Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Tiểu luận cao học QLBC đối ngoại TTQT quản lý báo chí đối ngoại truyền thông quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.43 KB, 33 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, cơng tác truyền thơng, thơng
tin đối ngoại của các quốc gia trở thành vấn đề quan trọng, nhằm cung cấp
một cái nhìn tồn diện, có định hướng cho cộng đồng thế giới về đất nước
mình – vì mục tiêu phát triển và hội nhập. Báo chí đối ngoại và truyền thơng
quốc tế của các quốc gia qua nhiều hình thức khác nhau cũng nhằm quảng
bá những giá trị tốt đẹp, những lợi thế vốn có, đồng thời phổ biến nâng cao
vị thế vai trò của quốc gia trên trường quốc tế.
Do đặc thù của mỗi quốc gia nên cách thức thực hiện cơng tác Báo
chí đối ngoại và truyền thông quốc tế cũng vô cùng đa dạng, phong phú và
hiệu quả đạt được phụ thuộc phần lớn vào phương pháp thực hiện truyền
thông quốc tế của từng quốc gia nhất định. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện
nay, văn hóa đóng vai trị đặc biệt quan trọng bởi văn hóa là cầu nối giữa
quốc gia với cộng đồng thế giới, là cách hiệu quả nhất để tăng thêm sự hiểu
biết của người nước ngoài với quốc gia đó. Nhận thức được vấn đề này, các
quốc gia trên thế giới đã tích cực thực hiện cơng tác truyền thơng quốc tế
qua việc quảng bá văn hóa. Trong rất nhiều các quốc gia trên thế giới, Hàn
Quốc là một quốc gia được coi là tiêu biểu trong hoạt động “xuất khẩu văn
hóa”. Văn hóa Hàn từ những năm đầu của thế kỷ XXI đã được biết đến một
cách rộng rãi, được thế giới “ưu ái” gọi tên “ Làn sóng Hàn Quốc” để chỉ
mức độ ảnh hưởng lớn lao, tốc độ lan tỏa nhanh chóng của văn hóa Đại Hàn
trên tồn thế giới. Hàn Quốc là một trong những quốc gia lấy văn hóa làm
một trong những trụ cột tiêu biểu để tăng hiệu quả trong công tác truyền
thông quốc tế. Những kết quả mà quốc gia châu Á này đạt được khiến rất
nhiều nước trên thế giới lấy đó làm bài học để quảng bá văn hóa đất nước
mình ra tồn thế giới.
1


Một trong những cách thức quảng bá văn hóa của Hàn Quốc là giới


thiệu nền ẩm thực ra thế giới. Mục tiêu của hoạt động này là nhằm quảng bá
nền ẩm thực phong phúc của đất nước, phổ biến một trong những nét đẹp
văn hóa trong đời sống tới nhân dân nước bạn. Việt Nam là một trong những
quốc gia châu Á được Hàn Quốc chọn để du nhập “làn sóng ẩm thực”.
Những hoạt động báo chí đối ngoại và truyền thơng quốc tế qua “làn sóng
ẩm thực” của đất nước Hàn Quốc tại Việt Nam vô cùng phong phú, đa dạng,
đạt được hiệu quả to lớn trong công tác quảng bá hình ảnh nước Hàn tới
nhân dân Việt Nam. Hàn Quốc đã làm nổi bật lên ưu thế của Văn hóa nói
chung và văn hóa ẩm thực nói riêng trong công tác truyền thông quốc tế.
Nhận thức được những vấn đề trên và nhận thấy đây là nội dung
rất hay có thể rút ra được sau khi học mơn “Quản lý báo chí đối ngoại &
truyền thơng quốc tế”, nhận thấy có thể xâu chuỗi lý thuyết với thực tế, nên
tôi chọn đề tài tiểu luận là “”. Đề tài được xây dựng nhằm khảo sát, tổng
hợp, phân tích hiệu quả những hoạt động tiêu biểu của Hàn Quốc trong việc
quảng bá nền ẩm thực tại Việt Nam trong 3 năm 2013-2016, từ đó đưa ra vài
gợi mở cho cơng tác truyền thơng quốc tế và báo chí đối ngoại cho Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Từ những năm đầu thế kỷ XXI, thuật ngữ “Làn sóng Hàn Quốc” đã
được phổ biến và thực trạng quảng bá văn hóa Hàn Quốc cũng như những
hiệu quả mà công tác này đạt được đã được các cơ quan truyền thơng trên
thế giới đưa tin, phân tích rộng rãi. Văn hóa ẩm thực Hàn Quốc tại Việt Nam
cũng là chủ đề được nghiên cứu, đánh giá tổng hợp qua những tiểu luận,
khóa luận tốt nghiệp như:
+ Tiểu luận “Hàn Quốc – Bài học lớn về xuất khẩu văn hóa” (2007)
của sinh viên Lê Thị Minh Nguyệt
2



+ Khóa luận “Một số hoạt động quảng bá hình ảnh quốc gia của Hàn
Quốc thơng qua kênh văn hóa tại Việt Nam giai đoạn hiện nay” (2009)
của sinh viên Nguyễn Thị Hải Thanh.
Tuy nhiên mức độ và khía cạnh phân tích qua mỗi nghiên cứu có sự
khác biệt và ít trùng lặp. Xét thấy tính cấp thiết của đề tài này và khả năng
thực hiện của bản thân muốn thông qua công tác truyền thông quốc tế của
Hàn Quốc đã làm được tại Việt Nam để từ đó đưa ra những kinh nghiệm của
riêng mình, cho đất nước mình, nên tơi chọn đề tài “
3.Mục đích và nhiệm vụ nghên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt động
Thông tin quốc tế thơng qua “làn sóng ẩm thực” Hàn Quốc tại Việt Nam,
tiểu luận đưa ra một số nhận xét và gợi mở cho cơng tác báo chí đối ngoại và
truyền thông quốc tế thông qua ẩm thực tại Việt Nam để đẩy mạnh hơn nữa
hoạt động quan trọng này trong việc quảng bá hình ảnh quốc gia ra thế giới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hồn thành mục đích đã đặt ra, tác giả cần thực hiện những nhiệm vụ
cụ thể sau:
-

Tìm hiểu thơng tin cơ bản về Hàn Quốc, nêu và phân tích rõ nhận

thức của Hàn Quốc về vấn đề thực hiện cơng tác báo chí đối ngoại, truyền
thông quốc tế qua hoạt động quảng bá ẩm thực.
Tìm hiểu những hoạt động, cách thức quảng bá ẩm thực của Hàn
Quốc tại Việt Nam.
Phân tích hiệu quả hoạt động và kết quả đạt được.
Nhận xét và đưa ra gợi mở cho cơng tác báo chí quốc tế và truyền
thông đối ngoại qua ẩm thực của Việt Nam.
4.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
3


Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là các hoạt động quảng bá
ẩm thực Hàn Quốc thơng qua các hình thức khác nhau.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là từ năm 2013 đến nay và
nghiên cứu các hoạt động nằm trong khuôn khổ thành phố Hà Nội.
5.
5.1.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của tiểu luận là dựa vào những kiến thức đã học

trong mô n học “Quản lý báo chí đối ngoại và truyền thơng quốc tế”, vận
dụng những kiến thức đặc thù của môn học đã được đào tạo.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu
Dựa vào những hoạt động nổi bật Hàn Quốc trong công tác

quảng bá ẩm thực tại Hà Nội, những hiệu quả thực tiễn đạt được của Hàn
Quốc trong ý kiến đánh giá nhận xét chung của người dân Việt Nam, đặc
biệt là giới trẻ.
Tiểu luận được xây dựng chủ yếu thông qua vào phương pháp nghiên
cứu, đánh giá, tổng hợp dựa vào các tài liệu đã thu thập được từ các nguồn
chính thống khác nhau, sử dụng phương pháp quan sát, đánh giá thực tế,

phỏng vấn sinh viên và xin ý kiến của các thầy cô giáo.
6. Điểm mới của đề tài
Chỉ ra được những cách làm trong truyền thơng đối ngoại, báo chí đối
ngoại trong việc quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam một cách hiệu quả
nhất thông qua con đường ẩm thực, một tiềm năng vô cùng độc đáo.
7. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn
7.1. Ý nghĩa lý luận

4


Đề tài tiểu luận cung cấp và bổ sung hệ thống lý luận về báo chí đối
ngoại và truyền thơng quốc tế. Nêu ra được những bài học từ Hàn Quốc từ
đó tìm ra những lý thuyết kinh nghiệm cho Việt Nam.
7.2.

Giá trị thực tiễn

Đề tài tiểu luận góp phần làm rõ nội dung nhận thức về việc truyền
thông đối ngoại với việc quảng bá văn hóa dân tộc.
8. Kết cấu đề tài
Tiểu luận gồm có 3 phần chính:
*Phần mở đầu: Nêu rõ tính cần thiết, mục đích, ý nghĩa của đề tài.
*Phần nội dung: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ
lục, tiểu luận cịn có phần nội dung bao gồm 3 chương và tiết như sau:
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HÀN QUỐC VÀ CHÍNH SÁCH VĂN
HÓA CỦA HÀN QUỐC
1.1. Nước Đại Hàn Dân Quốc
1.1.1.
Đặc điểm địa lý, tự nhiên

1.1.2.
Thể chế chính trị
1.1.3.
Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam.
1.1.4.
Chính sách văn hóa của Hàn Quốc.
CHƯƠNG II: LÀN SÓNG ẨM THỰC HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM
2.1. Ẩm thực Hàn Quốc và biểu hiện của “làn sóng ẩm thực Hàn
Quốc” tại Việt Nam
2.2. Các phương tiện quảng bá ẩm thực Hàn Quốc tại Việt Nam
2.1.1. Quảng bá ẩm thực Hàn Quốc qua phim ảnh
2.2.2. Quảng bá ẩm thực Hàn Quốc qua các nhóm nhạc, ca sĩ
2.2.3. Quảng bá ẩm thực Hàn Quốc qua các triển lãm, hội chợ ẩm
thực, nhà hàng ăn uống tại Việt Nam
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM VỀ THỰC HIỆN
CÔNG TÁC QUẢNG BÁ ĐẤT NƯỚC QUA ẨM THỰC
5


3.1. Quảng bá ẩm thực Việt Nam qua truyền hình và điện ảnh
3.2. Quảng bá ẩm thực Việt Nam qua việc khẳng định thương hiệu ẩm
thực
3.3. Quảng bá ẩm thực Việt Nam gắn liền với du lịch
3.4. Các hình thức khác
*Phần kết luận: Điểm lại những vấn đề đặt ra và giải quyết được đến đâu
trong tiểu luận. Có đề xuất, phát triển những hưỡng tiếp theo cần nghiên
cứu.

6



PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ HÀN QUỐC VÀ CHÍNH SÁCH
VĂN HĨA CỦA HÀN QUỐC
1. Nước Đại Hàn Dân Quốc
1.1. Đặc điểm địa lý, tự nhiên.
Theo Wikipedia, Hàn Quốc, còn gọi là Nam Hàn, Nam Triều Tiên
hay Đại Hàn Dân Quốc, là quốc gia nằm ở nửa phía Nam của bán đảo Triều
Tiên, phía bắc giáp với CHDCND Triều Tiên qua giới tuyến quân sự chạy
dọc theo vĩ tuyến 38° Bắc. Phía đơng Hàn Quốc giáp với biển Nhật Bản,
phía Tây là Hồng Hải. Thủ đơ của Hàn Quốc là Seoul, (서서) hay còn gọi là
Hán Thành.
Bán đảo Hàn Quốc kéo dài từ Bắc đến Nam, nhưng nếu tính cả các
đảo phụ thuộc thì chiều rộng Đơng Tây sẽ lớn hơn chiều dài Bắc Nam.
Chiều dài từ Bắc đến Nam của bán đảo là khoảng 840 km và còn chiều rộng
từ Đông sang Tây vào khoảng 1200 km. Hàn Quốc có 75% diện tích lãnh
thổ là đồi núi. Địa hình bán đảo có dạng Đơng cao Tây thấp, Bắc cao Nam
thấp. Như vậy, ở phía Đơng và Bắc tập trung nhiều núi, cịn phía Tây và
Nam chủ yếu là đồng bằng, thuận lợi cho việc phát triển đa dạng các loại
hình kinh tế nơng nghiệp.
Khí hậu Hàn Quốc là sự kết hợp giữa khí hậu đại lục và khí hậu biển.
Hàn Quốc có 4 mùa rõ rệt với đặc điểm mùa hè nóng và ẩm, mùa đơng lạnh
và khơ. Ba mặt của Hàn Quốc tiếp giáp với biển. Hàn Quốc ít xẩy ra động
đất và có bão, mưa dơng, bão tuyết, tuy nhiên nhiệt độ rất cao vào mùa
đông. Điều kiện khí hậu đặc biệt thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và
trồng trọt nên lượng thực phẩm của Hàn Quốc rất phong phú.
Lịch sử Hàn Quốc bắt đầu từ thần thoại Dangun, sau đó được chia
thành các giai đoạn : thời đại Tam Quốc - Shilla Thống Nhất - Koryo 7



Chosun - thời kỳ bị Nhật chiếm đóng - thời kỳ chia cách Nam-Bắc và thời
đại Đại Hàn Dân Quốc. Hiện nay, lãnh thổ bị giới hạn trong phạm vi “Bán
đảo Hàn Quốc và các đảo phụ thuộc” nhưng lịch sử Hàn Quốc bao quát 1
khu vực rộng lớn bao gồm cả bán đảo Hàn Quốc và một số tỉnh Đông Bắc
Trung Quốc hiện nay.
Trước năm 1945, Hàn Quốc hay Triều Tiên chỉ là tên gọi khác nhau
của bán đảo Triều Tiên. Đất nước này có khoảng 5.000 năm lịch sử. Tổ tiên
của người Triều Tiên là những người thuộc các bộ lạc Mông Cổ di cư từ
vùng Trung Á đến bán đảo.
Cuối thế kỷ 19, bán đảo Triều Tiên bị các nước lớn Trung Quốc, Nga,
Nhật Bản tranh giành nhau. Năm 1910, Nhật Bản thơn tính Bán đảo. Năm
1945, Bán đảo được giải phóng, nhưng đất nước bị chia cắt, hình thành hai
nhà nước theo hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau: Phía Nam gọi là Đại
Hàn Dân Quốc gọi tắt là Hàn Quốc, tên tiếng Anh là Republic of
Korea (ngày 15 tháng 8 năm 1948, Tổng thống là Lý Thừa Vãn) và
CHDCND Triều Tiên ở phía Bắc (ngày 09 tháng 9 năm 1948, Chủ tịch nước
là Kim Nhật Thành), tên tiếng Anh là Democratic People’s Republic of
Korea lấy vĩ tuyến 380 Bắc làm ranh giới. Cuộc chiến tranh Triều Tiên
1950-1953 đã không làm thay đổi được cục diện trên bán đảo, vĩ tuyến 38
trở thành đường ranh giới quân sự cho đến ngày nay.
Hàn Quốc là một nước phát triển có mức sống cao, có nền kinh tế
phát triển theo phân loại của Ngân hàng Thế giới và IMF Hàn Quốc là nền
kinh tế lớn thứ 4 ở châu Á và thứ 15 trên thế giới. Nền kinh tế dựa vào xuất
khẩu, tập trung vào hàng điện tử, ơ tơ, tàu biển, máy móc, hóa dầu và rô-bốt.
Hàn Quốc là thành viên của Liên hiệp quốc, WTO, OECD và nhóm các nền
kinh tế lớn G-20. Hàn Quốc cũng là thành viên sáng lập của APEC và Hội
nghị cấp cao Đông Á và là đồng minh không thuộc NATO của Hoa Kỳ. Gần
8



đây, Hàn Quốc đã tạo ra và tăng cường sự phổ biến văn hóa đặc biệt là ở
châu Á, cịn được gọi là “Làn sóng Hàn Quốc” và nằm trong đó là “Làn
sóng ẩm thực Hàn Quốc”.
1.2. Thể chế chính trị
Hiến pháp Hàn Quốc ban hành lần đầu tiên ngày 17/7/1948 quy định
nền chính trị Hàn Quốc theo chế độ Cộng hồ, tam quyền phân lập. Chính
phủ thực hiện ba chức năng Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Quốc hội và
Tổng thống do dân bầu trực tiếp, Thủ tướng và Chánh án Toà án tối cao do
Tổng thống chỉ định và Quốc hội thông qua
Đảng cầm quyền đại dân tộc (chiếm hơn 50% số ghế trong Quốc hội)
cịn có các đảng khác như: Dân chủ, Tân tiến và Sáng tạo, Dân chủ Lao
động, Liên minh than Pac Kưn Hê, Hàn Quốc sáng tạo và Tiến bộ tân đảng.
1.3. Quan hệ Hàn Quốc – Việt Nam
Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
ngày 22/12/1992. Trong gần hai thập niên qua, quan hệ hai nước đã không
ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, giáo dục...
Kể từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1992, quan hệ giữa
Việt Nam và Hàn Quốc ngày càng phát triển tốt đẹp trên nhiều lĩnh vực. Hàn
Quốc trở thành một trong những đối tác chiến lược quan trọng của Việt
Nam, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế: Hàn Quốc có thể nhập khẩu từ Việt Nam
nhiều mặt hàng như khống sản, nơng lâm thủy sản, rau quả nhiệt đới, hàng
thủ công mỹ nghệ...là những mặt hàng mà Hàn Quốc cịn thiếu hoặc khơng
tự sản xuất được. Việt Nam luôn coi Hàn Quốc là đối tác thương mại hàng
đầu ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Hiện nay Việt Nam đang cùng
với 10 nước ASEAN đàm phán với Hàn Quốc về Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) và sơ bộ đã ký được một số văn kiện như
9



Hiệp định khung, Hiệp định thương mại hàng hóa. Việc Hàn Quốc và các
nước ASEAN trong đó có Việt Nam tạo lập khu vực mậu dịch tự do sẽ tạo
điều kiện thúc đẩy hơn nữa trao đổi kinh tế-thương mại và mở rộng thị
trường xuất khẩu và tăng cường thu hút đầu tư giữa hai nước.
Ngoài ra, tiềm năng hợp tác song phương trên các mặt như hàng
không, du lịch, dịch vụ, trao đổi và hợp tác lao động là rất lớn.
Tháng 10/2009, Việt Nam và Hàn Quốc đã chính thức nâng cấp
quan hệ từ “ đối tác hợp tác toàn diện” lên “đối tác hợp tác chiến lược”, mở
ra một chương mới trong lịch sử phát triển quan hệ giữa hai nước, tạo cơ sở
pháp lý vững chắc và điều kiện thuận lợi cho việc đưa quan hệ hợp tác hữu
nghị giữa hai nước trong năm 2010 và những năm tới lên một tầm cao mới.
1.4. Chính sách văn hóa của Hàn Quốc
Bên cạnh những lĩnh vực trọng yếu như chính trị, kinh tế, Hàn Quốc
coi trọng phát triển văn hóa và đưa văn hóa trở thành một trong những trụ
cột chính để thực hiện có hiệu quả cơng tác Thơng tin đối ngoại. Từ một đất
nước ít có tiếng vang, Hàn Quốc đã có những bước phát triển vượt bậc, được
thế giới biết đến rộng rãi, đó là nhờ vào chính sách thực hiện cơng tác thơng
tin đối ngoại qua văn hóa của Hàn Quốc.
Cách đây hơn nửa thế kỷ, Hàn Quốc đã chú trọng xây dựng và quảng
bá hình ảnh đất nước thơng qua văn hóa. Mặc dù ngân sách khơng đủ, nhưng
chính phủ cộng hồ đầu tiên (1948–1960) do Tổng thống Rhee Syngman
lãnh đạo đã nhấn mạnh tầm quan trọng của văn hoá quốc gia trong sự phát
triển của đất nước. Về sau, sự ghi nhận về giá trị của văn hố tiếp tục có ảnh
hưởng lớn tới chính phủ đương thời của Tổng thống Kim Dae Jung và hơn
nữa, đã trở thành một cơ sở quan trọng cho viện trợ của chính phủ dành cho
văn hố. Ý thức coi trọng văn hố cũng gắn bó chặt chẽ với những đặc điểm
10


văn hoá truyền thống Hàn Quốc do ảnh hưởng của đạo Khổng - vốn coi

trong giá trị tinh thần.
Trong thời kỳ 18 năm cầm quyền (1961–1979), chính phủ của Tổng
thống Park Chung Hee, một chính phủ coi trọng sự phát triển kinh tế, đã
thực hiện một chính sách văn hố một cách chủ động hơn bằng việc xây
dựng luật, các thể chế, tổ chức và các quỹ công cộng liên quan tới lĩnh vực
văn hoá. Cụ thể, vào năm 1973, chính phủ Park đã cơng bố kế hoạch 5 năm
về phát triển văn hoá, thực hiện trong thời kỳ từ năm 1974 đến 1979. Đây là
một kế hoạch toàn diện lâu dài đầu tiên về chính sách văn hố. Mặc dù tính
đặc sắc và tính phổ biến trong quần chúng được coi là những mục tiêu cơ
bản của chính sách văn hố, mục đích chính của kế hoạch này lại là xây
dựng một bản sắc văn hoá mới bằng việc đề cao truyền thống văn hố cụ
thể. Vì lý do đó, trong thời kỳ 1974-1978, 70% tổng số ngân sách cho lĩnh
vực văn hoá được chi cho nghệ thuật dân gian và văn hố truyền thống.
Thời kỳ chính phủ của Tổng thống Chun Doo Hwan (từ 1980 đến 1988)
có thể được coi là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất về vai trò của nhà nước
trong việc cung cấp viện trợ cho nghệ thuật ở Hàn Quốc. Cũng như chính
phủ của Tổng thống Park. Việc xây dựng bản sắc văn hố cũng được coi là
trọng tâm chính của nền cộng hồ thứ 5 của chính phủ Chun Doo Whan.
Chính phủ của tổng thống Chun đã công bố 2 kế hoạch tồn diện về chính
sách văn hố: “Kế hoạch mới phát triển văn hoá” (1981) và “Kế hoạch văn
hoá trong kế hoạch 5 năm lần thứ 6 phát triển kinh tế và xã hội” (1986).
Căn cứ vào các kế hoạch đó, các mục tiêu cơ bản của chính sách văn
hố có thể được xác định là: Xây dựng bản sắc văn hoá, củng cố sự phát
triển của nghệ thuật, tăng cường trợ cấp văn hoá, thúc đẩy văn hoá khu vực,
và mở rộng giao lưu văn hoá với các nước khác.
11


Vào năm 1990, chính phủ của tổng thống Roh TaeWoo (1988–1993)
xây dựng “kế hoạch 10 năm phát triển văn hoá”, chú trọng vào: “văn hoá của

mọi người dân”. Các mục tiêu chính của các kế hoạch đó là:
(1) Xây dựng bản sắc văn hoá;
(2) Củng cố sự phát triển của nghệ thuật;
(3) Tăng cường trợ cấp văn hoá;
(4) Thúc đẩy văn hoá khu vực;
(5) Thuận lợi hoá giao lưu văn hoá;
(6) Phát triển tuyên truyền văn hoá, và cuối cùng, thống nhất dân tộc
Việc thúc đẩy văn hoá khu vực, giao lưu quốc tế và chính sách văn hố
vì sự
thống nhất cũng được nhấn mạnh như các chính phủ trước đó. Chính
phủ của Thủ tướng KimYoung Sam (1993–1998) chủ trương “Tạo ra một
Hàn Quốc
mới” và coi đó là biểu ngữ cho chiến dịch tranh cử chính trị và tìm cách
nâng
cao vị thế của Hàn Quốc trên trường quốc tế. Vì lý do đó, so với các
chính phủ trước, chính phủ của Tổng thống KimYoung Sam coi dân chủ văn
hoá, sự sáng tạo của con người, văn hố khu vực, cơng nghiệp văn hố và du
lịch văn hố, cũng như tồn cầu hoá văn hoá của Hàn Quốc là những mục
tiêu chính của chính sách văn hố. Việc xây dựng bản sắc văn hoá cũng được
coi là một mục tiêu quan trọng của chính sách văn hố. Thêm nữa, chính phủ
của tổng thống Kim nhấn mạnh ý nghĩa kinh tế của văn hoá và nghệ
thuật.“Kế hoạch mới 5 năm thúc đẩy phát triển văn hoá” (1993), “Kế
hoạch hỗ trợ văn hoá” (1996), và “Tầm nhìn văn hố 2000” (1997) đều
coi trọng các mục tiêu chính sách đó.
12


Những mục tiêu đó của chính sách văn hố vẫn tiếp tục được coi
trọng trong thời kỳ chính phủ của Tổng thống Kim Dae Jung (1998- đến
nay). Cụ thể, căn cứ theo 4 kế hoạch tồn diện về chính sách văn hố như

chính sách văn hố cho chính phủ mới (1998), kế hoạch 5 năm về chính sách
văn hố của chính phủ mới (1999), tầm nhìn thế kỷ 21 cho các ngành cơng
nghiệp văn hố (2000), và tầm nhìn thế kỷ 21 cho các ngành cơng nghiệp
văn hố trong xã hội kỹ thuật số (2001), so với các chính phủ tiền nhiệm
khác, chính phủ của Tổng thống Kim Dae Jung đã nhấn mạnh việc tăng
cường phát triển các ngành công nghiệp văn hoá và giao lưu văn hoá với
Bắc Triều Tiên. Chính sách “ánh dương” hướng về Bắc Triều Tiên của chính
phủ đã tập trung xây dựng những chính sách văn hố chủ động vì sự thống
nhất của 2 miền Triều Tiên. Hơn nữa, những giá trị của giao lưu văn hoá và
nghệ thuật đã trở thành một cơ sở mới của chính sách văn hố. Khác với các
chính phủ trước, khái niệm bản sắc văn hoá đã trở thành nền tảng quan trọng
cho viện trợ của chính phủ để tăng cường phát triển các ngành cơng nghiệp
văn hố.
Nằm trong chính sách văn hóa, văn hóa ẩm thực Hàn Quốc đã được
lên kế hoạch quảng bá, đầu tư trên mọi phương diện để đưa hình ảnh ẩm
thực ra thế giới. Ẩm thực của Hàn Quốc đã phát triển lên thành một làn sóng
trên nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

13


CHƯƠNG II: LÀN SÓNG ẨM THỰC HÀN QUỐC TẠI VIỆT
NAM
2.1. Ẩm thực Hàn Quốc và biểu hiện của “làn sóng ẩm thực Hàn
Quốc” tại Việt Nam.
Hàn Quốc đang nổi lên như một quốc gia về nghệ thuật ẩm thực. Bắt
đầu từ Edward Kwon, các ngôi sao đầu bếp trẻ xuất hiện ngày một nhiều,
góp phần đưa ẩm thực Hàn đến gần hơn với thế giới. Những ngôi sao đầu
bếp trẻ này đang thổi một làn gió mới vào nghệ thuật ẩm thực thế giới và
quảng bá rộng rãi cho hương vị Hàn Quốc. Hơn nữa, ẩm thực Hàn vốn nổi

tiếng là có lợi cho sức khoẻ đang mở ra một Làn sóng Hàn Quốc mới – Làn
sóng ẩm thực.
Ẩm thực Hàn Quốc, tiếng Hàn là Hansik, hiện đang thu hút nhiều sự
quan tâm trên toàn thế giới, làm lan tỏa làn sóng Hàn Quốc. Xu hướng văn
hóa ẩm thực hiện nay là chuyển từ đồ ăn nhanh sang đồ ăn chậm với sự chú
trọng đến sức khỏe. Nhiều món ăn truyền thống Hàn Quốc được ủ lên men
và đó là lý do tại sao ẩm thực Hàn Quốc đang ở tâm điểm của sự chú ý. Trên
thực tế, công dụng của chúng đã được khoa học chứng minh.
Chính phủ Hàn Quốc rất quan tâm tới vấn đề phát triển văn hóa ẩm
thực, đưa ẩm thực trở thành một làn sóng tới tồn thế giới. Chính phủ Hàn
Quốc đã thành lập “Nhóm xúc tiến ẩm thực Hàn Quốc” vào tháng 5 năm
2009 để quảng bá các món ăn một cách hệ thống. Đệ nhất phu nhân Kim
Yoon Ok là người đi đầu trong chiến dịch tồn cầu hóa này trên cương vị là
Chủ tịch danh dự của nhóm. Quỹ ẩm thực Hàn Quốc bao gồm các chuyên
gia của Chính phủ và khu vực tư nhân cũng đã thực hiện nhiều chương trình
và hoạt động nhằm thúc đẩy việc tồn cầu hóa các món ăn trong nước. Q
trình tồn cầu hóa này khơng chỉ giúp phổ biến hơn nữa làn sóng Hàn Quốc
mà còn tăng giá trị thương hiệu quốc gia. Do vậy, sự hỗ trợ của Chính phủ là
14


rất quan trọng. Chính phủ Hàn Quốc đã đề ra các biện pháp nới lỏng quy
định để tăng cường ngành cơng nghiệp thực phẩm trong nước. Các gói biện
pháp nhằm mục đích dỡ bỏ những rào cản về quy định và bổ sung thêm
những khiếm khuyết về mặt thể chế nhằm tồn cầu hóa ẩm thực Hàn Quốc
và tăng sức cạnh tranh của công nghiệp thực phẩm.
Việc Hàn Quốc chọn Việt Nam là một trong những quốc gia để
quảng bá nền văn hóa ẩm thực là do Việt Nam là một đất nước cùng nằm
trong khu vực châu Á, nền văn hóa có nhiều nét tương đồng, có thể dễ dàng
tiếp nhận các món ăn đặc trưng của khu vực Châu Á. Hơn nữa đây là bước

song song trong chiến lược quảng bá làn sóng văn hóa Hàn Quốc vào Việt
Nam, bởi phim ảnh Hàn Quốc được công chiếu đã có sức tác động lớn tới
tinh thần và nhận thức của người Việt. Bên cạnh đó, qua các món ăn, Hàn
Quốc biết cách gửi gắm những ý nghĩa của mình vào đó. Hầu hết các món
ăn Hàn Quốc đều có ý nghĩa riêng, ví dụ như mì đen dành cho những người
chưa tìm được tình yêu của mình, nếu thưởng thức mì đen, sang năm sẽ gặp
được người ưng ý…Cứ như vậy, ẩm thực Hàn Quốc không chỉ tác động vào
khẩu vị mà còn tác động vào tinh thần của người dân Việt Nam nói riêng và
thế giới nói chung thơng qua những tác động về mặt tâm tư, tình cảm như
vậy.
Hansik khơng đơn thuần là món ăn Hàn Quốc, mà cịn là thành quả
của văn hóa truyền thống quốc gia. Tại Việt Nam, ẩm thực Hàn Quốc đã trở
nên quen thuộc. Khơng chỉ có các bạn trẻ mà những người lớn tuổi cũng ưa
thích những món ăn của đất nước này. Những cửa hàng ăn uống Hàn Quốc
xuất hiện ngày một nhiều tại Hà Nội. Điều này chứng tỏ sức nóng của làn
sóng ẩm thực Hàn Quốc tại nước ta, bởi có cung ắt hẳn có cầu. Quy mơ và
số lượng các quán ăn Hàn Quốc cũng như chất lượng của các quán ăn này
ngày càng thu hút được đông đảo người dân Việt Nam đến thưởng thức.
15


Khơng chỉ có các cửa hàng mà tại các siêu thị, những nguyên liệu chế biến
đồ ăn Hàn đi kèm với các công thức hướng dẫn chi tiết cụ thể xuất hiện với
số lượng lớn và dần trở nên phổ thông. Những nguyên liệu này trước kia
cung cấp để phục vụ những người Hàn Quốc sống tại Việt Nam, tuy nhiên
càng ngày, người Việt Nam sử dụng chúng càng nhiều, càng thường xuyên
đã khẳng định được sức hút của các món ăn Hàn trong đời sống ẩm thực của
người Việt. Đặc biệt là các bạn trẻ. Đây cũng là lượng khách hàng chủ yếu
của các cửa hàng Hàn Quốc. Tên của các món ăn Hàn Quốc ngày càng trở
nên phổ biến trong “từ điển ẩm thực” Việt Nam. Nói phổ biến vì chúng được

gọi thân mật và phổ thơng như những món ăn lâu đời của người Việt, ví dụ
như cơm cuộn rong biển (Gimbab), Mì đen, kim chi, canh rong biển, bánh
gạo cay, thịt gà cay, thịt ba chỉ nướng, rượu sô chu, rượu gạo... Trong các
buổi hội họp của các bạn trẻ, món ăn Hàn Quốc cũng đứng đầu trong danh
sách được chọn. Tầm ảnh hưởng của ẩm thực Hàn Quốc không chỉ dừng ở
các bạn trẻ mà ngay cả những người lớn tuổi cũng đặc biệt ưa chuộng.
Những phụ nữ nội trợ cũng chọn các nguyên liệu Hàn Quốc để chế biến cho
gia đình mình. Sức ảnh hưởng của ẩm thực Hàn Quốc tới Việt Nam là rất lớn
thông qua những phương tiện và cách thức trong chiến lược quảng bá hình
ảnh quốc gia Hàn Quốc, thực hiện tốt công tác thông tin đối ngoại là quảng
bá hình ảnh nền văn hóa nói chung và văn hóa ẩm thực nói riêng tới Việt
Nam.
2.2. Các phương tiện quảng bá ẩm thực Hàn Quốc tại Việt Nam
Để đạt được những hiệu quả tốt và thu hút người dân Việt Nam tới
các món ăn Hàn Quốc, chính phủ nước này đã có những biện pháp tích cực
và khơng thể phủ nhận là rất chiến lược tới đời sống văn hóa – tinh thần của
Việt Nam. Và không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác, Hàn
Quốc cũng áp dụng những biện pháp này để quảng bá ẩm thực một cách đặc
16


biệt hiệu quả. Có thể khái quát qua 4 cách thức sau: Qua phim ảnh; qua hình
ảnh đại diện của các nhóm nhạc, ca sĩ; qua các triển lãm, hội chợ ẩm thực và
qua hệ thống nhà hàng Hàn Quốc tại Việt Nam.
2.2.1. Quảng bá ẩm thực Hàn Quốc qua phim ảnh:
Phim Hàn Quốc được quảng bá vào Việt Nam từ những năm 90, tuy
nhiên sức ảnh hưởng của chúng mới lan rộng trong khoảng thời gian hơn 10
năm trở lại đây, tuy nhiên sức ảnh hưởng lại vô cùng to lớn. Sự xuất khẩu
phim Hàn tạo nên làn sóng Hàn Quốc bằng những tác phẩm rất nổi tiếng tại
Việt Nam như : “Trái tim mùa Thu”, “Nấc thang lên thiên đường”, “Giày

thủy tinh”….Tác động chung của những bộ phim này là vào tình cảm của
con người. Hầu hết những bộ phim đều đem lại những giá trị tinh thần, tình
cảm, những bài học về tình u đơi lứa, tình cảm gắn bó thân thiết của gia
đình. Nhận định được sự tác động to lớn đó, điện ảnh Hàn Quốc bắt đầu xây
dựng chiến lược quảng bá ẩm thực và các lĩnh vực khác như âm nhạc, thời
trang, du lịch qua phim ảnh, mà quảng bá ẩm thực là một trong những biểu
hiện rõ nét nhất của các bộ phim Hàn Quốc. Có thể nhận thấy văn hóa ẩm
thực của Hàn Quốc được thể hiện qua các thể loại phim đặc trưng như sau:
Thứ nhất, những bộ phim chuyên về ẩm thực. Đây là thể loại phim
mới xuất hiện tại Hàn Quốc trong vài năm trở lại đây. Các bộ phim chuyên
về ẩm thực Hàn Quốc có nội dung xoay quanh cách thức làm món ăn Hàn,
những giá trị tinh thần gửi gắm trong từng món ăn cụ thể và tài nghệ, phẩm
chất, đạo đức của những người đầu bếp. Nhận thấy những bộ phim Hàn
Quốc chuyên về ẩm thực thu hút được khán giả ở những khía cạnh sau:
Một là, cách thức làm món ăn Hàn Quốc Hàn Quốc đã biến
tác phẩm điện ảnh thành một nơi hướng dẫn cách thức làm món ăn ở tất cả
các cơng đoạn, từ chọn nguyên liệu đến quá trình chế biến, cách trang trí,
trình bày món ăn và thời điểm, khung cảnh thưởng thức món ăn. Tất cả đều
17


đặc biệt ở chỗ tất cả những q trình đó được thể hiện trên các bộ phim rất
cẩn thận, thể hiện sự trân trọng người thưởng thức không chỉ ở việc đảm bảo
vệ sinh tuyệt đối cho món ăn mà cịn ở giá trị tinh thần huyền bí của các món
ăn đó. Những cơng đoạn thực hiện được trình bày kỹ lưỡng từ cách dùng
bếp và các vật dụng làm bếp chun cho từng món ăn một. Thậm chí cách
dùng lửa ra sao, gia giảm lửa thế nào trong lúc nấu ăn cũng là đề tài thu hút
người xem tới phút cuối trong mỗi thước phim. Các giá trị dinh dưỡng của
các món ăn cũng được đưa vào một cách rất khéo léo. Tất cả những điều đó
khiến khán giả xem phim bị tác động, hình thành nên cảm giác trân trọng và

yêu quý các món ăn, cảm giác như nó thân thuộc với bản thân từ rất lâu. u
thích các món ăn Hàn ở một điểm nữa là hình thức thể hiện trên phim đã
chứng tỏ món ăn bao hàm những giá trị dinh dưỡng tuyệt hảo và đảm bảo
tuyệt đối vệ sinh.
Hai là, các món ăn Hàn Quốc trên phim được thể hiện một
cách có hồn nhất có thể. Trong các bộ phim thể loại này, thường có những
nhân vật trung thành với món ăn của một quán ăn nhất định, đơn giản vì
những món ăn đó có hồn hơn tất thảy các nhà hàng khác. Những bộ phim
này khiến khán giả thán phục và bị mặc định cảm giác có hồn của tất cả các
món ăn. Thường thì nội dung thể hiện của những phim này xoay quanh một
người đầu bếp giỏi với những công thức nấu bí truyền, họ vừa làm vừa răn
dạy và thể hiện các giá trị tinh thần của món ăn vào từng lời nói, hành động.
Xem những thước phim như vậy, người xem cảm giác như mỗi một món ăn
có linh hồn riêng của nó và được nâng niu trân trọng từng chút một.
Ba là, những bộ phim ẩm thực này cũng đặc biệt chú trọng tới
nền văn hóa, lịch sử của Hàn Quốc. Những sự kiện văn hóa, lịch sử được
lồng ghép vào vô cùng tinh tế và khéo léo. Nội dung của phim thường xoay
quanh những cuộc thi tài ẩm thực, giữa một bên là một gia đình nghèo có
18


truyền thống nấu ăn lâu đời và một gia đình hiện đại có trình độ nấu ăn tân
tiến. Những cuộc thi trên phim thường diễn biến rất gay go và phức tạp với
nhiều tình huống và diễn biến khó lường, để làm nổi bật lên phẩm chất đạo
đức của người đầu bếp chân chính. Và dù khó khăn đến mấy thì những gia
đình hoặc cá nhân đầu bếp có truyền thống lâu đời bao giờ cũng chiến thắng
– bởi kinh nghiệm gia truyền nấu ăn cho vua chúa từ thời cổ trang. Những
bộ phim đó cũng nói lên những nghi lễ ẩm thực trang trọng từ thời hoàng gia
và bắt buộc phải tuân thủ rất nghiêm ngặt.
Bốn là, hình thức thể hiện của các bộ phim này rất bắt mắt.

Không chỉ ở nước phim đẹp, rõ ràng sắc nét, nhạc phim cuốn hút người xem
mà là ở thần thái, vẻ đẹp của người đầu bếp, hình ảnh tươi ngon và đặc biệt
hấp dẫn của các món ăn. Những khơng gian nấu nướng và thưởng thức ở các
bộ phim này thường mang vẻ đẹp rất có hồn, khiến khán giả khơng chỉ bị
hấp dẫn bởi nội dung mà còn bị cuốn hút bởi những hình thức thể hiện. Trên
thực tế, nhiều khán giả xem phim trước tiên chỉ vì tị mị vì độ hấp dẫn của
các món ăn, sau đó mới bị cuốn vào nội dung phim. Đây cũng là một trong
những bí quyết khiến các bộ phim Hàn Quốc chuyên về ẩm thực chiếm được
tình cảm lớn của người dân Việt Nam nói riêng và các nước trên thế giới nói
chung.
Có thể thấy bộ phim nổi tiếng nhất trong
lĩnh vực ẩm thực của Hàn Quốc “Dae Jang
Geum” (sản xuất năm 2003). 8 năm trước, “Dae
Jang Geum” đã thực sự mang
đến một cơn bão hâm mộ mà “dư chấn” vẫn
còn cho đến ngày nay. Bộ phim có bối cảnh
triều đại Chosun này nói đến nhân vật huyền
thoại Jang Geum – người trở thành
19


nữ y đầu tiên trong triều đình. Thơng qua
câu chuyện cuộc đời của nàng Dae Jang Geum, bộ phim đã đưa truyền
thống, văn hóa và ẩm thực Hồng gia Hàn Quốc cùng các phương thuốc cổ
truyền lên màn ảnh nhỏ.
Bộ phim Gourmet của đài SBS phát sóng mùa hè năm 2008 là tác
phẩm mang đề tài ẩm thực thuần túy. Gourmet nói về hai người đầu bếp tài
năng Sung Chan và Bong Joo, gia đình Bong Joo là chủ một nhà hàng ẩm
thực truyền thống nổi tiếng, là hậu
duệ của đầu bếp Hoàng gia triều

đại Joseon. Vốn là con trưởng,
Bong Joo ln nghĩ mình là người
kế thừa nhà hàng của gia đình
nhưng sau đó người được kế thừa
lại là Sung Chan – người thanh
niên mồ cơi nhưng có thiên tài nấu ăn đã được ông nội của Bong Joo – vốn
là đầu bếp danh tiếng nhìn thấy.Gourmet có vơ số cảnh nấu ăn hấp dẫn, giới
thiệu hàng loạt những món ăn ngon trong nền ẩm thực truyền thống xứ Hàn
và giải thích cặn kẽ về cách nấu cho từng món ăn.
Ngồi ra cịn rất nhiều bộ phim ẩm thực như “My name is Kim Sam
Soon” (đài truyền hình MBC, 2005); “King of Baking, Kim Tak Goo” (Đài
truyền hình KBS, 2010)….gây được tiếng vang lớn trong lịng người xem
truyền hình Việt Nam. Có thể thấy thêm một điều nữa là dù ở Hàn Quốc, các
công ty điện ảnh hoạt động riêng lẻ và có sức cạnh tranh cao nhưng vẫn
chung một mục tiêu quảng bá đất nước Hàn Quốc qua văn hóa nói chung và
ẩm thực nói riêng. Đây biểu hiện sự nhất quán trong việc quản lý công tác
thông tin đối ngoại của chính phủ Hàn Quốc.
20


Thứ hai, quảng bá ẩm thực qua các phim truyền hình có nội dung
đa dạng. Các phim của Hàn Quốc dù là thể loại phim tình cảm, hành động
hay phiêu lưu thì đều lồng ghép hình ảnh ẩm thực trong đó. Trái với các bộ
phim Việt Nam ln cho cảnh ăn cơm của cả gia đình vào phim, mật độ dày
đặc nhưng không quảng bá được sức hấp dẫn của món ăn, thì phim Hàn
Quốc ln đưa những hình ảnh rất ngon mắt của thức ăn vào phim. Chỉ đơn
giản là hình ảnh người phụ nữ chuẩn bị cơm cho đứa con yêu quý hay cảnh
người con trai đem thức ăn đến cho người yêu cũng đủ sức lột tả hết sự hấp
dẫn của món ăn Hàn Quốc. Những món ăn được bày biện đẹp mắt và các
diễn viên ăn uống cũng tạo cảm giác rất ngon lành (họ thường cho rất nhiều

thức ăn vào miệng và ăn hết thức ăn). Điện ảnh Hàn Quốc biết cách lồng
ghép khéo léo những hình ảnh này vào các phim đời thường và ln để tên
món ăn xuất hiện với một số ý nghĩa đặc biệt của món ăn đó, làm khán giả
khó có thể quên đi một cách nhanh chóng và nảy sinh tâm lý tị mị muốn ăn
thử. Chính những tác động có vẻ rất đơn giản đó nhưng tạo được hiệu quả
lớn trong việc quảng bá hình ảnh món ăn và văn hóa ẩm thực Hàn Quốc.
Một điểm đáng lưu ý là dù ở thể loại phim nào, nếu cứ gắn với ẩm
thực thì sẽ thiên về tình cảm. Chính sự lồng ghép cả tình cảm đi đơi với các
món ăn Hàn Quốc khiến thức ăn càng thêm có hồn và càng khiến khán giả
xem truyền hình muốn thưởng thức để hưởng những giá trị tinh thần mà
món ăn đó đem lại. Thành công của Hàn Quốc trong việc quảng bá hình ảnh
ẩm thực trước tiên phải kể đến phương thức điện ảnh. Đây là cách thức
quảng bá hữu hiệu nhất và đem lại hiệu quả to lớn nhất trong việc quảng bá
tại Việt Nam. Đặc biệt trong thời đại Cơng nghệ thơng tin và internet phát
triển mạnh thì việc tải các bộ phim Hàn hoặc theo dõi trên các trang mạng
trực tuyến càng trở nên đơn giản hơn bao giờ hết.
21


2.2.2. Quảng bá ẩm thực Hàn Quốc qua các nhóm nhạc, ca sĩ
Cũng giống như điện ảnh, âm nhạc Hàn Quốc tạo nên một hiệu ứng
không chỉ ở riêng Việt Nam mà còn ở
nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là châu
Á. Các nhóm nhạc nam nữ Hàn Quốc với
khả năng vũ đạo tốt, ngoại hình đẹp đã thu
hút khán giả trẻ Việt Nam, tạo thành một
cơn sốt “hâm mộ” nhạc Hàn Quốc. Các
thần tượng âm nhạc của giới trẻ Việt Nam
hiện nay chủ yếu là các ca sĩ Hàn Quốc. Nắm bắt được tâm lý đó, sau chiến
dịch quảng bá âm nhạc vào thị trường giải trí Việt Nam, Hàn Quốc bắt đầu

kết hợp một cách rất khéo léo ẩm thực vào lĩnh vực âm nhạc. Thơng qua các
hình tượng ca sĩ và nhóm nhạc “ăn khách”, Hàn Quốc đưa họ lên làm đại sứ
ẩm thực hoặc quảng bá ẩm thực qua những video clip rất công phu. Đây là
một hoạt động thể hiện tầm nhìn của các nhà phụ trách văn hóa Hàn Quốc
bởi lẽ đưa hình ảnh của một “thần tượng âm nhạc” đại diện cho ẩm thực vừa
làm tăng giá trị của nghệ sĩ đó ( thông qua việc quảng bá ẩm thực, nghệ sĩ
thể hiện mình là người u đất nước, u các món ăn cổ truyền của dân tộc),
vừa làm cho món ăn nhất định hoặc có khi cả nền ẩm thực trở nên nổi tiếng
do lượng người hâm mộ các ca sĩ đó chiếm số lượng đáng kể. Giới trẻ Việt
Nam nói chung có xu hướng “ăn thần tượng, ngủ thần tượng”, bất kể những
gì thần tượng mặc, ăn, u thích đều được giới trẻ bắt chước. Vì lẽ đó mà
các nhóm nhạc và ca sĩ trở thành đại sử ẩm thực xuất hiện ngày một nhiều.
Đạt được hiệu quả quảng bá ẩm thực qua hình tượng ca sĩ, nhóm
nhạc phải kể đến sự góp sức của nhóm nhạc Hàn Quốc Super Junior. Đây là
một nhóm nhạc nam nổi tiếng Hàn Quốc với 11 thành viên, có lượng fan
hâm mộ rất lớn tại Việt Nam. Sự kiện fan Việt Nam đến chật sân vận động
22


Mỹ Đình để đón Super Junior sang Việt Nam ngày 27/03/2010 đã đủ chứng
tỏ mức độ được hâm mộ của nhóm nhạc này. Năm 2011, nhóm nhạc Super
Junior được chọn làm đại sứ ẩm thực của Hàn Quốc. Ngay sau khi được
chọn Super Junior đã xuất hiện trong các đoạn video được đăng tải trên kênh
Youtube chính thức của Bộ Thực phẩm, Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy
sản Hàn Quốc. Trong các đoạn video, các thành viên của nhóm đã giới thiệu
những món ăn truyền thống của đất nước mình. Những đoạn video này được
các bạn trẻ hâm mộ Việt Nam gắn phụ đề Tiếng Việt để các fan dễ theo dõi.
Sự kiện này đã gây ra làn sóng hâm mộ trong giới trẻ Việt Nam, những đoạn
Video clip được chia sẻ cho nhau trên các mạng xã hội, email…và trở nên
phổ biến trong giới trẻ trong một thời gian ngắn. Trong những đoạn phim

ngắn của chương trình quảng bá mang tên “Discover Korea’s Delicious
Secret” (“Khám phá bí mật món ngon Hàn Quốc”) này, các ca sĩ trong
nhóm nhạc sẽ giới thiệu các món ăn đặc trưng của Hàn Quốc dạy người xem
cách ăn món mì Hàn Quốc sao cho đúng nhất, cách trộn 4 loại hương vị cho
món Bibimbap của Hàn Quốc và nhiều hướng dẫn khác để thưởng thức các
món ăn Hàn Quốc một cách ngon nhất.
Khơng chỉ có nhóm nhạc nam,
Wonder Girls – một nhóm nhạc nữ gồm 5
thành viên, nổi tiếng với nhạc phẩm độc
đáo “Nobody” cũng được chính phủ Hàn
Quốc chọn làm đại sứ ẩm thực. Khác với
Super Junior, chiến dịch quảng bá ẩm thực
của 5 cơ gái này sẽ có quy mơ rộng hơn
qua các chương trình thực tế mà thị trường
đầu tiên hướng tới là Nhật Bản, Trung
23


Quốc, Singapore, Malaysia và Việt Nam. Bài hát “Nobody” gắn liền với
vũ điệu nhảy đặc trưng đã giúp Wonder Girls nổi tiếng với cả các em nhỏ
Việt Nam. Việc chọn Wonder Girls làm đại sứ ẩm thực là việc làm đúng đắn
của chính phủ Hàn Quốc. Khẩu hiệu “Smart Choice! Global K-food!” (
“Lựa chọn thơng minh! Lực chọn tồn cầu là thức ăn Hàn Quốc!”) là ý
tưởng về việc giúp du khách thưởng thức những món ăn Hàn Quốc có lợi
cho sức khỏe bằng cách hướng dẫn cho họ chọn món ăn một cách khoa học.
Nhằm giúp chiến dịch thân thiện với mọi người hơn, mỗi cô gái Wonder
Girls đều được đặt cho một biệt danh theo một loại thực phẩm: Yeeun là ớt
cựa gà, Sohee là dâu tây, Sunye là táo, Yoobin là hoa hồng và Hyelim là quả
thanh yên.
Chiến dịch quảng bá văn hóa ẩm thực Hàn Quốc qua hình ảnh của các

nhóm nhạc và ca sĩ được phổ biến rất rộng rãi và cịn có sự tham gia của rất
nhiều các nhóm nhạc khác. Sự thành cơng ban đầu của những hoạt động này
khơng nằm ngồi mục đích hướng khán giả Việt Nam tới những món ăn của
Hàn Quốc, làm cho nó trở nên gần gũi, thân thuộc với các bạn trẻ qua hình
tượng các ca sĩ mà họ yêu mến. Trong thời gian sắp tới, Hàn Quốc chắc chắn
sẽ cịn có nhiều hoạt động hơn nữa để khai thác triệt để hiệu quả của hình
thức quảng bá này.
2.2.3. Quảng bá ẩm thực Hàn Quốc qua các triển lãm, hội chợ ẩm
thực, nhà hàng ăn uống tại Việt Nam
Triển lãm và hội chợ là những cách thức hiệu quả nhất trong việc
quảng bá ẩm thực Hàn Quốc tại Việt Nam. Các hội chợ ẩm thực luôn là nơi
thu hút được người dân Việt Nam tới tham dự. Tại những lễ hội này, người
dân được tận mắt chiêm ngưỡng cách thức làm các món ăn Hàn Quốc do
chính tay các đầu bếp Hàn thực hiện. Sự giao lưu và giới thiệu ẩm thực trực
tiêp là tiêu chí để cho những lễ hội này diễn ra. Thông qua các lễ hội này,
24


các món ăn Hàn Quốc được giới thiệu đơng đảo tới người dân Việt Nam.
Trên thực tế, có nhiều người chưa có cơ hội được ăn đồ ăn Hàn Quốc hoặc
vì tị mị nên đã đến tham dự hội chợ, khiến cho quy mô người dân đến tham
dự không chỉ dừng lại ở những người yêu thích ẩm thực Hàn. Hội chợ và
triển lãm cũng là những hoạt động tạo cảm giác gần gũi và rút ngắn khoảng
cách giữa hai quốc gia thông qua lĩnh vực ẩm thực.
Hiệu quả đạt được thông qua hoạt động triển lãm, hội chợ là rất lớn.
Lượng du khách đến tham dự những sự kiện này rất đông, chủ yếu là các
bạn trẻ và gia đình người Việt. Thậm chí một số món ăn Hàn Quốc đã hết
trước khi triển lãm kết thúc. Đại sứ quán Hàn Quốc và Trung tâm Văn hóa
Hàn Quốc tại Việt Nam cũng đã lồng ghép những hoạt động văn hóa khác
của Hàn Quốc bên cạnh giới thiệu ẩm thực để làm phong phú hơn cho hội

chợ.
Bên cạnh những triển lãm và hội chợ giới thiệu ẩm thực Hàn Quốc,
người dân Việt Nam có thể chủ động thưởng thức các món ăn tại các nhà
hàng chuyên về đồ ăn Hàn Quốc tại Hà Nội. Với hệ thống cửa hàng Hàn
Quốc số lượng đơng đảo, món ăn Hàn Quốc đang ngày càng trở nên gần gũi
với những bữa cơm văn phòng, buổi họp lớp hoặc tụ tập bạn bè của giới trẻ.
Theo khảo sát trên trang web www.nhahangnoitieng.com – một trang web
chuyên cung cấp các địa chỉ nhà hàng ăn uống nổi tiếng tại Hà Nội, thì đã có
hơn 10 nhà hàng Hàn Quốc có mặt trên địa bàn thủ đơ. Hiện nay, nhà hàng
Hàn Quốc là địa chỉ khá quen thuộc của người dân thủ đô như: Nhà hàng
cơm quấn Hàn Quốc (50A Ngọc Khánh), nhà hàng Mì Hàn Quốc (8B/1
Láng Hạ), nhà hàng Kim chi Hàn Quốc (349 Kim Mã)…
Tóm lại, việc quảng bá Hàn Quốc thơng qua các món ăn được chính
phủ Hàn Quốc thực hiện qua rất nhiều hình thức và phương tiện khác nhau.
Trên đây là 4 phương thức cơ bản và có hiệu quả lớn nhất trong công tác
25


×