Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa – Thực tiễn, thực hiện tại công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.53 KB, 51 trang )

MỤC LỤC

1

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TNHH
DVTM
CISG
BLDS

HĐMBHH

2

: Trách nhiệm hữu hạn
: Dịch vụ thương mại
: Công ước viên của Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa quốc tế
: Bộ luật dân sự
: Hợp đồng
: Hợp đồng mua bán hàng hóa

2


LỜI MỞ ĐẦU
1, Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Khi tham gia vào hoạt động mua bán hàng hóa, các bên chủ thể của hợp đồng
phải thực hiện các quyền và nghĩa vụ đã được quy định trong hợp đồng mua bán hàng


hóa. Tuy nhiên, do lý do khách quan hay chủ quan, các bên trong hợp đồng cũng phải
đối mặt với những rủi ro khác nhau, mà trong đó bồi thường thiệt hại là vấn đề được
các bên đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ những vấn đề này liên quan đến lợi ích vật chất, ảnh
hưởng trực tiếp đến người bán và người mua hàng hóa. Do vậy, việc thực hiện đúng
hoặc không đúng những thỏa thuận của bên này có thể gây ảnh hưởng đến các quyền
và lợi ích hợp pháp hoặc gây ra thiệt hại cho bên kia. Đây là một trong những nguyên
nhân dẫn đến việc các bên phải thực hiện bồi thường thiệt hại trên thực tế. Nếu giải
quyết không tốt vấn đề bồi thường thiệt hại sẽ dẫn đến các tranh chấp làm ảnh hưởng
đến các bên chủ thể của hợp đồng.
Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề bồi thường thiệt
hại giữa các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đã tương đối hoàn chỉnh. Việc ban
hành Luật thương mại 2005 và các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành để thiết lập
hành lang pháp lý cho các chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa thực hiện vấn đề
bồi thường thiệt hại, tuy nhiên pháp luật thương mại về bồi thường thiệt hại vẫn còn
nhiều hạn chế, vướng mắc, nhiều quy định chưa được hướng dẫn cụ thể, nhiều vấn đề
chưa được điều chỉnh một cách thấu đáo. Đặc biệt, việc gia nhập Công ước viên về
Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hợp quốc (CISG) đã đánh dấu mốc mới
trong quá trình tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng
cường mức độ hội nhập của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thông pháp luật về mua
bán hàng hóa và cho các doanh nghiệp Việt Nam một khung pháp lý hiện đại, công
bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
Bên cạnh đó, trên thực tế tại các doanh nghiệp nói chung và Công ty TNHH Xây
dựng DVTM Sao Phương Đông nói riêng, thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường
thiệt hại vẫn còn khá nhiều khó khăn, vướng mắc nhất định. Tình trạng vi phạm pháp
luật về vấn đề bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa vẫn xảy ra
thường xuyên. Các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và về bồi
thường thiệt hại nói riêng là một trong những dạng tranh chấp xảy ra nhiều trên thực
tế. Trước tình hình này, việc nghiên cứu pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa và thực tế triển khai tại Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao
Phương Đông là một vấn đề cấp thiết.

Để góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua
bán hàng hóa và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế, em đã quyết định
lựa chọn đề tài “Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa –
3

3


Thực tiễn, thực hiện tại Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương Đông” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Từ những phân tích ở trên cho thấy việc nghiên cứu
đề tài này sẽ có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2, Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa là vấn đề nghiên cứu có
tính thực tiễn cao, thu hút sự quan tâm của nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu. Có
thể kể đến một số công trình khoa học nghiên cứu về vẫn đề bồi thường thiệt hại như:
Luận văn thạc sĩ luật kinh tế của Nguyễn Thị Bích Vân, Viện đại học mở Hà Nội
với đề tài nghiên cứu “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng” năm
2015. Luận văn thạc sĩ Luật học của Đinh Hồng Ngân, Đại học Luật với đề tài nghiên
cứu “Trách nhiệm dân sự trong hợp đồng” được viết năm 2006.
Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Văn Hiệp, trường Đại học Quốc gia khoa Luật
về “Chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hoạt động kinh doanh thương mại” được
viết năm 2007. Tác giả đã đưa ra vấn đề về khía cạnh trong kinh doanh thương mại,
chỉ ra những điểm bất cập của pháp luật trong việc quy định về bồi thường thiệt hại
nhưng vẫn chưa có những đề xuất kiến nghị rõ ràng trong việc định hướng hoàn thiện
pháp luật.
Ngoài ra còn có một số bài viết về vấn đề bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
mua bán hàng hóa như: Bài viết của Phùng Thị Phương, tạp chí Tòa án nhân dân “Một
số vấn đề về bồi thường thiệt hại do vi pham hợp đồng” ngày 8 tháng 3 năm 2019; Bài
viết của Thạc sĩ Lê Văn Sua, Tòa án quân sự khu vực 1, QK9, “Quy định về chế tài
trong Luật thương mại 2005- một số vướng mắc và kiến nghị” được đăng trên Cổng

thông tin điện tử Bộ tư pháp ngày 21 tháng 11 năm 2016...
Các công trình nghiên cứu trên viết về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa chỉ đề cập đến các vấn đề liên quan chủ yếu tới lĩnh vực dân
sự và thương mại nói chung, mà chưa đi sâu vào các hợp đồng thương mại cụ thể như
hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng cung ứng - dịch vụ. Do đó, em đã chọn đề tài
“Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa – Thực tiễn, thực
hiện tại công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương Đông” để nghiên cứu tổng quát
về chế tài này, những khó khăn và bất cập trong thực tiễn về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
3, Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu
Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, các lý luận và thực tiễn thi hành các
quy định về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa trong thời gian
qua, khóa luận đi sâu nghiên cứu các vấn đề sau:
- Phân tích khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
mua bán hàng hóa.

4

4


- Đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
hàng hóa.
- Đưa ra một số vụ việc cụ thể có bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán
hàng hóa tại Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương Đông.
- Đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa.
4, Đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu.
a, Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua
bán hàng hóa cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về bồi thường thiệt hại trong hợp

đồng mua bán hàng hóa tại Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương Đông.
b, Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu các cơ sở lý luận, phân tích đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng pháp luật, đưa ra các giải pháp hoàn
thiện pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
c, Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian nghiên cứu: trong Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao
Phương Đông.
+ Về thời gian nghiên cứu: Pháp luật về bồi thường thiệt hại trong Hợp đồng mua
bán hàng hóa và thực tiễn, thực hiện tại Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương
Đông giai đoạn 2016-2019.
5, Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra em chủ yếu sử dụng phép liệt kê, so
sánh và phân tích làm cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Ngoài ra để thực
hiện nhiệm vụ nghiên cứu, em đã sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu với
nhau, cụ thể:
Phương pháp liệt kê, tổng hợp: được sử dụng để tổng hợp quy định của pháp luật
liên quan đến chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Phương
pháp này giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật điều chỉnh
vấn đề nghiên cứu để có cái nhìn tổng quát về hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề
nghiên cứu để có được nhận xét khách quan.
Phương pháp so sánh, phân tích: được sử dụng để phân tích lý giải các quy định
của pháp luật, so sánh, đối chiếu các quy định giữa các văn bản quy phạm khác nhau
để rút ra những nhận xét, giúp cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về các quy định của
pháp luật.
Phương pháp dẫn chứng, chứng minh: đưa ra các tình huống, ví dụ cụ thể xảy ra
trong ký kết và thực hiện hợp đồng của Công ty TNHH Xây dựng DVTM Sao Phương
Đông, từ đó để thấy rõ những điểm mạnh và những hạn chế trong quy định của pháp
luật về chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
6, Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

5

5


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các từ viết
tắt, nội dung khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1. Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt
hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2. Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Chương 3. Một số giải pháp (kiến nghị) hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề
bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.

6

6


CHƯƠNG I. NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA.
1.1. Một số vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa và bồi thường
thiệt hại trong HĐMBHH.
1.1.1 Hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Khoản 8 Điều 3 Luật Thương mại 2005 “Mua bán hàng hóa là hoạt động
thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa
cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản
chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt

các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Luật thương mại không đưa ra định
nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, nhưng có thể dựa vào khái
niệm hợp đồng mua bán tài sản trong Bộ luật dân sự để xác định bản chất của hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Theo Điều 430 BLDS 2014 “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua
có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”. Hàng hóa được hiểu là động sản, kể
cả động sản hình thành trong tương lai, và các vật gắn liền với đất. Như vậy, hàng hóa
thuộc tài sản và có phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng
hóa trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Điểm phân
biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán tài sản
khác là: đối tượng hàng hóa, và mục đích sinh lời.
Thứ nhất, về đối tượng hàng hóa:
-

Hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là hàng hóa. Tuy nhiên không thể hiểu theo
nghĩa thông thường, hàng hóa là sản phẩm lao động của con người được tạo ra nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồm máy móc, thiết bị, nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường,
nhà ở dùng để kinh doanh dưới hình thức cho thuê, mua, bán. Khoản 2 Điều 3 Luật
thương mại 2005 quy định: “Hàng hóa bao gồm:
a, Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
b, Những vật gắn liền với đất đai.”
7

7


Như vậy, hàng hoá trong hợp đồng mua bán hàng hóa là đối tượng mua bán có
thể là hàng hoá hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động

sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng
hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
-Hợp đồng mua bán tài sản: Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật dân sự 2015 thì:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể
là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
Như vậy, đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản là rộng hơn so với đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai, về mục đích:
Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi
nhuận cho các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục
đích khác cho cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo
mong muốn và nhu cầu của họ trong từng thời điểm.
Hợp đồng mua bán tài sản lại không nhất thiết là có mục đích kinh doanh mà có
thể nhằm nhiều mục đích khác nhau như: tiêu dùng, tặng, cho, làm từ thiện hoặc đơn
giản là vì sở thích…
Sự khác nhau này là do yếu tố chủ thể quyết định. Vì chủ thể chủ yếu của hợp
đồng mua bán hàng hóa là thương nhân, mà đã nói đến thương nhân thì khó có thể
không nhắc đến lợi nhuận, hoạt động chính của họ là kinh doanh và thu lợi nhuận,
không có lợi nhuận họ không thể tồn tại lâu dài dù vốn đầu tư có lớn đi chăng nữa.
Qua những điều trên, chúng ta có thể rút ra được rằng: Hợp đồng mua bán hàng
hóa là thỏa thuận giữa các bên theo đó bên bán chuyển hàng hóa cùng quyền sở hữu
đối với hàng hóa đó cho bên mua, bên mua hàng có trách nhiệm nhận hàng hóa và có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán hàng, việc giao hàng, thanh toán phải được thực hiện
theo thời gian, địa điểm, phương thức được thỏa thuận trong hợp đồng.
1.1.1.2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa
Cũng giống như hợp đồng mua bán tài sản thì hợp đồng mua bán hàng hóa có
những đặc điểm chung sau:
8


8


- Là hợp đồng ưng thuận: tức là được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa
thuận xong các điều khoản cơ bản, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ
thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành
động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
- Có tính đền bù: Bên bán khi thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì
sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới
dạng khoản tiền thanh toán.
- Là hợp đồng song vụ: Mỗi bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị
ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia, đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi
bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại
hai nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại và liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ
của bên bán phải bàn giao hàng hóa cho bên mua và nghĩa vụ của bên mua phải
thanh toán cho bên bán.
Mặc dù hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất pháp lý chung của một hợp
đồng thì cũng đồng thời có những điểm khác biệt đặc trưng so với các hợp đồng khác,
thể hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất, về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa: Chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, các chủ thể tham gia hợp đồng chủ yếu là các thương nhân - tham
gia hợp đồng để sinh lợi. Đây là điểm khác biệt so với hợp đồng mua bán tài sản trong
dân sự. Theo Điều 6 Luật thương mại 2005 thì thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường
xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân sẽ không bao gồm hộ gia đình, tổ hợp
tác vì tuy được thừa nhận là chủ thể của luật dân sự, có quyền hoạt động kinh doanh
dưới hình thức hộ kinh doanh, cá thể song hộ gia đình, tổ hợp tác không phải tổ chức
kinh tế, cũng chẳng phải là cá nhân. Thương nhân gồm có thương nhân Việt Nam và
thương nhân nước ngoài có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác. Trong hợp

đồng mua bán hàng hóa, các bên chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân hoặc trong
một số trường hợp chỉ cần bên bán là thương nhân (vì bên bán thực hiện hoạt động bán
hàng mang tính chất nghề nghiệp). Những cá nhân có hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên không cần phải đăng kí kinh doanh vẫn có thể giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa trong thương mại với tư cách là bên mua hàng. Còn trong hợp
đồng mua bán tài sản thì chủ thể của loại hợp đồng này rộng hơn chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa khi mà mọi tổ chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có nhu cầu mua bán
tài sản đều có thể trở thành chủ thể cảu hợp đồng mua bán tài sản.

9

9


Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa: Đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa là hàng hóa. Theo Khoản 2 Điều 3 Luật thương mại 2005 “Hàng
hóa bao gồm:
a, Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai
b, Những vật gắn liền với đất đai.”
Tuy khái niệm hàng hóa rất rộng nhưng tại Điều 25 Luật thương mại 2005 đã bổ
sung thêm quy định về hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa cấm kinh doanh và
hàng hóa kinh doanh có điều kiện. Như vậy, không phải hàng hóa nào cũng được phép
kinh doanh mà phải theo những quy định của pháp luật, phải đủ điều kiện kinh doanh
thì mới được phép lưu thông, mua bán trên thị trường. Đối tượng hàng hóa trong hợp
đồng mua bán hàng hóa hẹp hơn đối tượng tài sản được phép giao dịch trong dân sự.
Các loại tài sản là quyền tài sản như giấy tờ có giá gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối
phiếu… không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 2005.
Thứ ba, về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa: Tùy thuộc vào nội dung,
tính chất của hợp đồng, hình thức hợp đồng có thể do các bên lựa chọn hoặc theo quy
định pháp luật hoặc theo Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Về nguyên tắc

chung, hình thức của HĐMBHH do các bên lựa chọn một cách phù hợp như bằng văn
bản, bằng lời nói hoặc bằng hành vi cụ thể. Luật thương mại 2005 cũng cho phép thay
thế hình thức văn bản bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm
điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu điện tử và các hình thức khác theo quy định của
pháp luật.
Thứ tư, về nội dung của HĐMBHH: Nội dung của hợp đồng nói chung là các
điều khoản do các bên thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan
hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa là các điều khoản do các bên
thỏa thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của bên bán và bên mua trong quan hệ hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Hợp đồng bắt buộc phải bao gồm những nội dung chủ yếu nào là tùy thuộc vào
quy định của pháp luật từng quốc gia. Việc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng
mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào thỏa thuận các nội dung quan trọng
của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện và phòng ngừa các tranh chấp có
thể xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật Thương mại 2005 không quy định
hợp đồng mua bán hàng hóa phải bao gồm nội dung bắt buộc nào. Tuy nhiên, ta có thể
thấy rằng, một hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường phải chứa đựng sự thỏa
thuận về đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm
nhận giao hàng. Trong quan hệ mua bán hàng hóa, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi
những điều khoản đã thỏa thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy
10

10


định của pháp luật, tức là những điều khoản pháp luật có quy định nhưng các bên
không thỏa thuận trong hợp đồng.
Thứ năm, về mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa: Mục đích mà các chủ
thể tham gia hoạt động mua bán hàng hóa hướng tới là để sinh lợi: lợi nhuận mà các
bên có thể đạt được không chỉ về vật chất, tài sản mà còn bao gồm cả những lợi ích phi

vật chất như uy tín, thương hiệu doanh nghiệp hay niềm tin của khách hàng. Mục đích
của các bên tham gia hoạt động thương mại là kinh doanh, lợi nhuận. Về nguyên tắc,
mục đích lợi nhuận mà cả hai bên hướng tới hoặc ít nhất một bên phải có mục đích lợi
nhuận, trong hợp đồng luật lựa chọn là Luật Thương mại.

-

1.1.2. Các chế tài trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.2.1. Khái niệm
Chế tài trong hoạt động mua bán hàng hóa là sự gánh chịu hậu quả bất lợi của
bên vi phạm hợp đồng trong mua bán hàng hóa và được hiểu theo nhiều phạm vi khác
nhau. Chế tài là một đặc trưng cơ bản của pháp luật. Nó là một phương tiện để thi hành
quyền hoặc ngăn cản việc vi phạm quyền hay khắc phục hậu quả của sự vi phạm
quyền, cụ thể:
Theo nghĩa rộng, chế tài trong mua bán hàng hóa được hiểu là hình thức chế tài
được cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm áp dụng đối với mọi tổ chức
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật trong thương mại. Khi có hành vi vi phạm pháp
luật trong mua bán hàng hóa thì cơ quan nhà nước hoặc bên có quyền lợi bị vi phạm sẽ
có quyền áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể vi phạm. Các đặc trưng cơ
bản của chế tài theo cách hiểu này bao gồm:
Về phạm vi áp dụng: theo tinh thần chung của Luật Thương mại 2005, mọi hành
vi vi phạm pháp luật mua bán hàng hóa đều bị phát hiện một cách kịp thời và xử lý
nghiêm minh để đảm bảo quyền và lợi ích của các bên tham gia hoạt động mua bán
hàng hóa. Theo đó tất cả các hành vi vi phạm pháp luật đều thuộc phạm vi áp dụng của
chế tài. Các hành vi vi phạm pháp luật mua bán hàng hóa không chỉ bao gồm những
hành vi vi phạm chế độ quản lí nhà nước trong lĩnh vực mua bán hàng hóa, xâm phạm
trật tự quản lí thương mại của nhà nước mà còn bao gồm các hành vi vi phạm xảy ra
trong quá trình các bên ký kết và thực hiện hợp đồng.
Về chủ thể có quyền ra quyết định áp dụng chế tài: theo từng hành vi vi phạm mà
chủ thể áp dụng chế tài trong mua bán hàng hóa có thể là cơ quan nhà nước có thẩm

quyền như: cơ quan quản lí thị trường, công an kinh tế, Tòa án...; hay chính bên bị vi
phạm quyền lợi trong hợp đồng giữa các chủ thể.
Về căn cứ chung để áp dụng chế tài, bao gồm:
Có hành vi vi phạm: Bao gồm các hành vi thực hiện không đúng hoặc không thực hiện
nghĩa vụ trong hợp đồng. Đây là căn cứ cần được đưa ra chứng minh trong việc áp
dụng đối với tất cả các hình thức chế tài.
11

11


-

-

-

Có thiệt hại vật chất thực tế xảy ra. Căn cứ này bắt buộc phải được viện dẫn khi áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế.
Có lỗi của bên vi phạm, đây là căn cứ bắt buộc phải có để áp dụng đối với tất cả các
loại chế tài.
Về đối tượng bị áp dụng trong chế tài thương mại: đối tượng bị áp dụng trong
chế tài thương mại chủ yếu là thương nhân có hành vi vi phạm pháp luật mua bán hàng
hóa. Đó là các chủ thể thường xuyên được thực hiện các hành vi mua bán hàng hóa, là
đối tượng áp dụng của Luật thương mại nên tất nhiên phải chịu chế tài trong thương
mại khi có các hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên chế tài cũng được áp dụng đối với
một số chủ thể không phải là thương nhân, ví dụ như chủ thể thực hiện hành vi kinh
doanh trái phép.
Về hình thức của chế tài: tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm

pháp luật trong mua bán hàng hóa mà có thể áp dụng các hình thức chế tài khác nhau
bao gồm: các chế tài hành chính, chế tài hình sự và các chế tài khác mang tính chất
dân sự hoặc hợp đồng.
Về mục đích áp dụng chế tài thương mại: căn cứ vào hình thức chế tài được áp
dụng đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật trong mua bán hàng hóa, việc
áp dụng các chế tài nhằm đảm bảo các mục đích khác nhau:
Thứ nhất, đối với hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm trật tự quản lí hoạt động mua
bán hàng hóa của nhà nước thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng chế tài hành
chính hoặc chế tài hình sự nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, của xã hội và của chính các chủ thể tham gia vào quan hệ này cũng
như các chủ thể khác trong xã hội.
Thứ hai, đối với các hành vi vi phạm quy định về hợp đồng, chế tài nhằm đảm bảo kỷ luật
hợp đồng, ngăn ngừa mọi hành vi vi phạm hợp đồng và trừng phạt bên vi phạm một cách
thích đáng, đảm bởi quyền lợi cho các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng.
Tóm lại, theo cách hiểu này, chỉ cần chủ thể tham gia pháp luật thương mại có
hành vi vi phạm pháp luật thương mại đều đã hình thành căn cứ để áp dụng chế tài.
Tuy nhiên nhược điểm của cách hiểu này là khi áp dụng chế tài, việc phân tích và tìm
hiểu các hành vi vi phạm gặp rất nhiều khó khăn khi khó tìm quy phạm điều chỉnh để
áp dụng các hình thức chế tài cụ thể. Nguyên nhân chủ yếu là do pháp luật quy định rất
rộng, rải rác trên nhiều văn bản quy phạm khác nhau.
Tiếp cận khái niệm chế tài theo nghĩa hẹp thì đó là một bộ phận của quy phạm
pháp luật nêu lên những biện pháp tác động mà nhà nước dự kiến để đảm bảo cho
pháp luật được thực hiện nghiêm minh. Các biện pháp tác động nêu ở bộ phận chế tài
của quy phạm pháp luật sẽ được áp dụng đối với chủ thể nào vi phạm pháp luật, không
12

12


thực hiện đúng mệnh lệnh của nhà nước đã nêu ở bộ phận quy định của quy phạm

pháp luật.
Trong quan hệ giữa các thương nhân, pháp luật thương mại ra đời là cần thiết để
duy trì và đảm bảo sự bình đẳng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng. Khi một
hợp đồng mua bán hàng hóa đã được giao kết hợp pháp và phát sinh hiệu lực pháp
luật, đồng nghĩa với việc các bên bị ràng buộc bởi các trách nhiệm pháp lý đối với
nhau, quyền của bên này sẽ là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Việc vi phạm các
nghĩa vụ trong hợp đồng sẽ dẫn đến hậu quả bên vi phạm phải chịu các hình thức trách
nhiệm - chế tài. Đây là khái niệm chế tài để hiểu theo nghĩa hẹp. Nếu một bên có hành
vi vi phạm hợp đồng thì phải gánh chịu những hậu quả pháp lý nhất định do hành vi vi
phạm đó gây ra. Và tất nhiên hậu quả pháp lý đó mang tính chất bất lợi đối với bên vi
phạm hợp đồng.
Chế tài do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại chế tài phát sinh
trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Pháp luật các nước không đưa
ra định nghĩa cụ thể thế nào là chế tài do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. Pháp
luật Việt Nam cũng chỉ đưa ra khái niệm về vi phạm hợp đồng như sau: Khoản 12
Điều 3 Luật thương mại năm 2005: “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực
hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận
giữa các bên theo quy định của Luật này”.
Như vậy, Luật thương mại 2005 tiếp cận khái niệm chế tài do vi phạm hợp đồng
thương mại theo nghĩa hẹp, đó là các biện pháp tác động bất lợi về tài sản của bên có
quyền lợi bị vi phạm đối với chủ thể có hành vi vi phạm cam kết hợp đồng mua bán
hàng hóa, bao gồm các chế tài được quy định tại Điều 292 Luật thương mại 2005.
Theo đó “Chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại là hình thức chế tài áp dụng đối
với các chủ thể không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các cam kết
theo hợp đồng, theo đó bên có hành vi vi phạm hợp đồng thương mại phải gánh chịu
một hậu quả pháp lý bất lợi do hành vi vi phạm của mình gây ra.”
1.1.2.2 Các loại chế tài thương mại
Việc vi phạm các nghĩa vụ trong hợp đồng thương mại dẫn đến hậu quả bên vi
phạm phải chịu các hình thức chế tài, và các chế tài khi đó gọi là chế tài hợp đồng. Nói
cách khác đó là chế tài được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm các chế tài do vi phạm hợp

đồng trong thương mại mà bên có quyền bị vi phạm được lựa chọn áp dụng hoặc yêu
cầu áp dụng theo quy định của pháp luật. Căn cứ pháp lý để áp dụng chế tài hợp đồng
được quy định từ Điều 292 đến Điều 316 Luật Thương mại 2005. Theo quy định của
pháp luật hiện hành các chế tài trong thương mại bao gồm:
Điều 292 Luật Thương mại 2005: Các loại chế tài trong thương mại:
1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng
13

13


2. Phạt vi phạm
3. Buộc bồi thường thiệt hại
4. Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
5. Đình chỉ thực hiện hợp đồng
6. Hủy bỏ hợp đồng

Chế tài thứ nhất, buộc thực hiện đúng hợp đồng: là hình thức chế tài mà theo đó,
bên bị vi phạm nghĩa vụ hợp đồng phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ theo yêu cầu của
bên bị vi phạm. Khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại 2005 quy định: “Buộc thực hiện
đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng
hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện và bên vi phạm phải chịu
chi phí phát sinh.” Mục đích của việc áp dụng chế tài này nhằm đảm bảo thực hiện
trên thực tế hợp đồng đã giao kết mà một bên vì lợi ích của mình đã trốn tránh không
thực hiện hợp đồng gây ra tổn thất/thiệt hại cho bên còn lại.
Tuy nhiên, chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng còn tồn tại một số hạn chế nhất
định, cụ thể: một phần trong định nghĩa về hình thức buộc thực hiện đúng hợp đồng
thể hiện tính không khả thi, cụ thể: việc thực hiện đúng hợp đồng là khó có thể thực
hiện đặc biệt là trường hợp vi phạm hợp đồng về mặt thời hạn. Ngoài ra, Khoản 2 Điều
299 Luật thương mại năm 2005 quy định: “Trường hợp bên vi phạm không thực hiện

chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên
bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình”.
Quy định như vậy đã làm cho chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trở thành vô giá
trị, bởi vì ngay cả trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài này thì cũng không
chịu bất kì trách nhiệm bổ sung nào mà chỉ chịu các hình thức chế tài như phạt hợp
đồng, bồi thường thiệt hại hoặc tạm ngừng, đình chỉ, hủy bỏ hợp đồng. Quy định này
đã biến chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thành kẽ hở lớn để lợi dụng nhằm trì
hoãn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng.
Chế tài thứ hai, phạt vi phạm hợp đồng: Đây là hình thức chế tài do vi phạm hợp
đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm một khoản tiền nhất
định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận dựa trên các quy định của pháp
luật. Điều 300 Luật Thương mại 2005 quy định : “Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm
yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng
có thỏa thuận, trừ các trường hợp miễn trách nhiệm theo quy định tại Điều 294 của
Luật này.” Mặc dù cũng là chế tài tiền tệ giống như chế tài bồi thường thiệt hại nhưng
phạt vi phạm lại có chức năng hoàn toàn khác và chủ yếu nhằm răn đe, trừng phạt. Căn
cứ duy nhất để bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền phạt là do hành vi không
thực hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng hợp đồng. Yếu tố lỗi ở đây mang tính
chất suy đoán. Bên cạnh đó mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ hợp đồng hpặc tổng
14

14


mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng không quá 8%
giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Tuy nhiên đối với cùng một vi phạm hợp
đồng, bên bị vi phạm chỉ được quyền lựa chọn áp dụng một trong hai chế tài là bồi
thường thiệt hại hoặc phạt vi phạm, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Việc áp
dụng đồng thời hai loại chế tài này đối với một vi phạm chỉ xảy ra khi các bên đã có
thỏa thuận trước trong hợp đồng. Một vấn đề đặt ra là mức phạt tối đa 8% giá trị phần

nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm có hợp lý không khi bên vi phạm hoàn toàn có thể chấp
nhận mức phạt này để vi phạm hợp đồng vì một mức lợi nhuận cao hơn khi không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thỏa thuận trong hợp đồng?
Chế tài thứ ba, bồi thường thiệt hại: là hình thức chế tài nhằm khôi phục, bù đắp
những lợi ích vật chất bị mất của bên bị vi phạm hợp đồng trong thương mại. Khoản 1
Điều 302 Luật Thương mại 2005 quy định: “Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm
bồi thường những tốn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.”
Chế tài thứ tư, tạm ngừng thực hiện hợp đồng: là hình thức chế tài mà theo đó
một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ kinh doanh. Điều 308 Luật Thương mại
2005 quy định: “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật
này, tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ
trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để tạm ngừng thực hiện
hợp đồng.
2. Một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng”
Khi hợp đồng bị tạm ngừng thực hiện, hợp đồng vẫn có hiệu lực. Bên bị vi phạm
có quyền yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại đối với những tổn thất đã xảy ra.
Như vậy, về mặt bản chất, việc tạm ngừng thực hiện hợp đồng không ảnh hưởng đến
hiệu lực của hợp đồng và hợp đồng đó sẽ tiếp tục được thực hiện trong tương lai khi
điều kiện áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng chấm dứt. Vấn đề đặt ra ở đây
là sau khi áp dụng biện pháp này, thời điểm nào sẽ được coi là chấm dứt việc tạm
ngừng thực hiện hợp đồng? Căn cứ nào để một bên yêu cầu tiếp tục thực hiện hợp
đồng đã bị tạm ngừng thực hiện? Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng bị tạm ngừng thực
hiện do bên tạm ngừng tự động thực hiện hay theo yêu cầu của bên có hành vi vi phạm
hợp đồng? Tất cả những yếu tố này hiện nay đều chưa được tính đến trong Luật
Thương mại, gây khó khăn cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Chế tài thứ 5, đình chỉ thực hiện hợp đồng: Đây là hình thức chế tài mà theo đó
một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng kinh doanh. Điều 310 Luật
Thương mại 2005 quy định: “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều
15


15


294 của Luật này, đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện
nghĩa vụ hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
1. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng;
2. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.”
1.1.2.3. Chế tài bồi thường thiệt hại
a, Khái niệm bồi thường thiệt hại:
Theo từ điển Luật học của Bộ tư pháp xuất bản năm 2006, bồi thường thiệt hại là
việc người có hành vi vi phạm, có lỗi trong việc gây ra thiệt hại về vậy chất, tinh thần
phải bồi hoàn cho người thiệt hại nhằm phục hồi tình trạng tài sản, bù đắp tổn thất về
tinh thần cho người bị thiệt hại. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm trách nhiệm
bồi thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần. Trong
hoạt động thương mại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất được hiểu là việc
cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những hậu quả vật chất do hành vi vi phạm
của mình gây ra cho cá nhân, tổ chức khác. Những tổn thất này phải được tính thành
tiền, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, thu nhập trên
thực tế bị mất, bị giảm sút, chi phí sửa chữa… Cả trong trường hợp bên có quyền bị vi
phạm đã áp dụng các hình thức trách nhiệm khác thì họ vẫn không đương nhiên mất
quyền đòi bồi thường thiệt hại.
Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015, bồi thường thiệt hại được khai thác theo
hướng bồi thường do vi phạm nghĩa vụ, bởi lẽ, hợp đồng là một căn cứ chủ yếu để
phát sinh nghĩa vụ. Với tư cách là văn bản luật gốc điều chỉnh các quan hệ đó, do đó,
quy định của Bộ luật dân sự là cơ sở để các văn bản luật khác quy định về chế độ bồi
thường thiệt hại. Theo Điều 302, Khoản 1 Luật thương mại 2005 “Bồi thường thiệt hại
là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra
cho bên bị vi phạm”. Như vậy có thể hiểu, bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng là
một chế tài dân sự được áp dụng nhằm bù đắp những thiệt hại thực tế mà bên vi phạm

đã gây ra cho bên bị vi phạm. Bản chất của bồi thường thiệt hại là việc bên có quyền
yêu cầu bên vi phạm nghĩa vụ trả một khoản tiền do vi phạm hợp đồng gây ra.
b, Đặc điểm chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật thương mại và các văn bản khác có liên
quan, chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng cũng có những đặc điểm của
chế tài, cụ thể như:
- Chế tài bồi thường thiệt hại là các chế tài hợp đồng phát sinh khi có hành vi vi
phạm hợp đồng trong mua bán hàng hóa. Trong quan hệ hợp đồng, nếu một bên không
thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của hợp đồng thì phải
gánh chịu những hậu quả bất lợi mang tính chất tài sản, căn cứ áp dụng là theo sự cam
kết giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
16

16


- Chế tài bồi thường thiệt hại là chế tài mang tính chất tài sản. Khi thương nhân
thực hiện hành vi vi phạm hợp đồng trong mua bán hàng hóa, có thể phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi mang tính vật chất trong đó có hình thức chế tài bồi thường thiệt
hại. Bản chất của các giao dịch dân sự và thương mại là các quan hệ về tài sản, có tính
chất đền bù ngang giá, trong đó hợp đồng trong mua bán hàng hóa được các bên kí kết
chủ yếu là những hợp đồng mang tính chất đền bù ngang giá, phản ánh mối quan hệ
mang tính chất hàng hóa tiền tệ, nên việc áp dụng các chế tài mang tính tài sản là tất
yếu, trừ khi chính bản thân người bị vi phạm trong cùng quan hệ hợp đồng không
muốn áp dụng chế tài hợp đồng đối với bên vi phạm. Hậu quả bất lợi mang tính chất
tài sản thể hiện ở việc bên có hành vi vi phạm phải nộp một khoản tiền phạt hợp
đồng, nộp tiền bồi thường hợp đồng hay những chi phí cần thiết để thực hiện đúng
hợp đồng.
- Chủ thể lựa chọn và quyết định hình thức chế tài buộc bồi thường thiệt hại
chính là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng. Những điều khoản các bên đã cam

kết trong hợp đồng là điều khoản bắt buộc phải được tuân thủ thực hiện, nếu không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng theo các cam kết được thỏa thuận trong hợp
đồng thì chủ thể đó bị coi là có hành vi vi phạm hợp đồng. Lúc này bên bị vi phạm
có thể áp dụng một hoặc một số chế tài theo cam kết trong hợp đồng hay theo quy
định của pháp luật. Khi bên bị vi phạm áp dụng các chế tài trong thương mại trong
đó có chế tài buộc bồi thường thiệt hại, nhưng bên vi phạm không thừa nhận hành vi
vi phạm hay không tuân thủ các biện pháp chế tài đưa ra thì bên bị vi phạm có thể
làm đơn khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Trong khuôn khổ quy định pháp luật, bên bị vi phạm được toàn quyền
quyết định việc yêu cầu bên vi phạm thực hiện một phần hay toàn bộ trách nhiệm tài
sản đối với mình. Giả sử trong hợp đồng thỏa thuận áp dụng đồng thời hai chế tài là
phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm có thể chỉ áp dụng biện pháp
bồi thường thiệt hại mà không áp dụng biệt pháp phạt vi phạm. Do đó cơ quan có
thẩm quyền được bên bị vi phạm yêu cầu giải quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền
tự định đoạt của bị đơn.
Như đã nêu trên, việc quy định các chế tài trong thương mại nhằm bảo vệ
quyền lợi của chính các bên trong quan hệ hợp đồng, đảm bảo cam kết giữa các bên
được thực hiện hoặc là sự đền bù lại những tổn thất đã gây ra cho bên bị thiệt hại
do hành vi của bên vi phạm hợp đồng. Qua đó nhằm bó buộc các bên tham gia hợp
đồng phải tuân thủ các quy định của pháp luật và nghĩa vụ phải thực hiện theo thỏa
thuận trong hợp đồng nhằm đảm bảo các bên hợp tác bình đẳng và cùng có lợi.
Luật thương mại 2005 quy định nhiều loại chế tài khác nhau và nhằm đạt được các
17

17


hiệu quả khác nhau nhằm mục đích tạo ra môi trường pháp lý công bằng, thuận lợi
để các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu phát
triển xã hội.

1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề bồi thường
thiệt hại trong hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành
Chế tài thương mại là chế định cơ bản của pháp luật thương mại, có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Thông qua đó các chủ thể
của hợp đồng thương mại có thể điều tiết hành vi của các bên trong quá trình thực hiện
hợp đồng, tạo sự ổn định tương đối cho sự phát triển của nền kinh tế, bảo vệ được bên
thiện chí, ngay tình trong các hoạt động thương mại. Các chế tài này ngày càng thể
hiện rõ vai trò quan trọng của nó và được các bên sử dụng như một biện pháp hữu hiệu
để bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là chế tài bồi
thường thiệt hại.
Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 1/1/2017 thay thế cho Bộ luật dân sự
2005. Tại bộ luật quy định chi tiết về vấn đề bồi thường thiệt hại, tại Chương XV, từ
Điều 360 đến Điều 364. Bộ luật quy định rất rõ về trách nhiệm bồi thường thiệt hại,
việc xác định bồi thường thiệt hại và bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên vi
phạm có lỗi.
Luật Thương mại 2005 quy định về các hoạt động liên quan tới thương mại đặc
biệt là quy định liên quan đến bồi thường thiệt hại. Trước đó quy định này được quy
định trong Luật thương mại 1997. Hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong những
quy định thiết yếu của bộ luật này. Tại hợp đồng mua bán hàng hóa có các điều khoản
do các bên thỏa thuận trong trường hợp không thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không
đúng hoặc thực hiện không đủ. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại được quy định là hình
thức trách nhiệm chung và được áp dụng rộng rãi, phổ biến trong mọi trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng mà gây ra thiệt hại. Chế tài
bồi thường thiệt hại được quy định tại Chương 7 của Luật này, từ Điều 303 đến Điều
307 có quy định rõ căn cứ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ chứng minh tổn thất và các
điều khoản liên quan khác.
1.2.2. Nội dung pháp luật điều chỉnh chế tài bồi thường thiệt hại trong hợp
đồng mua bán hàng hóa.
1.2.2.1. Căn cứ bồi thường thiệt hại

Điều 303 Luật thương mại 2005 có quy định rất rõ về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các
yếu tố sau đây: có hành vi vi phạm hợp đồng; có thiệt hại thực tế; hành vi vi phạm
hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.
18

18


Trong quan hệ hợp đồng, hành vi vi phạm hợp đồng là hành vi của một bên làm
trái với nội dung đã thỏa thuận. Đó có thể là hành vi không thực hiện, thực hiện không
đúng hoặc thực hiện không đủ một phần hay toàn bộ những cam kết phát sinh trong
hợp đồng. Trong đó các bên không chỉ thực hiện mà phải thực hiện các nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật.
- Có hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý cần thiết để áp dụng đối với tất cả
các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng. Theo khoản 12 Điều 3 Luật thương mại
2005, “Vi phạm hợp đồng là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định
của Luật này.” Nội dung của hợp đồng không chỉ bao gồm những điều khoản do các
bên tự thỏa thuận mà còn bao gồm những điều khoản các bên không thỏa thuận, theo
quy định của pháp luật các bên phải có nghĩa vụ thực hiện. Đó là những điều khoản
thường lệ, những điều khoản này coi như các bên mặc nhiên công nhận. Trên thực tế,
pháp luật ưu tiên các điều khoản mà các bên tự thỏa thuận. Nếu thỏa thuận trái pháp
luật thì những thỏa thuận đó sẽ không có giá trị và những quy định của pháp luật sẽ trở
thành nội dung của hợp đồng, ví dụ như điều khoản về bồi thường thiệt hại, điều
khoản bất khả kháng, điều khoản về thẩm quyền giải quyết của tòa án. Và do đó các
bên sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ phát sinh từ quy phạm pháp luật có liên quan.
- Có thiệt hại thực tế
Nếu như hành vi vi phạm hợp đồng là điều kiện cần, là căn cứ cần phải có đối

với việc áp dụng các hình thức chế tài thì việc xác định thiệt hại thực tế xảy ra chỉ
mang tính chất bắt buộc đối với chế tài bồi thường thiệt hại. Bên có hành vi vi phạm
hợp đồng chỉ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên bị vi phạm nếu hành vi vi
phạm gây ra thiệt hại trên thực tế cho bên bị vi phạm. Nói cách khác, bên bị vi phạm
chỉ có thể yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại khi chứng minh được có thiệt hại
thực tế xảy ra và nguyên nhân chính do hành vi vi phạm hợp đồng của bên vi phạm.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 302 Luật thương mại 2005, “Giá trị bồi thường
thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như vậy thiệt hại thực tế ở đây phải là thiệt hại
về tài sản, có thể tính toán, xác định một cách cụ thể và quy ra giá trị tiền tệ được.
Thiệt hại thực tế được chia thành hai loại: thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
Trong đó thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại thực tế đã xảy ra, có thể tính toán một
cách dễ dàng và chính xác, như tài sản bị hư hỏng, mất mát, chi phí bảo quản, tu sửa,
ngăn chặn thiệt hại… Thiệt hại gián tiếp là những thiệt hại chỉ có thể xác định dựa trên
sự suy đoán mang tính khoa học, như khoản thu nhập bị mất khi xảy ra thiệt hại hay
khoản lợi nhuận thực tế đáng ra được hưởng nếu không có hành vi vi phạm hợp đồng.
19

19


- Mối quan hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt hại thực tế
Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Mối quan hệ
nhân quả là mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, trong đó nguyên
nhân phải có trước và chính nguyên nhân đó dẫn đến kết quả. Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thương
mại nói riêng đòi hỏi giữa hành vi vi phạm và thiệt hại phải có mối quan hệ nhân quả.
Hành vi vi phạm là nguyên nhân và thiệt hại là hậu quả tất yếu của hành vi vi phạm
đó. Nếu không có hành vi vi phạm thì không thể làm phát sinh hậu quả.
1.2.2.2. Phạm vi xác định thiệt hại được đền bù

Thiệt hại yêu cầu bồi thường do vi phạm gây ra được coi là một khoản đền bù để
bù đắp những tổn thất, mất mát mà người bị vi phạm phải chịu. Quy định tại Điều 302
Luật thương mại 2005 có quy định rõ “Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn
thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Như
vậy, tùy thuộc vào mức thiệt hại xảy ra, tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên mà
bên vi phạm sẽ phải bồi thường cho bên bị vi phạm một khoản tiền tương ứng với
những tổn thất do mình gây ra cho bên bị vi phạm.
Công ước viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế (Công ước CISG) cũng dành
Mục II Chương 5 cho chế tài bồi thường thiệt hại. Trong đó Điều 74 Công ước viên
1980: “tiền bồi thường thiệt hại xảy ra do một bên vi phạm hợp đồng là một khoản
tiền bao gồm tổn thất và khoản lợi bị bỏ lỡ mà bên kia đã phải chịu do hậu quả của sự
vi phạm hợp đồng. Tiền bồi thường thiệt hại này không thể cao hơn tổn thất và số lợi
bỏ lỡ mà bên bị vi phạm đã dự liệu hoặc đáng lẽ phải dự liệu được vào lúc ký kết hợp
đồng như một hậu quả có thể xảy ra do vi phạm hợp đồng, có tính đến các tình tiết mà
họ đã biết hoặc đáng lẽ phải biết.” Khi đối chiếu với quy định trong Bộ nguyên tắc
Unidroit Điều 7.4.2 quy định nguyên tắc bồi thường toàn bộ bao gồm cả những thiệt
hại vật chất (tổn thất và lợi ích bị mất đi) và cả những thiệt hại phi tiền tệ bắt nguồn
đặc biệt từ nỗi đau thể chất hoặc tinh thần trong đó có thiệt hại do mất uy tín (loại thiệt
hại mà bên bị thiệt hại đòi bồi thường trong một số tranh chấp điển hình), Công ước
viên 1980 không có quy định cụ thể về loại thiệt hại này.
1.2.2.3. Nghĩa vụ chứng minh thiệt hại và hạn chế thiệt hại
Về nguyên tắc, bên bị vi phạm chỉ có thể yêu cầu bên vi phạm bồi thường thiệt
hại trong phạm vi do pháp luật quy định. Bên vi phạm hợp đồng chỉ phải bồi thường
cho bên bị vi phạm nếu hành vi vi phạm của mình gây ra thiệt hại thực tế cho bên bị vi
phạm và chỉ phải bồi thường phần thiệt hại thực tế đó. Bên bị vi phạm có nghĩa vụ
chứng minh thiệt hại, và nghĩa vụ này được quy định tại Điều 304 Luật thương mại
2005 như sau “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ tổn
20


20


thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu không có hành vi vi phạm”. Để có cơ sở cho việc yêu cầu bồi thường thiệt
hại, bên bị thiệt hại phải xuất trình các tài liệu, chứng cứ chứng minh rằng thiệt hại đã
xảy ra do hành vi vi phạm hợp đồng. Và đây là căn cứ pháp lý quan trọng để bên gây
ra thiệt hại xem xét nếu việc bồi thường thiệt hại được giải quyết thông qua đàm phán,
thương lượng. Nếu không chứng minh được những tổn thất do hành vi vi phạm gây ra
và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi
phạm thì sẽ không thể nào yêu cầu bên vi phạm bồi thường những thiệt hại xảy ra. Bởi
nội dung của chế tài bồi thường thiệt hại là bên vi phạm phải trả cho bên bị vi phạm
giá trị vật chất bị tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng của mình gây ra. Do đó về
nguyên tắc bên vi phạm phải bồi thường toàn bộ những thiệt hại vật chất cho bên bị vi
phạm, không giới hạn bởi giá trị hợp đồng. Chính vì vậy, việc chứng minh thiệt hại sẽ
giúp bên vi phạm chỉ bồi thường đúng những thiệt hại thực tế đã xảy ra tránh trường
hợp bên bị vi phạm liệt kê ra những thiệt hại vốn không có nhằm mục đích đòi thêm
nhiều tiền bồi thường từ hành vi vi phạm của bên vi phạm hợp đồng.
Bộ nguyên tắc Unidroit đòi hỏi ở Điều 7.4.3 rằng “Những thiệt hại chỉ được bồi
thường khi chúng được thiết lập với một mức độ hợp lý về tính xác thực”. Bộ nguyên
tắc còn quy định thêm trường hợp “khi không thể thiết lập với một mức độ đầy đủ tính
xác thực về khoản tiền bồi thường thì thiệt hại được xác định tùy theo Tòa án”. Về vấn
đề trên, Công ước CISG như đã đề cập không quy định về tính xác thực của thiệt hại
và cũng không xác định mức độ mà bên bị thiệt hại cần chứng minh về tổn thất được
đền bù.
Theo quy định của pháp luật, bên bị thiệt hại không chỉ có nghĩa vụ chứng minh
tổn thất, mức độ của tổn thất và khoản lợi trực tiếp đáng nhẽ được hưởng nếu không có
hành vi vi phạm mà còn có nghĩa vụ hạn chế tổn thất. Điều 305 Luật thương mại 2005
quy định về nghĩa vụ hạn chế tổn thất như sau: “Bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải
áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất, kể cả tổn thất đối với khoản lợi trực

tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên yêu cầu bồi
thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu
cầu giảm bớt giá trị bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng nhẽ có thể hạn chế
được”. Quy định trên là phù hợp với Điều 77 Công ước viên 1980 “Bên nào viện dẫn
sự vi phạm hợp đồng của bên kia thì phải áp dụng những biện pháp hợp lý căn cứ vào
các tình huống cụ thể để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi bị bỏ lỡ do sự vi phạm hợp
đồng gây ra. Nếu họ không làm điều đó, bên vi phạm hợp đồng có thể yêu cầu giảm
bớt một khoản tiền bồi thường thiệt hại bằng với mức tổn thất đáng lẽ đã có thể hạn
chế được.” hay quy định tại Khoản 1 Điều 7.4.8 Bộ nguyên tắc Unidroit “Bên có
21

21


nghĩa vụ không chịu trách nhiệm đối với thiệt hại mà bên có quyền lẽ ra có thể hạn
chế được bằng những biện pháp hợp lý.”
Quy định này buộc bên bị thiệt hại phải có những biện pháp cần thiết để hạn chế
tối đa các thiệt hại có thể xảy ra, không những góp phần giảm thiểu tổn thất cho chính
mình mà còn hạn chế được thiệt hại cho bên đối tác, tránh tư tưởng bàng quan, ỷ lại
vào quy định của bồi thường thiệt hại. Cụ thể, khi có hành vi vi phạm hợp đồng của
một bên, tất yếu có thể dẫn đến những thiệt hại cho bên còn lại. Ví dụ như hành vi giao
hàng không đủ số lượng hay chất lượng của bên bán làm thiệt hại đến hợp đồng, danh
dự, uy tín của bên mua với bên thứ ba hoặc khách hàng; hay hành vi nhận hàng không
đúng thời điểm của bên mua làm chất lượng hàng bị suy giảm; và rất nhiều trường hợp
khác. Trong những trường hợp này, nếu bên bị thiệt hại không dùng các biện pháp có
thể hạn chế, ví dụ như hàng không được giao tồn kho không được bảo quản, thiệt hại
từ 30% tăng đến 50%; hay không được linh động chuyển hóa làm giảm sút giá trị… thì
phần thiệt hại gia tăng đó sẽ không được bồi thường. Đây có thể coi là hành vi cố tình
để mặc cho hậu quả xảy ra dù cho hậu quả đó là có thể lường trước được do thái độ ỷ
lại, thờ ơ vì mặc định tất cả hậu quả sẽ do bên vi phạm hợp đồng chịu. Tuy nhiên khi

xét vấn đề ngược lại, trường hợp bên vi phạm dùng điều luật này làm cái cớ để giảm
bớt thiệt hại cho mình thì bên bị vi phạm sẽ ở thế bất lợi. Như vậy, điều khoản về
nghĩa vụ hạn chế tổn thất vô hình chung là một lợi thế cho bên vi phạm.
1.2.2.4. Trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm hợp đồng được quy
định tại Điều 294 Luật thương mại 2005 như sau:
“1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a, Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thỏa thuận;
b, Xảy ra các sự kiện bất khả kháng;
c, Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;
d, Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách
nhiệm”
Thứ nhất là trường hợp miễn trách nhiệm theo thỏa thuận của các bên
Luật thương mại 2005 đề cao tính tự do trong hợp đồng. Do vậy, các bên được
quyền tự thỏa thuận các trường hợp miễn trách nhiệm khi giao kết hợp đồng thương
mại. Thỏa thuận giữa các bên về trường hợp miễn trách nhiệm phải tồn tại trước khi
xảy ra vi phạm và có hiệu lực đến thời điểm bên bị vi phạm áp dụng chế tài. Khi hợp
đồng được giao kết bằng văn bản, thì thỏa thuận miễn trách nhiệm được ghi nhận
trong nội dung hợp đồng hoặc trong phụ lục hợp đồng. Nhưng kể cả khi hợp đồng đã
kí kết các bên vẫn có thể thỏa thuận bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc sửa đổi, bổ
22

22


sung vào hợp đồng các trường hợp miễn trách nhiệm. Khi hợp đồng được giao kết
bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể thì thỏa thuận miễn trách nhiệm cũng có thể được thể
hiện bằng lời nói hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, việc chứng minh sự tồn tại một thỏa

thuận không bằng văn bản sẽ gặp những khó khăn nhất định. Thực tiễn trong giao kết
hợp đồng thương mại cho thấy ít khi các bên chấp nhận việc thỏa thuận trực tiếp và rõ
ràng về các trường hợp miễn trách nhiệm, vì có thể bên vi phạm sẽ vin vào điều này để
không tuân thủ hợp đồng. Do đó, các bên có thể thỏa thuận gián tiếp trách nhiệm ở
một chừng mực nhất định.
Thứ hai là miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng.
Theo quy định của pháp luật thương mại, bên vi phạm hợp đồng được miễn trách
nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng. Điều này có nghĩa là dù hợp
đồng có quy định hay không thì khi xảy ra sự kiện bất khả kháng dẫn đến việc vi phạm
hợp đồng, bên vi phạm vẫn được miễn trách nhiệm. Theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật
dân sự 2015 “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể
lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần
thiết và khả năng cho phép”. Theo đó, để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện
cần thỏa mãn ba nội dung bao gồm: một là sự kiện khách quan xảy ra sau khi kí hợp
đồng, tức là sự kiện nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các
hiện tượng tự nhiên: bão, lụt, sóng thần, các sự kiện chính trị, xã hội như đình công,
bạo loạn, chiến tranh… ngoài ra còn có các trường hợp như hỏa hoạn phát sinh từ khu
vực bên ngoài lan sang và thiêu rụi nhà máy… Hai là sự kiện xảy ra không thể dự
đoán trước được. Năng lực đánh giá xem xét một sự kiện có xảy ra hay không được
xét từ vị trí của một thương nhân bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên
sâu. Ba là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không thể khắc phục được dù đã áp dụng
mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau
khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng vẫn không khắc phục được
hậu quả thì mới đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực
hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có
hành động vẫn không thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện
này. Để được áp dụng miễn trừ do sự kiện bất khả kháng thì bên có hành vi vi phạm
phải chứng minh được sự cố dẫn đến vi phạm hợp đồng thỏa mãn ba điều kiện vừa
nêu. Khi xảy ra trường hợp bất khả kháng, các bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn
thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, trừ các hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ

có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ. Nếu các bên không có thỏa
thuận hoặc không thỏa thuận được thì thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng đươc tính
thêm một thời gian bằng thời gian xảy ra trường hợp bất khả kháng cộng với thời gian
23

23


hợp lý để khắc phục hậu quả, nhưng không được kéo dài quá các thời hạn sau đây : 05
tháng đối với hàng hóa, dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa
thuận không quá 12 tháng, kể từ khi giao kết hợp đồng; 08 tháng đối với hàng hóa,
dịch vụ mà thời hạn giao hàng, cung ứng dịch vụ được thỏa thuận trên 12 tháng, kể từ
khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài quá thời gian nêu
trên thì các bên có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không có bên nào có quyền
yêu cầu bên kia bồi thường thiệt hại. Bên từ chối thực hiện hợp đồng phải thông báo
cho bên kia trước khi bên kia bắt đầu thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn
10 ngày.
Thứ ba: Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia
Căn cứ miễn trách nhiệm trong trường hợp này phải do lỗi của bên vi phạm. Lỗi
này có thể là hành động hoặc không hành động của bên bị vi phạm. Ngoài ra, cũng có
thể là một hành vi vi phạm hợp đồng của bên bị vi phạm, tức là cả hai bên đều có hành
vi vi phạm hợp đồng.
Tuy nhiên, Điều 294 Luật thương mại 2005 về miễn trách nhiệm đối với bên vi
phạm hợp đồng khi “Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia” mà
chưa tính đến khả năng hành vi vi phạm của một bên có nguyên nhân xuất phát từ bên
thứ ba, mà bên này rơi vào các trường hợp mà pháp luật quy định được miễn trách
nhiệm. Dù các bên có thể thoả thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm trong hợp
đồng của họ. Nhưng trong trường hợp không được thoả thuận, đương nhiên bên vi
phạm sẽ không được miễn trách nhiệm nếu do lỗi của bên thứ ba, mặc dù bên này rơi
vào các trường hợp miễn trách nhiệm. Về vấn đề này, Luật thương mại 2005 cứng

nhắc hơn so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, một văn bản pháp luật điều
chỉnh hợp đồng kinh tế trong không gian và thời gian của cơ chế kinh tế kế hoạch hoá
tập trung. Tại Điều 40 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 quy định: “Bên vi phạm
hợp đồng kinh tế được xét giảm hoặc miễn hoàn toàn trách nhiệm tài sản trong các
trường hợp sau đây: 1) Gặp thiên tai, địch hoạ và các trở lực khách quan khác không
thể lường trước được và đã thi hành mọi biện pháp cần thiết để khắc phục ; 2) Phải
thi hành lệnh khẩn cấp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật; 3) Do bên thứ ba vi phạm hợp đồng kinh tế với bên vi phạm nhưng bên thứ ba
không phải chịu trách nhiệm tài sản trong các trường hợp quy định tại điểm 1 và điểm
2 của điều này...” Tất cả các luật quy định về hợp đồng sau này như Bộ luật dân sự
2005, Luật thương mại 1997, Bộ luật dân sự 2015, Luật thương mại 2005 đã không kế
thừa sự tiến bộ này mà lại loại bỏ nó ra khỏi các trường hợp miễn trách nhiệm được
quy định trong luật.
24

24


Thêm vào đó, pháp luật thương mại hiện hành nói chung và Điều 294 Luật
thương mại 2005 nói riêng cũng chưa dự liệu trường hợp miễn trách nhiệm do một bên
uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện một phần hoặc toàn bộ hợp đồng mà bên thứ ba này
vi phạm nghĩa vụ trong một số trường hợp cụ thể.
Thứ tư: Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được và thời điềm giao kết hợp đồng.
Miễn trách nhiệm chỉ được áp dụng khi hành vi vi phạm do thực hiện quyết định
của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời
điểm giao kết hợp đồng. Nếu như các bên đã biết về việc thực hiện quyết định của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể dẫn đến vi phạm hợp đồng mà vẫn đồng
ý giao kết hợp đồng thì không được áp dụng miễn trách nhiệm. Quyết định của cơ
quan nhà nước phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên vi phạm tức là phải thực hiện hoặc

không thực hiện một hành vi nhất định nào đó dẫn tới hành vi vi phạm hợp đồng.
Như vậy, các quy định về chế định miễn trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa đã tạo đươc một môi trường pháp lý công bằng đối với những thiệt hại
thực tế không do lỗi trực tiếp của người không vi phạm gây ra.
1.2.2.5. Mối quan hệ giữa chế tài bồi thường thiệt hại với các chế tài phạt vi phạm.
Cũng như các chế tài khác theo quy định tại điều 292 Luật Thương mại 2005 nói
chung bao gồm: buộc thực hiện đúng hợp đồng, phạt vi phạm, tạm ngừng thưc hiện
hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng và các biện pháp khác do các
bên thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật, chế tài bồi thường thiệt hại nói
riêng cũng là chế định cơ bản và quan trọng của pháp luật thương mại, có ảnh hưởng
trực tiếp đến việc đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng
mà thông qua đó, các thương nhân có thể điều tiết hành vi của các bên trong quá tình
thực hiện hợp đồng. Mỗi chế tài có một chức năng khác nhau, độc lập với nhau. Các
chế tài này ngày càng được các bên sử dụng nhiều hơn như một biện pháp hữu hiệu để
bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là chế tài bồi thường
thiệt hại và phạt vi phạm hợp đồng. Về mặt pháp lý, hai chế tài này có tính độc lập và
khác nhau. Tuy nhiên, trong thực tế xây dựng, soạn thảo và đàm phán hợp đồng, doanh
nghiệp thường có sự nhầm lẫn và không có sự phân biệt rạch ròi giữa hai chế tài này
nên dễ gặp bất lợi khi có tranh chấp xảy ra.
Theo Luật thương mại 2005, Điều 300 quy định: bản chất pháp lý của phạt vi
phạm là chế tài được các bên thỏa thuận có tính chất dự phòng nhằm nâng cao trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng của các bên. Vì có bản chất và mục đích
chính như vậy nên phạt vi phạm chỉ áp dụng khi có thỏa thuận và được áp dụng
thường không phụ thuộc vào hậu quả của vi phạm hợp đồng.

25

25



×