1: Khóa luận sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp là các văn
bản quy phạm pháp luật như LDN 2014, LĐT 2014, LHTX 2012, các văn bản hướng
dẫn thi hành như Nghị định, Thông tư,... các dữ liệu từ các bài báo, bài luận văn, các
tài liệu tổng quan quy định về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế. Sau đó, người viết sử
dụng phương pháp phân tích – tổng hợp để làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của
9


pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, nội dung pháp luật về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh
tế.
Chương 2: Khóa luận sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp
để đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
và thực tiễn thực hiện pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế tại Công ty TNHH
Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng. Trong đó bao gồm những kết quả đạt
được, đặc biệt là những hạn chế, bất cập và những nguyên nhân tồn tại trong quá trình

đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
Chương 3: Khóa luận chủ yếu sử dụng phương pháp chủ đạo là phân tích – tổng
hợp để đưa ra các giải pháp, kiến nghị trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu
tư thành lập tổ chức kinh tế, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về đầu tư thành lập
tổ chức kinh tế trong giai đoạn tới. Đồng thời, chỉ ra những vấn đề khóa luận chưa làm
được cần tiếp tục nghiên cứu.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Kết cấu của khóa luận ngoài các phần phụ thêm như: Tóm lược, lời cảm ơn, danh
mục từ viết tắt, tài liệu tham khảo,… thì phần nội dung chính của Khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế và
thực tiễn thực hiện tại Công ty TNHH Tư vấn đầu tư và sở hữu trí tuệ Hồng Bàng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đầu tư thành lập tổ
chức kinh tế.

10


CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
VỀ ĐẦU TƯ THÀNH LẬP TỔ CHỨC KINH TẾ

1

1
1

Khái quát pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Một số khái niệm cơ bản về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế

Khái niệm về đầu tư
Thuật ngữ “đầu tư” hiện nay được nhìn nhận dưới nhiều góc độ như:
Trong lý thuyết kinh tế hay kinh tế học vĩ mô, đầu tư là số tiền mua một đơn vị
thời gian của hàng hóa không được tiêu thụ mà sẽ được sử dụng cho sản xuất trong
tương lai. Ví dụ như: Xây dựng đường sắt hay nhà máy; đầu tư trong vốn con
người bao gồm chi phí học bổ sung hoặc đào tạo trong công việc; đầu tư hàng tồn
kho là sự tích tụ của các kho hàng hóa, nó có thể là tích cực hay tiêu cực, và nó có thể
có dụng ý hoặc không có dụng ý.
Trong tài chính, đầu tư là việc mua một tài sản hay mục với hy vọng rằng nó sẽ
tạo ra thu nhập hoặc đánh giá cao trong tương lai và được bán với giá cao hơn. Nó
thường không bao gồm tiền gửi tại ngân hàng hay tổ chức tương tự. Thuật ngữ đầu tư
thường được sử dụng khi đề cập đến một triển vọng dài hạn.
Trong pháp lý, LĐT 2014 đã đưa ra một định nghĩa rõ ràng và cụ thể hơn về hoạt
động đầu tư kinh doanh. Theo đó, tại Khoản 5, Điều 3 quy định: “Đầu tư kinh doanh là
việc nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc
thành lập tổ chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh
tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.”

2

Khái niệm nhà đầu tư
Theo Wikipedia thì nhà đầu tư là người tham gia vào một hay nhiều vụ đầu
tư dưới các hình thức khác nhau. Nhà đầu tư có thể là một cá nhân, một doanh nghiệp,
một tổ chức. Phần lớn các nhà đầu tư khi bỏ tiền ra đầu tư đều nhằm thu về lợi ích
kinh tế, đó là hoạt động đầu tư kinh doanh, sản xuất. Một số ít hơn, thường là đơn vị
thuộc nhà nước, đầu tư công cộng nhằm mang lại lợi ích cho xã hội, như việc xây
dựng các công trình dân sinh, phúc lợi.
Thuật ngữ “nhà đầu tư” còn được dùng trong ngành tài chính nhằm miêu tả một
nhóm người hay công ty thường xuyên mua chứng khoán, cổ phiếu hay trái phiếu để
có được lãi tài chính đánh đổi cho việc cung cấp vốn để phát triển một công ty nào

đấy.

11


Thuật ngữ “nhà đầu tư” cũng áp dụng cho những cá nhân hay tổ chức mua và
nắm giữ các tài sản trong một thời gian dài với phân tích và nhận định sẽ có được lãi
vốn, không vì thu nhập ngắn hạn.
Theo quy định tại Khoản 13, Điều 3 LĐT 2014 thì: Nhà đầu tư là tổ chức, cá
nhân thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư
nước ngoài và tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó:
+ Nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập
theo pháp luật nước ngoài thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam.
+ Nhà đầu tư trong nước là cá nhân có quốc tịch Việt Nam, tổ chức kinh tế
không có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.
+ Tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp
luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và các tổ chức khác
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh.
+ Tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư
nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.
Như vậy, khái niệm nhà đầu tư được hiểu chung là tổ chức, cá nhân thực hiện
hoạt động đầu tư kinh doanh với mục đích sinh lợi.
3

Khái niệm tổ chức kinh tế
Trước đây, khi chưa có một văn bản pháp luật nào quy định cụ thể về khái niệm
tổ chức kinh tế thì tổ chức kinh tế được hiểu là một tập hợp người, một nhóm người
tập hợp lại thành một tổ chức hoạt động kinh tế (sản xuất, kinh doanh, marketing,…)
với mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
Theo LĐT 2014 được Quốc hội thông qua năm 2014 đã đưa ra khái niệm về tổ

chức kinh tế như sau: Tổ chức kinh tế là tổ chức được thành lập và hoạt động theo quy
định của pháp luật Việt Nam, gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và
các tổ chức khác thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh, trong đó:
+ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện
các hoạt động kinh doanh.
+ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít
nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động
12


sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên
cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã.
+ Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp
nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành
viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên
hiệp hợp tác xã.
Như vậy, khái niệm tổ chức kinh tế được hiểu là một tổ chức được thành lập theo
quy định của pháp luật Việt Nam, có tư cách pháp nhân hoặc không, thực hiện các hoạt
động kinh doanh theo quy định của pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu nhất
định.
1.1.1.4. Khái niệm thành lập tổ chức kinh tế
Về góc độ kinh tế, thành lập tổ chức kinh tế là việc chuẩn bị đầy đủ các điều
kiện cần và đủ để hình thành nên một tổ chức kinh doanh. Theo đó, nhà đầu tư phải
chuẩn bị trụ sở, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, thiết bị kỹ thuật, đội ngũ nhân công,
quản lý,…
Về góc độ pháp lý, thành lập tổ chức kinh tế là một thủ tục pháp lý được thực
hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, tùy thuộc vào loại hình tổ chức kinh tế mà
thủ tục pháp lý này có tính đơn giản hay phức tạp không giống nhau.

Như vậy, từ những phân tích trên ta có thể khái quát: Đầu tư thành lập tổ chức
kinh tế là việc nhà đầu tư bao gồm nhà đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài và tổ
chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư bằng các loại tài sản hữu hình
hoặc vô hình và tiến hành các thủ tục pháp lý để thành lập ra một tổ chức kinh tế, có tư
cách pháp nhân hoặc không, thực hiện các hoạt động kinh doanh theo quy định của
pháp luật, nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
2

Khái niệm về pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Đối với mỗi nhà đầu tư khi tham gia thành lập tổ chức kinh tế phải tuân thủ các
điều kiện pháp luật về vốn, chủ thể, địa điểm, thủ tục thành lập,… Trong đó thì việc
tiến hành các thủ tục cần thiết với cơ quan có thẩm quyền là thủ tục quan trọng nhất vì
nó là quá trình ghi nhận ghi nhận sự ra đời của tổ chức kinh tế. Thủ tục đăng ký thành
lập tổ chức kinh tế cũng là thủ tục bắt buộc đối với nhà đầu tư. Trong quá trình thực

13


hiện thủ tục này, các nhà đầu tư và cơ quan nhà nước đều phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật.
Như vậy, pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là tổng thể các quy phạm
pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để nhằm điều chỉnh những vấn đề về
điều kiện, trình tự, thủ tục, nội dung thành lập tổ chức kinh tế của các nhà đầu tư tại cơ
quan nhà nước có thẩm quyền cũng như trong quá trình thực hiện hoạt động kinh
doanh.
3

Đặc điểm của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Thứ nhất, pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là một chế định để gia
nhập thị trường

Trong bất kỳ một nền kinh tế nào thì tổ chức kinh tế luôn đóng một vai trò quan
trọng góp phần tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, việc tạo lập một khung pháp lý về việc đầu
tư thành lập tổ chức kinh tế là một điều vô cùng cần thiết, không chỉ tạo điều kiện cho
các nhà đầu tư tham gia hoạt động kinh doanh mà còn giúp nhà nước quản lý dễ dàng
hơn. Qua đó, nắm bắt được tình hình phát triển kinh tế trong các ngành, lĩnh vực và
đưa ra các chính sách điều tiết hợp lý hơn.
Thứ hai, pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là một thủ tục hành chính
Một tổ chức kinh tế muốn được công nhận sự ra đời của mình thì tổ chức kinh tế
đó bắt buộc phải khai báo với cơ quan nhà nước thông qua người đại diện của mình.
Theo đó, nhà đầu tư phải tiến hành chuẩn bị các hồ sơ, giấy tờ và thực hiện các thủ tục
theo quy định. Đây là một hình thức pháp lý có quan hệ pháp luật hành chính, một bên
là các nhà đầu tư và một bên là cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Việc đăng ký
thành lập tổ chức kinh tế cũng là một thủ tục nhằm hỗ trợ, tạo điều kiện cho các nhà
đầu tư thực hiện hoạt động kinh doanh, gia tăng số lượng tổ chức kinh tế trên mọi lĩnh
vực trong phạm vi cả nước.
Thứ ba, pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là một dịch vụ công do nhà
nước thực hiện
Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh là cơ quan đăng ký kinh doanh nơi
tổ chức kinh tế đặt trụ sở. Đây cũng là cơ quan duy nhất được nhà nước ủy quyền để
cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho tổ chức kinh tế. Qua đó, nhà nước nắm
14


được tình hình thành lập tổ chức kinh tế của các nhà đầu tư, từ đó ban hành được chính
sách phù hợp trong cồng tác quản lý thành lập tổ chức kinh tế.
Sở dĩ đây là một dịch vụ công vì việc tiến hành thủ tục thành lập tổ chức kinh tế
không phải là một thủ tục hành chính truyền thống mà chỉ là một hoạt động cung cấp
dịch vụ theo pháp luật quy định. Bởi lẽ, quyền tự do kinh doanh là quyền của các nhà
đầu tư, trong đó có quyền thành lập tổ chức kinh tế, vì vậy nhà đầu tư có quyền tự do
thành lập tổ chức kinh tế và kinh doanh các ngành nghề mà luật không cấm.

4
1

Ý nghĩa của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Đối với nhà đầu tư
Khi đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư phải tiến hành đăng ký thành lập
tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi đáp ứng được đầy đủ các điều kiện pháp luật
quy định, tổ chức kinh tế sẽ được cấp phép hoạt động. Điều này đồng nghĩa với việc tổ
chức kinh tế được thừa nhận về mặt pháp luật, có quyền thực hiện các hoạt động kinh
doanh như đã đăng ký và được pháp luật Nhà nước bảo hộ. Như vậy, pháp luật về đầu
tư thành lập tổ chức kinh tế chính là công cụ để bảo về quyền và lợi ích cho các nhà
đầu tư, cũng là công cụ để đảm bảo việc nhà đầu tư thực hiện đúng nghĩa vụ của mình.

2

Đối với cơ quan quản lý nhà nước
Thông qua các quy định của pháp luật về thành lập tổ chức kinh tế giúp cơ quan
nhà nước dễ dàng quản lý các hoạt động kinh doanh của tổ chức kinh tế hơn. Đồng
thời, tạo điều kiện trong việc quản lý và kiểm soát các thành phần kinh tế hiện nay.
Ngoài ra, việc thông qua việc thành lập và quản lý hoạt động của các tổ chức
kinh tế còn giúp Nhà nước nắm bắt được xu hướng của thị trường, nắm bắt được các
yếu tố trong kinh doanh cũng như việc áp dụng các quy định của pháp luật trong thực
tế để từ đó làm căn cứ đưa ra các chủ trương, chính sách, biện pháp khuyến khích hoặc
hạn chế phù hợp và kịp thời hơn.

3

Đối với kinh tế, xã hội
Các quy phạm pháp luật về thành lập tổ chức kinh tế là công cụ để điều chỉnh
hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của xã

hội, vừa bảo vệ được quyền lợi của mình lại vừa đảm bảo được lợi ích cho toàn xã hội.
Thông qua việc đầu tư thành lập tổ chức kinh tế, nhà đầu tư đã có những đóng góp
thiết thực cho nền kinh tế xã hội như tạo cơ hội việc làm, thu nhập cho người lao động.
Tóm lại, ý nghĩa của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế là hết sức quan
trọng, không chỉ đối với việc bảo đảm quyền lợi cho chính nhà đầu tư mà còn mang ý

15


nghĩa đảm bảo trật tự quản lý nhà nước cũng như bảo đảm về quyền lợi cho các chủ
thể khác khi tham gia hoạt động kinh doanh nói chung.
1.2.

Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh đầu tư thành lập tổ chức kinh

tế.
1.2.1. Cơ sở ban hành pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế.
1.2.1.1. Cơ sở thực tiễn
Trong bất kì nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh. Tuy
nhiên, trong các xã hội khác nhau và trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể thì mỗi mức độ
đảm bảo quyền tự do kinh doanh cũng khác nhau. Xã hội càng phát triển thì quyền tự
do kinh doanh càng được coi trọng vì nó là động lực tạo điều kiện cho nền kinh tế phát
triển theo xu hướng tự do, bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Tại Việt Nam, quyền tự
do kinh doanh đã được quy định cụ thể trong Hiến pháp. Trong đó, quyền tự do thành
lập tổ chức kinh tế là một trong những nội dung cơ bản và quan trọng nhất, nó cũng là
tiền đề để thực hiện các quyền khác thuộc nội dung của quyền tự do kinh doanh. Bởi
lẽ, để tiến hành hoạt động kinh doanh, nhà đầu tư phải xác định được tư cách pháp lý
của mình. Nhà đầu tư có quyền lựa chọn mô hình kinh doanh, lĩnh vực, ngành nghề
kinh doanh phù hợp để hoạt động kinh doanh đạt được kết quả cao. Nhà nước cũng
luôn đảm bảo quyền được thành lập tổ chức kinh tế cho các đối tượng có khả năng đầu

tư khác nhau, đồng thời không ngừng hoàn thiện các quy định pháp luật về đầu tư,
kinh doanh.
Ở Việt Nam, mô hình Hợp tác xã, Liên hiệp Hợp tác xã đã được ra đời và tồn tại
trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Hợp tác xã đã khẳng định được vị trí, vai trò
lịch sử của mình là một trong hai thành phần kinh tế xương sống trong nền kinh tế của
Việt Nam. Việt Nam bắt đầu đổi mới từ nửa cuối thập niên năm 1980, với mong muốn
xóa bỏ dần cơ chế quan liêu bao cấp, xây dựng một nền kinh tế năng động, hiện đại và
phát triển bền vững. Trong điều kiện và hoàn cảnh mới, nền kinh tế thị trường luôn
diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế, Hợp tác xã kiểu cũ đã có
nhiều điểm không còn phù hợp, đòi hỏi phải đổi mới để thích ứng với những đặc thù
của nền kinh tế thị trường, để đủ sức cạnh tranh với thành phần kinh tế khác. Bên cạnh
đó, với chủ trương tự do hóa thương mại và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, Nhà
nước đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm giải tỏa bớt rào cản cho nền kinh tế được tư
do lưu thông, dẫn đến nền kinh tế Việt Nam nói chung, đặc biệt là khối kinh tế tư nhân
bắt đầu phát triển mạnh. Chính vì sự phát triển mạnh mẽ của các thành phần kinh tế,
đòi hỏi Nhà nước phải ban hành những chính sách pháp lý phù hợp để điều chỉnh hoạt
động kinh doanh.
1.2.1.2.

Cơ sở pháp lý
16


Luật Công ty 1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990 là những văn bản pháp lý
đầu tiên quy định về việc thành lập và hoạt động của các chủ thể kinh doanh thuộc
thành phần kinh tế tư nhân. Lúc này, khối kinh tế tư nhân được pháp luật quy định
gồm các loại hình: Công ty TNHH, Công ty cổ phần (theo Luật Công ty 1990) và
Doanh nghiệp tư nhân (theo Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990) đều có hiệu lực từ
15/4/1991, nhưng phải đến năm 1992 Quốc hội mới ban hành hiến pháp mới, công
nhận công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật. Từ đó, Luật

Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty mới thực sự đi vào hoạt động chính thức. Quy
định này của Hiến pháp đã được cụ thể hóa tại Luật Công ty năm 1999 và sau đó là
Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Đầu tư 2005.
Với mục đích thể chế hóa các đường lối, chính sách của Đảng và Hiến pháp
1992. Bên cạnh việc ra đời Luật Công ty 1990 và Luật Doanh nghiệp tư nhân năm
1990, năm 1996 Quốc hội đã thông qua Luật Hợp tác xã và có hiệu lực năm 1997. Đây
là một bước nhảy vọt mới cho sự phát triển kinh tế hợp tác xã trong nền kinh tế thị
trường. Thực hiện Nghị quyết số 13/NQ-TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX ngày 18/03/2002 “về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả kinh tế tập thể” tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI, Luật hợp tác xã năm 2003 đã
được thông qua và chính thức có hiệu lực vào ngày 01/07/2004, tiếp theo đó một hệ
thống các văn bản hướng dẫn được ban hành để thực hiện Luật. Đặc biệt, sự ra đời của
Luật Hợp tác xã 2012 với nhiều điểm mới đã làm rõ hơn bản chất, tổ chức quản lý của
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã,
thành viên hợp tác xã, thành viên liên hiệp hợp tác xã; tiếp thu những quy định pháp
luật mang tính cơ bản, ổn định lâu dài được quy định tại Nghị định 177/2004/NĐ-CP
và Nghị định 87/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 nhằm bảo đảm tính toàn diện của Luật,
đồng thời nhằm hạn chế tối đa việc ban hành văn bản dưới Luật; tạo điều kiện thuận
lợi hơn cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động.
Năm 2013 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong công cuộc lập pháp khi Quốc
Hội thông qua hiến pháp 2013 và năm 2014 là sự ra đời của hai Luật lớn điều chỉnh
hoạt động đầu tư kinh doanh là LDN 2014 và LĐT 2014. Hai luật này ra đời với nhiều
điểm mới đáng kể liên quan đến việc thành lập tổ chức kinh tế như đơn giảm hóa các
thủ tục thành lập tổ chức kinh tế, mở rộng quyền tự do kinh doanh các ngành nghề mà
luật không cấm,... Đồng thời, nhiều quy định đã thể hiện bước thay đổi lớn trong tư
duy quản lý lẫn phương thức quản lý.
Bên cạnh đó, Việt Nam đã thực hiện thành công chính sách hội nhập kinh tế quốc
tế - trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 và đàm
phán với nhiều nước về Hiệp định Thương mại Tự do (FTA), bao gồm Hiệp định
17



Thương mại Tự do giữa Liên minh Châu Âu và Việt Nam, cùng Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Các Hiệp định, Điều ước,
Công ước quốc tế này đã được “nội luật hóa” tức là chuyển hóa quy phạm của Điều
ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Đây là công cụ, phương tiện quan trọng để duy
trì và tăng cường hợp tác quốc tế giữa các quốc gia, đồng thời cũng là cơ sở để đảm
bảo quyền và lợi ích cho các nhà đầu tư.
Trong bối cảnh nhu cầu thành lập tổ chức kinh tế là rất lớn thì việc nắm bắt
những vấn đề lý luận và pháp triển của các quy định liên quan đến thành lập tổ chức
kinh tế, đặc biệt là các quy định trong LHTX 2012, LDN 2014, LĐT 2014 có tầm quan
trọng không chỉ đối với cơ quan quản lý nhà nước mà còn đối với các nhà đầu tư có ý
định thành lập tổ chức kinh tế.
1.2.2. Nội dung pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
1.2.2.1. Quy định về chủ thể thành lập tổ chức kinh tế
Theo quy định tại Điều 22 LĐT 2014 thì nhà đầu tư được thành lập tổ chức kinh
tế theo quy định của pháp luật. Đối với thành lập và quản lý doanh nghiệp, tổ chức, cá
nhân không thuộc một trong các trường hợp cấm thành lập, quản lý hoặc góp vốn vào
doanh nghiệp theo quy định tại Điều 18 LDN 2014. Đối với thành lập Hợp tác xã, Liên
hiệp Hợp tác xã thì cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân, hợp tác xã thành viên phải đáp
ứng các điều kiện quy định tại Điều 13 LHTX 2012.
Như vậy, LHTX, LDN và LĐT quy định khá rõ ràng và cụ thể các điều kiện về
chủ thể khi thành lập tổ chức kinh tế. Quy định về chủ thể được thành lập tổ chức kinh
tế giúp nhà đầu nắm được quyền năng của mình khi tiến hành đăng ký thành lập tổ
chức kinh tế hợp pháp.
1.2.2.1.
-

Quy định về điều kiện đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Điều kiện về tên tổ chức kinh tế

Tên tổ chức kinh tế là một vấn đề quan trọng, gắn liền và xuyên suốt trong toàn
bộ quá trình hoạt động của tổ chức kinh tế. Tên tổ chức kinh tế chính là một tài sản vô
hình và có giá trị, góp phần quan trọng tạo nên uy tín, giá trị của tổ chức kinh tế. Vấn
đề tên và đặt tên doanh nghiệp được quy định tại LDN 2014, LHTX 2012 và các văn
bản hướng dẫn thi hành như Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp,
Nghị định 193/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật hợp tác xã 2012.
- Điều kiện về trụ sở của tổ chức kinh tế
Tổ chức kinh tế phải có trụ sở chính để hoạt động. Trụ sở chính của tổ chức kinh
tế được quy định tại Điều 43 LDN 2014, Điều 26 LHTX 2012. Địa chỉ trụ sở đóng vai
18


-

trò rất quan trọng trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp vì mọi hồ sơ, giấy tờ
đều phải ghi địa chỉ công ty cũng như khi cơ quan nhà nước liên hệ với doanh nghiệp
bằng công văn thông qua đường bưu điện đều gửi đến địa chỉ của doanh nghiệp. Vì
vậy, việc quy định về trụ sở của doanh nghiệp là điều cần thiết để bảo vệ quyền lợi và
trách nhiệm của các nhà đầu tư đặt trụ sở đúng với quy định.
Điều kiện về ngành nghề kinh doanh
Căn cứ theo Khoản 1, Điều 7 LDN năm 2014 và Khoản 1, Điều 5 LĐT 2014 các
cá nhân, tổ chức có quyền tự do kinh doanh trong tất cả các ngành, nghề và lĩnh vực
mà pháp luật không cấm. Ngay từ những điều đầu tiên trong hai Đạo luật quan trọng
về kinh doanh ở Việt Nam, nguyên tắc này đã được ghi nhận rõ ràng. Trên cơ sở đó,
các ngành, nghề kinh doanh về cơ bản được chia thành ba nhóm: Các ngành, nghề
kinh doanh bị cấm, ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và ngành, nghề được tự do
kinh doanh. Đối với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, nhà đầu tư phải đáp ứng
được điều kiện theo quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ngành nghề kinh doanh là một trong những yếu tố cực kỳ quan trọng trong quá
trình hoạt động của doanh nghiệp sau này. Các quy định về ngành nghề kinh doanh

giúp doanh nghiệp nắm được ngành nghề kinh doanh nào được phép đăng ký để đảm
bảo doanh nghiệp được hoạt động đúng theo quy định của pháp luật.

-

Điều kiện về vốn và góp vốn thành lập tổ chức kinh tế
Pháp luật không quy định mức vốn cụ thể đối với tổ chức kinh tế nói chung.
Theo đó, tùy vào khả năng kinh tế của nhà đầu tư và mục đích hoạt động của tổ chức
kinh tế, vốn điều lệ được quyết định cụ thể. Mặc dù pháp luật không quy định vốn cụ
thể nhưng nhà đầu tư khi thành lập tổ chức kinh tế phải đáp ứng các điều kiện về vốn
pháp định và vốn ký quỹ đối với một số ngành nghề kinh doanh. Trong đó, vốn pháp
định là số vốn tối thiểu để công ty được thành lâp theo quy định của nhà nước. Tuỳ
vào loại hình kinh doanh có điều kiện hay không điều kiện mà có mức vốn khác nhau
theo quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật. Vốn ký quỹ là số vốn trong vốn bắt
buộc tuy nhiên tổ chức kinh tế phải có một khoản tiền ký quỹ thực tế trong ngân hàng,
nhằm đảm bảo sự hoạt động của tổ chức kinh tế. Khi đăng ký thành lập tổ chức kinh tế
kinh doanh các ngành nghề yêu cầu có ký quỹ thì tổ chức kinh tế phải chứng minh đã
ký quỹ đủ số tiền mà pháp luật yêu cầu.

19


Tài sản góp vốn có thể là Tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật,… Việc
góp vốn bằng tài sản phải có xác nhận bằng biên bản. Các nhà đầu tư phải tiến hành
góp vốn trong thời gian quy định đối với từng loại hình tổ chức kinh tế. Đối với nhà
đầu tư nước ngoài phải tuân thủ tỷ lệ vốn góp theo quy định tại Điều 22 LĐT 2014.
Mục đích của việc quy định vốn của tổ chức kinh tế giúp tổ chức kinh tế sau khi
ra đời có thể hoạt động được, đồng thời là cơ sở để đảm bảo các khoản vay vốn với
ngân hàng và thanh toán với các chủ nợ khác. Việc quy định về vốn của tổ chức kinh

tế giúp bảo vệ các nhà đầu tư khi tham gia giao dịch.
1.2.2.2. Pháp luật về thủ tục đầu tư thành lâp tổ chức kinh tế
- Pháp luật về thủ tục đầu tư thành lập tổ chức kinh tế đối với nhà đầu tư trong
nước
Nhà đầu tư trong nước soạn hồ sơ và nộp tại Cơ quan đăng ký kinh doanh nơi tổ
chức kinh tế đặt trụ sở. Nhà đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác
của nội dung hồ sơ. Quy định này nhằm nâng cao tính tuân thủ pháp luật, tính tự giác,
tự chịu trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức khi có nhu cầu gia nhập thị trường. Đồng
thời, việc giảm trách nhiệm thẩm định hồ sơ của cơ quan có thẩm quyền cho phép rút
ngắn thời gian giải quyết thủ tục thành lập tổ chức kinh tế. Thủ tục đăng ký tại cơ quan
nhà nước là thủ tục bắt buộc ghi nhận thông tin của tổ chức kinh tế vào hệ thống dữ
liệu quốc gia. Thời điểm tiếp nhận hồ sơ hợp lệ được coi là căn cứ để xác định thời
hạn thực hiện trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh. Sau khi nhận được hồ sơ
hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận cho nhà đầu tư trong thời gian
quy định.
Đối với thành lập tổ chức kinh tế là doanh nghiệp, sau khi được cấp GCNĐKDN
nhà đầu tư tiến hành công bố thông tin trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp theo quy định tại Điều 33 LDN 2014 và phải đóng lệ phí công bố. Quy đinh về
công khai thông tin là thủ tục bắt buộc đối với mọi doanh nghiệp để đảm bảo tính công
khai, minh bạch thông tin của doanh nghiệp, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và
chất lượng của doanh nghiệp, đồng thời cũng giúp công tác quản lý nhà nước trở nên
dễ dàng và thuận tiện hơn. Sau khi công bố thông tin doanh nghiệp, nhà đầu tư tiến
hành khắc dầu và thông báo mẫu dấu. Con dấu là một yếu tố có tính pháp lý mang dấu
hiệu nhận biết của doanh nghiệp. Tất cả các giấy tờ, văn bản mang tính pháp lý của
doanh nghiệp đều phải được đóng dấu. Vì vậy, việc quy định về khắc dấu và thông báo
20


mẫu dấu cũng là một trong các thủ tục quan trọng và bắt buộc nhà đầu tư phải tiến
hành sau khi được cấp GCNĐKDN.

-

Pháp luật về thủ tục đầu tư thành lập tổ chức kinh tế đối với nhà đầu tư nước ngoài
LĐT 2014 đã tách bạch thủ tục thành lập tổ chức kinh tế đối với nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư thành lập
tổ chức kinh tế phải có dự án đầu tư, thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư
theo quy định của pháp luật. Các nhà đầu tư không được coi là nhà đầu tư theo thủ tục
đầu tư nước ngoài không phải thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư thì thực
hiện thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư trong nước. Ngoài ra, đối với tổ
chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thành lập tại Việt Nam nếu có dự án đầu tư
mới thì được làm thủ tục thực hiện dự án đầu tư đó mà không nhất thiết phải thành lập
tổ chức kinh tế mới.
1.2.2.3. Pháp luật về thẩm quyền đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
LĐT 2014, LDN 2014, LHTX 2012 đã quy định cụ thể các cơ quan có thẩm
quyền đầu tư thành lập tổ chức kinh tế. Theo đó, các cơ quan có thẩm quyền được
phân thành: Cơ quan có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư, cơ quan có thẩm
quyền cấp GCNĐKĐT và cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh với chức năng, nhiệm vụ cụ thể.
1.2.2.4. Pháp luật về ưu đãi và hồ trợ đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
- Pháp luật về ưu đãi đầu tư
Ưu đãi đầu tư được quy định cụ thể tại Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18 LĐT
2014 về các hình thứ áp dụng ưu đãi đầu tư, đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư và
thủ tục áp dụng ưu đãi đầu tư. Ưu đãi đầu tư là biện pháp được Chính phủ sử dụng để
thu hút đấu tư, hướng các dự án đầu tư vào các ngành, các khu vực cần thiết hoặc ảnh
hưởng đến tính chất của đầu tư. Hiện nay, hầu hết các quốc gia trong đó có Việt Nam
đều ban hành các quy định cụ thể về ưu đãi đầu tư. Mục đích của pháp luật ưu đãi đầu
tư trước hết là nhằm thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn vào các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh cụ thể. Việc hướng các quan hệ trong lĩnh vực đầu tư theo một trật tự có hướng,
đảm bảo đầy đủ các quyền và lợi ích cho nhà đầu tư là nội dung quan trọng của quản
lý nhà nước trong lĩnh vực này. Nhà nước không chỉ quản lý hoạt động đầu tư bằng

các nghị quyết, chủ trương, đường lối mà cần cụ thể chúng thành pháp luật đảm bảo
cho hoạt động đầu tư phát triển.

-

Pháp luật về hỗ trợ đầu tư
21


Theo quy định tại Điều 19 LĐT 2014, nhà đầu tư được hỗ trợ đầu tư dưới 8 hình
thức. Tuy nhiên, hỗ trợ đầu tư không được áp dụng cho tất cả các nhà đầu tư mà chỉ áp
dụng cho một số chủ thể nhất định. Theo quy định của LĐT hiện hành, các đối tượng
được hỗ trợ đầu tư bao gồm: Các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp công nghệ
cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức khoa học và công nghệ, doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, doanh nghiệp đầu tư vào giáo dục, phổ
biến pháp luật và các đối tượng khác phù hợp với định hướng phát triển kinh tế - xã
hội trong từng thời kỳ. Hỗ trợ đầu tư là các biện pháp mà Nhà nước tạo cơ hội cho
phép nhà đầu tư được hưởng những điều kiện thuận lợi nhất định về tài chính, hạ tầng
kỹ thuật, khoa học công nghệ,… nhằm thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
1.3. Nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
1.3.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do thành lập tổ chức kinh tế là nội dung cơ bản của quyền tự do kinh
doanh và cũng là tiền đề để thực hiện các quyền khác theo nội dung của tự do kinh
doanh. Khi thực hiện quyền tự do thành lập tổ chức kinh tế, các nhà đầu tư có khả
năng quyết định lựa chọn mô hình kinh doanh, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh để
tiến hành hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Khi đất nước chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nên kinh tế thị trường thì nhà nước cũng chủ
trương mở rộng quyền tự do thành lập tổ chức kinh tế cho nhiều đối tượng đầu tư khác
nhau. Đồng thời, pháp luật về tổ chức kinh tế cũng từng bước được hoàn thiện, đảm
bảo quyền lợi tối đa cho các nhà đầu tư. Đảm bảo quyền tự do kinh doanh được nhà

nước cụ thể hóa trong nhiều văn bản pháp lý quan trọng, cụ thể là trong Hiến pháp
2013 và các Luật, Bộ luật khác quy định về địa vị pháp lý của tổ chức kinh tế, xác lập
tư cách pháp lý cho tổ chức kinh tế. Quyền tự do thành lập tổ chức kinh tế là quyền cơ
bản nhất của các nhà đầu tư, tuy nhiên việc thành lập tổ chức kinh tế cũng có tác động
không nhỏ đến xã hội. Vì vậy, việc đầu tư thành lập tổ chức kinh tế phải được các nhà
đầu tư thực hiện trong khuôn khổ của pháp luật về thành lập tổ chức kinh tế, đảm bảo
yêu cầu quản lý của nhà nước đối với tổ chức kinh tế
1.3.2. Nguyên tắc đảm bảo bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh
Bất kì một chủ thể nào khi tham gia hoạt động kinh doanh đều được hưởng
quyền bình đẳng trước pháp luật. Nguyến tắc bình đẳng trước pháp luật cũng là
nguyên lý của pháp luật, được quy định cụ thể trong trong các quy phạm pháp luật về
quyền được đối xử như nhau, công bằng giữa mọi chủ thể trước pháp luật, không phân
biệt giới tính, quốc tịch, tôn giáo, tín ngưỡng,.... Tất cả các chủ thể đều có quyền và
nghĩa vụ ngang nhau và chịa trách nhiệm pháp lý theo quy định của pháp luật. Pháp
22


luật đồng thời cũng nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử giữa các chủ thể và luôn
tạo cho các chủ thể sự bảo hộ bình đẳng, chống lại phân biệt đối xử. Như vậy, nguyên
tắc bảo đảm bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh là một nội dung luôn được coi
trọng và áp dụng trong suốt quá trình lập pháp của nước ta. Tất cả các nhà đầu tư khi
tiến hành thành lập tổ chức kinh tế đều có vị thế ngang nhau trước pháp luật và chịu sự
điều chỉnh chung của các quy phạm pháp luật về thành lập tổ chức kinh tế không phân
biệt quy mô, loại hình, lĩnh vực đầu tư, ngành nghề kinh doanh, vốn,...
1.3.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch trong thành lập tổ chức kinh tế
Hiện nay, nhà nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền “của dân, do dân, vì
dân” và “dân biết, dân bàn, dân làm”, vì vậy nguyên tắc công khai, minh bạch trong
thành lập tổ chức kinh tế cũng là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động quản lý kinh
doanh. Việc công khai, minh bạch sẽ giúp các nhà đầu tư nắm được toàn bộ các quy
trình, thủ tục và điều kiện khi thành lập tổ chức kinh tế. Các nhà đầu tư sẽ dễ dàng cập

nhật được thông tin kể cả khi có sự thay đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về
thành lập tổ chức kinh tế. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi các nhà đầu tư có trách nhiệm
phải khai báo thông tin đăng ký thành lập tổ chức kinh tế một cách chính xác, đầy đủ.
Bên cạnh đó, việc công khai, minh bạch cũng giúp khắc phục được tệ nạn tham những,
hách dịch, lạm dụng chức quyền gây khó khăn cho các nhà đầu tư của các cán bộ làm
công tác về thành lập tổ chức kinh tế. Do đó, công khai, minh bạch trước hết là nhằm
đảm bảo bản chất của chế độ chủ nghĩa xã hội, thể hiện quyền của các nhà đầu tư trong
việc tham gia quản lý nhà nước, đây cũng là yêu cầu cần thiết để thành công trong
công cuộc hội nhập quốc tế.
1.3.4. Nguyên tắc tuân thủ các cam kết quốc tế
Cam kết quốc tế là chính thức cam đoan làm đúng những điều đã hứa. Thông
thường, các cam kết quốc tế được lập dưới dạng văn bản một điều ước quốc tế phù hợp
với các quy định của pháp luật về các điều ước quốc tế. Pháp luật về hoạt động đầu tư
nói chung và đầu tư thành lập tổ chức kinh tế nói riêng phải đảm bảo được sự thống
nhất với các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia như cam kết về đối xử tối huệ
quốc, cam kết về đối xử quốc gia theo hướng hoàn thiện, phù hợp với xu hướng hội
nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Điều này góp phần tạo môi trường đầu tư thuận
lợi, minh bạch và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.

23


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ ĐẦU TƯ
THÀNH LẬP TỔ CHỨC KINH TẾ
2.1. Tổng quan tình hình và các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về đầu tư
thành lập tổ chức kinh tế
2.1.1 Tổng quan tình hình pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là công cụ quản lý nhà nước hữu
hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý an toàn, tin cậy, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã
hội. Tương tự như vậy, khung khổ pháp lý về thủ tục đầu tư thành lập tổ chức kinh tế

vừa là công cụ để định hướng, sàng lọc nhằm đảm bảo các nhà đầu tư có đủ điều kiện,
phẩm chất tối thiểu, vừa thực hiện vai trò khuyến khích, bảo vệ các nhà đầu tư khi
tham gia vào hoạt động trong nền kinh tế.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư hiện nay, ngoài LĐT 2014,
LHTX 2012 và LDN 2014 quy định về hoạt động đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
ngoài ra có các Nghị định, Thông tư, cụ thể:
1. Luật Doanh nghiệp 2014: Ngày 26/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Doanh
nghiệp năm 2014, có hiệu lực kể từ 01/7/2015. Luật quy định về việc thành lập, tổ
chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt động có liên quan của doanh nghiệp, bao
gồm công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh và doanh nghiệp
tư nhân; quy định về nhóm công ty. LDN 2014 hướng tới sự phù hợp với thực tế kinh
doanh hiện tại của doanh nghiệp và tháo gỡ nhiều khó khăn, hạn chế góp phần tạo điều
kiện mở ra một môi trường kinh doanh thuận lợi phù hợp với xu hướng chung của thế
giới.
2. Luật đầu tư 2014: Ngày 26 tháng 11 năm 2014, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII
đã thông qua Luật Đầu tư năm 2014, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/2015. Luật
Đầu tư năm 2014 đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các
nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ một loạt rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh
tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình
đẳng giữa các nhà đầu tư.
3. Luật hợp tác xã 2012: Luật Hợp tác xã năm 2012 được Quốc Hội thông qua ngày
20/11/2012, với mục tiêu nhằm khuyến khích sự phát triển mô hình hợp tác xã kiểu
mới, đồng thời định hướng phát triển các hợp tác xã hiện có hoạt động theo đúng bản
chất hợp tác xã (HTX).
Để hướng dẫn thi hành các văn bản Luật trên còn có nhiều văn bản dưới Luật
được ban hành như: Nghị định 131/2015/NĐ-CP hướng dẫn về dự án quan trọng quốc
24



-

gia có hiệu lực ngày 15/02/2016; Nghị định số 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh
nghiệp có hiệu lực ngày 01/11/2015; Nghị định 108/2018/NĐ-CP sửa đổi Nghị định
78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp có hiệu lực ngày 04/9/2018; Nghị định
193/2013/NĐ-CP qui định chi tiết một số điều của LHTX 2012,...Ngoài ra, còn có
nhiều Luật, Nghị định, Thông tư khác có quy định liên quan đến hoạt động đầu tư
thành lập tổ chức kinh tế. Đặc biệt là các văn bản quy định về điều kiện đầu tư kinh
doanh.
Bên cạnh các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, Việt Nam còn gia nhập
các tổ chức, ký kết các Hiệp định, Công ước, Điều ước quốc tế như Hiệp định thương
mại tự do (FTA), Các điều ước của Tổ chức hải quan Thế giới (WCO), Các điều ước
của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Công ước Kyoto,... Các quy định này đã
được nội luật hóa vào hệ thống Việt Nam với các điều khoản như: Trường hợp điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác
với quy định của Luật này thì áp dụng theo quy định của điều ước quốc tế đó,...
Về cơ bản, hệ thống pháp luật trong lĩnh vực đầu tư thành lập tổ chức kinh tế cơ
bản đầy đủ, bảo đảm cho hoạt động đầu tư kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, hệ
thống pháp luật còn có nhiều hạn chế như các văn bản pháp luật quy định chồng chéo,
không đồng nhất với nhau dẫn đến khó khăn cho các nhà đầu tư khi áp dụng pháp luật.
Bên cạnh đó, một số vấn đề về đầu tư thành lập tổ chức kinh tế lại chưa được quy định
rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhiều lỗ hổng pháp luật.
2.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến pháp luật về đầu tư thành lập tổ chức kinh
tế
2.1.2.1. Nhân tố khách quan
- Điều kiện kinh tế
Nước ta đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế là nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa nên pháp luật của nước ta cũng phải phù hợp với nền kinh tế đó. Thông qua
những chiến lược, chính sách phát triển kinh tế xã hội, khuyến khích các nhà đầu tư
tham gia vào hoạt động kinh doanh với nhiều hình thức đa dạng, phong phú hơn. Do

nền kinh tế nước ta phát triển không đồng đều, mỗi một vùng miền và khu vực sẽ có
trình độ phát triển kinh tế khác nhau. Hiện nay nước ta vẫn còn nhiều khu vực có điều
kiện kinh tế khó khăn. Do vậy, nhà nước sẽ ban hành các quy định nhằm khuyến khích
đầu tư thành lập tổ chức kinh tế tại các vùng có nền kinh tế kém phát triển.
Điều kiện văn hóa, xã hội
Môi trường văn hóa, xã hội bao gồm những chuẩn mực và giá trị được chấp nhận
và tôn trọng bởi một xã hội hoặc một nền văn hóa cụ thể. Các nhà đầu tư khi tiến hành
thành lập tổ chức kinh tế đòi hỏi phải phân tích cụ thể các yếu tố xã hội để nhận biết
25


×