Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKNBiện pháp giúp học sinh lớp Ba làm tốt bài tập Toán về Tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ, nhân, chia”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.2 KB, 14 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
THỦ THỪA
TRƯỜNG TIỂU HỌC LONG THẠNH

  
Họ và tên : Phạm Thò
Ngọc Quyên
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vò : Trường tiểu học
Long Thạnh

Năm học 2014-2015

PHỤ LỤC
----------* * *----------I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1a.Đặt vấn
đề…………………………………………………….1
1b.Mục đích đề
tài………………………………………………..2
1c.Lòch sử đề
tài………………………………………………….3
-1-


1d.Phạm vi đề
tài………………………………………………...3
II.NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM:
2a.Thực trạng đề
tài……………………………………………...3
2b.Nội dung cần giải
quyết………………………………………5


2c.Biện pháp giải
quyết………………………………………….5
2c1.Xác đònh đúng tên thành phần trong phép
tính……………6
2c2.Đọc qui tắc tìm thành phần theo yêu
cầu………………….6
2c3.p dụng các qui tắc tổng quát để viết
thành biểu thức toán
cụ thể……………………………………………………………….7
2c4.Tính giá trò của biểu thức vừa
viết…………………………8
2d.Kết quả, chuyển biến của đối
tượng………………………….9
III.KẾT LUẬN:
3a.Tóm lược giải
pháp…………………………………………...10
3b.Phạm vi áp
dụng………………………………………………11
3c.Kiến nghò………………………………………………………
12

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
1a. Đặt vấn đề:
- Mơn Tốn góp phần xây dựng một số phẩm chất, tính cách của
người lao động mới như: tính cẩn thận, chính xác, kiên nhẫn, vượt khó,
trung thực. Có thói quen làm việc có kế hoạch, u lao động ham tìm tòi…
-2-


Làm cho học sinh nắm được phương pháp học tập tốt, phát triển hứng thú

học tập, phát triển năng lực và phẩm chất trí tuệ của học sinh.
- Theo phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học của Đại học Sư phạm
thì hạt nhân của Toán là số học, sự sắp xếp nội dung trong mối quan hệ gắn
bó hỗ trợ nhau với hạt nhân số học không làm mất đi hoặc mờ nhạt đi nét
đặc trưng của từng nội dung. Vì vậy dạy học các yếu tố đại số…vừa giúp
cho việc chuẩn bị tốt các nội dung có liên quan ở Trung học, vừa phục vụ
cho dạy học. Nội dung đó là bước đầu thực hiện quan điểm thích hợp trong
nội dung môn Toán ở Tiểu học. Các kiến thức kỹ năng chủ yếu bằng thực
hành luyện tập, ôn tập củng cố thường xuyên và phát triển vận dụng trong
học tập, đời sống. Ở lớp Ba ngoài việc yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, học
sinh phải biết tên gọi các thành phần và kết quả của phép tính theo phạm vi
đã được giới hạn. Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học là sự vận dụng các
phương pháp dạy học Toán (nói chung) cho phù hợp với mục tiêu, nội dung
và các điều kiện dạy học ở Tiểu học.
- Bên cạnh đó Toán học cũng có khả năng to lớn trong giáo dục học
sinh về nhiều mặt: phát triển tư duy logic, bồi dưỡng năng lực trí tuệ, nó
còn giúp học sinh phương pháp suy nghĩ làm việc góp phần giáo dục những
phẩm chất, đức tính tốt đẹp của người lao động và có một hệ thống kiến
thức cơ bản cùng những phương thức rất cần thiết cho đời sống lao động và
sinh hoạt. Kỹ năng Toán học là những công cụ cần thiết để học các môn
khác và ứng dụng trong thực tiễn.
- Đồng thời môn Toán là một môn học rất quan trọng đối với học
sinh Tiểu học. Môn học này nhằm cung cấp kỹ năng tính toán rất cơ sở và
thiết thực thông qua việc giải toán, học sinh sẽ có điều kiện phát triển trí
tuệ. Việc nghiên cứu đưa ra các giải pháp rèn kỹ năng tính toán là việc hết
sức cần thiết, yêu cầu học sinh tính đúng, hiểu đúng và nắm chắc chắn các
dạng phương trình đơn giản đã học được ở lớp Hai, Ba để vận dụng vào
giải toán về tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ, nhân, chia.
-3-



Đây có thể coi là giai đoạn học tập cơ bản vì ở giai đoạn này học sinh được
cung cấp kiến thức, kỹ năng cơ bản nhất, được cung cấp về phương pháp tự
học Toán dựa vào các hoạt động tích cực chủ động sáng tạo và góp phần
không nhỏ vào việc học tốt môn Toán sau này.
- Muốn dạy tốt các kiến thức Toán học các em phải có khả năng
tính nhẩm, tính viết về bốn phép tính với các số tự nhiên...,có hiểu biết ban
đầu sơ giản về giá trị của biểu thức số học. Giải phương trình đơn giản.
Nếu ở lớp Một, Hai, Ba việc tìm x chỉ yêu cầu ở mức độ tìm thành phần
chưa biết của phép tính, trong khi các thành phần đã cho là số thì ở lớp
Năm đòi hỏi cao hơn, mức độ cao hơn là ở chỗ các thành phần đã cho
không phải là một số mà là một biểu thức toán.
- Để giúp các em giải phương trình đơn giản một cách chính xác
đòi hỏi người giáo viên phải giúp các em nắm kiến thức ngay từ ban đầu,
giúp các em tìm được các thành phần chưa biết cũng như cách tìm x ở ngay
chương trình môn Toán của lớp Ba.
- Từ những điều quan trọng nói trên cùng với tình hình lớp tôi, học
sinh còn gặp nhiều khó khăn khi giải toán về tìm thành phần chưa biết. Nên
tôi đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Biện pháp giúp học sinh lớp Ba làm tốt
bài tập Toán về Tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ, nhân,
chia”.
1b. Mục đích đề tài:
Nghiên cứu để đạt được các yêu cầu về kiến thức, kỹ năng tính
toán và kết hợp giải các bài tập quy về dạng: “Tìm số hạng chưa biết”;
“Tìm số bị trừ, số trừ chưa biết”; “Tìm thừa số chưa biết”; “Tìm số bị chia,
số chia chưa biết”.Từ đó góp phần nâng cao chất lượng môn Toán cho học
sinh.
1c. Lịch sử đề tài:
Qua nghiên cứu về phương pháp giảng dạy, tìm hiểu thêm sách
báo, học hỏi ở bạn đồng nghiệp và kinh nghiệm của bản thân, tôi đã quyết

-4-


tâm nghiên cứu tìm ra các biện pháp giúp học sinh lớp Ba làm tốt bài tập
Toán về Tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ, nhân, chia nhằm
hoàn thiện mục đích đề tài.
1d. Phạm vi đề tài:
Đề tài “Biện pháp giúp học sinh lớp Ba làm tốt bài tập Toán về
Tìm thành phần chưa biết của phép tính cộng, trừ, nhân, chia” bắt đầu
thực hiện từ tháng 9 năm 2014 đến tháng 3 năm 2015 ở lớp Ba/1 Trường
Tiểu học Long Thạnh.
II. NỘI DUNG CÔNG VIỆC ĐÃ LÀM:
2a. Thực trạng đề tài:
- Mặc dù đã được học về tìm thành phần chưa biết của phép cộng,
trừ ở lớp Hai. Song ở lớp Ba các em sẽ tiếp tục được học về giải toán tìm
thành phần chưa biết trong phép tính nhân và chia nên mức độ kiến thức
đòi hỏi cao hơn, các em được tìm hiểu và giải các bài tập ứng dụng khó
hơn.
- Cho nên những năm tháng đã được Ban Giám Hiệu phân công
giảng dạy trực tiếp khối lớp Ba. Nhiều lần dự giờ rút kinh nghiệm, chấm
bài khảo sát. Bản thân tôi thấy được việc giải các bài tập dạng tìm x thuộc 6
dạng phương trình đơn giản đối với khối lớp Ba thầy và trò còn gặp một số
khó khăn như sau:
* Đối với giáo viên:
+ Chưa quan tâm đến việc rèn luyện thao tác trong kỹ năng tìm
thành phần chưa biết của phép tính, có khi chỉ ghi đề lên bảng nhắc nhở
qua loa và học sinh tự làm bài dạng này. Hoặc giáo viên chỉ dùng một số
câu hỏi chung chung để các em tự tìm ra cách giải.
+ Bên cạnh còn một số giáo viên khối Hai, Ba chưa quan tâm nhiều
đến yêu cầu học sinh phải thuộc các qui tắc tìm thành phần chưa biết của

phép tính. Chưa có biện pháp cụ thể và tính trực quan trong việc tìm thành
phần chưa biết nên dễ lẫn lộn trong các bài tìm số trừ và tìm số chia.
-5-


* Đối với học sinh:
+ Đa số học sinh học một cách thụ động. Chủ yếu chỉ nghe giảng
ghi nhớ và làm theo mẫu. Do không hình thành được thao tác giải dạng
này, không xác định được cần phải làm gì? Áp dụng cái gì? Mà cứ nhìn vào
bài thấy có sẵn dấu cộng thì thay thành dấu trừ, dấu nhân thay thành dấu
chia. Cho nên đã sai ở dạng bài tìm số trừ và tìm số chia cụ thể như các bài
sau:
a. Ví dụ : 48 – x = 8
Cần giải : 48 – x = 8
x = 48 - 8
x = 40
Học sinh lại giải: 48 – x = 8
x = 48 + 8
x = 56
b. Ví dụ: 64 : y = 8
Cần giải: 64 : y = 8
y = 64 : 8
y = 8
Học sinh lại giải: 64 : y = 8
y = 64 x 8
y = 512
- Nên ở các bài toán giải như thế không đạt kết quả.
- Năm học 2014-2015 tôi được phân công dạy lớp Ba/1. Sĩ số lớp:
27 học sinh. Tôi thật sự lo lắng khi thấy học sinh lớp mình còn nhiều em
yếu môn Toán. Qua việc khảo sát chất lượng đầu năm, đánh giá riêng về

môn Toán kết quả đạt được như sau:
Môn Toán
Điểm

-6-


TSHS
27 em

1-2
0

3-4
4

5-6
4

7-8
12

9-10
7

- Đặc biệt vẫn còn nhiều học sinh tuy đã học lớp Ba nhưng vẫn
chưa thực hiện được kỹ thuật tính toán trong phép cộng trừ ở lớp Hai và
nhiều em sai ở dạng bài Tìm x.
- Khi chưa có cải tiến các em còn làm bài một cách máy móc nên
thường chấp nhận với kết quả sai.

- Nếu tình trạng này kéo dài thì sẽ gây ra một tác hại lớn trong dạy
và học sau này.
2b. Nội dung cần giải quyết:
- Học sinh Tiểu học nhất là học sinh lớp Một, Hai, Ba...tư duy luôn
gắn liền với cái gì đó mang tính cụ thể hơn là khái quát. Giải một bài tập
tìm thành phần cũng cần có những thao tác thật cụ thể. Tuy có mất thời
gian nhưng chắc chắn chúng ta sẽ hình thành được cho các em thói quen
cẩn thận. Và con đường phát triển tư duy một cách chắc chắn, con đường
có thể xem như một quy trình có các bước đi một cách hệ thống như sau:
- Xác định đúng tên thành phần trong phép tính.
- Đọc đúng qui tắc tìm thành phần đó.
- Áp dụng qui tắc tổng quát để viết thành biểu thức toán cụ thể.
- Tính giá trị biểu thức vừa viết.
2c. Biện pháp giải quyết:
2c1. Xác định đúng tên thành phần trong phép tính.
- Đối với những phép tính đã được cung cấp khái niệm ở lớp Một
và Hai. Do đó thói quen làm tính nhưng chưa xác định tên thành phần phép
tính. Nên đa số các em đều quên tên gọi của từng thành phần phép tính
cộng, trừ.

-7-


- Xét mức độ củng cố của chương trình học lớp Ba, phần này ta
thấy các em chỉ được khơi lại bằng những bài tập “Viết biểu thức dưới
dạng tổng hoặc hiệu của hai số”.
- Ở lớp Ba: Để học sinh gọi đúng tên thành phần trong phép tính,
Trong các tiết học chính khóa, giờ ôn tập hoặc bồi dưỡng học sinh cần cho
các em chép lại bảng công thức tổng quát như sau : a + x = b ; x – a = b ;
a - x = b ; a x x = b ; x : a = b ; a : x = b.

- Có thể giải thích thêm tên từng thành phần trong từng phép tính a,
b, x là gì? Và cụ thể như sau:
+ Một là trước khi thực hiện bất cứ một bài tập tìm thành phần nào
trong phép tính cụ thể. Học sinh phải gọi tên từng thành phần trong phép
tính đó.
Ví dụ : Tìm số bị chia chưa biết
x : 5 = 4 ; Trong đó x gọi là gì ? ( x là số bị chia)
5 gọi là gì ? (5 là số chia); 4 gọi là gì? (4 là thương )
+ Hai là thuộc bảng công thức đó. Nếu chưa thuộc khi giải bài
được phép xem lại công thức một lần để gọi tên. Nhưng phải học lại đầu
giờ sau trả lời công thức cho cán sự lớp.
2c2. Đọc qui tắc tìm thành phần theo yêu cầu.
- Đối với qui tắc đã được cung cấp khái niệm ở lớp Một và Hai, vì
do thói quen không quan tâm đến việc thuộc qui tắc. Nên đa số các em
quên 3 qui tắc tìm một thành phần trong phép tính cộng, trừ. Xét đến yêu
cầu giải bài tập ở lớp Ba, việc thuộc qui tắc trên cũng rất cần thiết. Để học
sinh thuộc các qui tắc này trong giờ ôn tập khi đã hình thành các công thức
tổng quát, tôi cho các em chép lại qui tắc bên cạnh các công thức tổng quát
và yêu cầu phải học thuộc, đồng thời sử dụng giống như việc gọi tên từng
thành phần trong bốn phép tính.

-8-


- Đối với các qui tắc học ở lớp Ba. Tôi chú trọng đến việc nhớ đúng
qui tắc. Mạnh dạn tổ chức giờ ôn tập để học sinh thuộc các qui tắc một
cách chắc chắn hơn.
2c3. Áp dụng các qui tắc tổng quát để viết thành biểu thức toán
cụ thể.
Đây là một việc làm hết sức quan trọng. Nếu các em áp dụng qui

tắc tổng quát để viết đúng những biểu thức toán học cụ thể thì bài tập mới
có thể được giải đúng. Việc sử dụng các phép tính trong bài các em mới
thật sự thể hiện trí tuệ và tư duy. “Tính phó thác mặc cho mai rũi của cộng,
trừ, nhân, chia một cách máy móc mới được khắc phục”. Và phải áp dụng
như thế nào là hữu hiệu? Theo tôi trong chừng mực này không gì hơn là
yêu cầu các em rèn luyện liên tục. Tuyệt đối không sử dụng cách đổi dấu
( dấu + thành dấu - và dấu – thành dấu + hoặc dấu x thành dấu : và dấu :
thành dấu x )
Ví dụ như: Muốn tìm thừa số chưa biết. Muốn tìm số chia chưa
biết, số bị chia chưa biết.
Giáo viên cần hỏi lại qui tắc để các em áp dụng tính toán.
Ví dụ: x x 2 = 8

; x :5=4

; 30 : x = 5

Giáo viên hỏi lại:
- Muốn tìm thừa số chưa biết ta phải làm như thế nào? (Ta phải lấy
tích chia cho thừa số đã biết).
- Muốn tìm số bị chia chưa biết ta làm sao? (Ta lấy thương nhân
với số chia).
- Muốn tìm số chia chưa biết ta làm sao?( Ta lấy số bị chia chia cho
thương).
Khi các em đã thấy được đâu là thừa số đã biết, đâu là thừa số
chưa biết, đâu là tích, đâu là số chia, đâu là số bị chia… thì các em thực
hiện được nhanh chóng, chính xác.
2c4.Tính giá trị của biểu thức vừa viết.
-9-



- Đây là một phạm vi mà yếu tố đại số đã được tổng hợp từ yếu tố
số học. Theo các lý luận trên muốn tính đúng giá trị của x ngoài việc đã gọi
đúng tên thành phần, áp dụng qui tắc viết được biểu thức còn có một yêu
cầu không thể thiếu đó là tính đúng. Việc sử dụng thành thạo các kỹ năng
thực hiện các phép tính cộng, trừ, nhân, chia rất cần thiết.
Ví dụ : Tìm x trong bài Tìm số chia chưa biết:
27 : x = 3
x = 27 : 3
x = 9 (Yêu cầu HS phải tính đúng x = 9)
- Ngoài ra chúng ta cần lưu ý học sinh cách trình bày đúng (như
vídụ trên).
- Vậy với vai trò hạt nhân của Toán - số học thì việc tính kết quả
đúng phải được tiến hành luyện tập củng cố liên tục ngay với các bài luyện
tập.
- Theo tôi, với các phép tính các em đã học kỹ thuật tính ở lớp
Một, Hai thì chúng ta phải thường xuyên nhắc nhở củng cố lại. Phụ đạo
thêm về kỹ thuật tính toán, còn riêng đối với phép nhân, phép chia ở lớp 3,
chúng ta ngoài việc rèn luyện theo yêu cầu bài tập thực hành còn phải tổ
chức nhiều tiết ôn tập củng cố lại kiến thức, mà nhất là các em còn hạn chế
về việc thuộc cửu chương, cần hỏi đến nhiều hơn để từ đó luôn bồi dưỡng
các em nhiều hơn các bạn khác, để giúp các em tính toán nhanh, đúng
chính xác.
* Ngoài các bước trên còn phải sử dụng một số hình thức dạy
học khác:
- Với nhiệm vụ và trách nhiệm, trong quá trình thực hiện các giải
pháp mới như nêu trên, bản thân tôi đã đặc biệt chú trọng thêm một số vấn
đề sau:
+ Phát huy tối đa vai trò trung tâm, vai trò chủ động tích cực sáng
tạo trong học tập của học sinh.

- 10 -


+ Quan tâm đến phương pháp chủ động tích cực. Trong đó giáo
viên tổ chức hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm để thông
qua đó các em giành lấy những kiến thức mới, cụ thể ở các bài như: Tìm
thừa số chưa biết, số bị chia chưa biết…với một kết quả khả quan.
+ Xây dựng các bài tập mẫu: trong đó giáo viên chỉ điều khiển và
chú trọng đến các yếu tố học sinh có thể đã quên bằng cách gợi ý hoặc cho
ví dụ mẫu để qua đó học sinh tự tìm hiểu và xác định được tên gọi các
thành phần đúng hơn, sau đó giáo viên và học sinh cùng nhận xét, nếu học
sinh xác định chưa đúng thì cần sửa chữa, tính tự lực và tư duy của học
sinh được tôn trọng.
+ Quan tâm đến việc giải bài tập ở nhà và nhận xét để tìm ra giải
pháp phù hợp giúp học sinh khắc phục. Nếu các em không thực hiện cần
tìm hiểu xem vì sao không làm, trao đổi cặn kẻ với phụ huynh học sinh
(trực tiếp), có làm như thế mới nắm rõ tình hình, nguyên nhân. Giáo viên
tiến hành bồi dưỡng ngay sau đó để các em nắm bắt kiến thức kịp thời cùng
các bạn.
- Trong quá trình thực hiện như thế tôi thấy được kết quả rất là khả
quan.
- Các tiết dạy trở nên sinh động hơn, hấp dẫn hơn.
- Học sinh tích cực chủ động và sáng tạo trong học tập, kết quả
thực hiện tìm thành phần trong phép tính cộng trừ, nhân, chia của học sinh
tăng dần.
2d. Kết quả chuyển biến của đối tượng.
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài “Biện pháp giúp học
sinh lớp Ba làm tốt bài tập Toán về Tìm thành phần chưa biết của phép
tính cộng, trừ, nhân, chia”, với những biện pháp trên, đến thời điểm cuối
học kỳ I, tôi đã thu được kết quả như sau:

- Chất lượng học tập môn Toán của học sinh lớp tôi chuyển biến rõ
rệt. Đây là bảng thống kê kết quả kiểm tra môn Toán cuối học kỳ I:
- 11 -


Môn Toán

Điểm
TSHS
27 em

1-2
0

3-4
0

5-6
2

7-8
3

9-10
22

- Đến giai đoạn này học sinh đã: xác định đúng tên gọi các thành
phần, thuộc qui tắc từng dạng, biết áp dụng qui tắc và tính đúng kết quả.
Bản thân tôi thấy được các em không còn lúng túng mà thực hiện thành
thạo các dạng bài tìm thành phần chưa biết đã học.

III. KẾT LUẬN :
3a. Tóm lược giải pháp:
Sau khi đã nghiên cứu về các hiện trạng trên và đã dùng một số
biện pháp áp dụng vào thực tế đối với học sinh lớp Ba/1, bước đầu đã đem
lại kết quả rất khả quan:
+ Cải thiện được phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Trong
quá trình dạy học đã có động cơ thúc đẩy học sinh thích thú khi học Toán.
Các em đã tự mình tìm tòi học hỏi, đã có thái độ học tập chăm chỉ. Với quá
trình như thế các em cũng tích cực chủ động và sáng tạo trong học tập, khả
năng tư duy cũng tăng dần ở các bài tập áp dụng.
+ Học sinh đã hiểu bài một cách chắc chắn ngay tại lớp, nắm được
bài một cách nhanh nhẹn cơ bản, có kỹ năng tính toán chính xác, các kiến
thức được học luôn ghi nhớ bền lâu.
Muốn thực hiện tốt sáng kiến kinh nghiệm trên người giáo viên
phải luôn quan tâm đến việc thực hiện đúng hệ thống thao tác rèn kỹ năng
khi giải các bài dạng trên. Mức độ đầu tư là làm thế nào để cho học sinh có
ý thức kiên nhẫn, trong từng bước đi luôn đòi hỏi giải pháp của giáo viên
phù hợp. Đối với bước đầu củng cố… giáo viên nên quan tâm đến việc bồi
dưỡng hoặc tìm hiểu thêm về trình độ các em và vận dụng tốt các kiến
- 12 -


thức, kỹ năng khi giải bài dạng này phải tin tưởng một cách tuyệt đối, bản
thân người giáo viên cần quan tâm đến một số vấn đề sau:
+ Luôn nắm vững nội dung sách giáo khoa những yêu cầu cơ bản,
về các bước giảng dạy. Khi dạy các bài toán dạng này cần có sự đầu tư
thích đáng để dạy nhẹ nhàng hơn, chất lượng hơn.
+ Thường xuyên trao dồi phẩm chất đạo đức, chuyên môn nghiệp
vụ.
+ Khai thác tốt các yêu cầu sách giáo khoa và đối tượng học sinh

trong việc sử dụng các phương pháp sư phạm.
+ Mạnh dạn thực hiện các giải pháp cải tiến cần thiết cho việc dạy
– học.
+ Quan tâm đến vấn đề soạn bài trước khi lên lớp, mức đầu tư thể
hiện rõ ràng đối với các bài tìm thành phần chưa biết trong 4 phép tính.
+ Thường xuyên vận động, khích lệ tinh thần học tập cho các em
nhiều hình thức, có các câu hỏi gợi mở dẫn dắt đi vào các bài tập đối với
học sinh còn lúng túng.
+ Nhận xét bài làm của học sinh phải thể hiện được học sinh làm
được những gì, chưa làm được những gì, các giải pháp khắc phục.
+ Quan tâm đến việc sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học, trong việc
dạy học cũng như củng cố các kiến thức cho học sinh.
+ Ngoài ra phải biết kết hợp với đồng nghiệp và phụ huynh học
sinh để kết quả giảng dạy, giáo dục đạt tốt hơn.
3b. Phạm vi áp dụng:
Tôi thấy rằng đề tài này áp dụng rất có hiệu quả đối với giáo viên
và học sinh lớp Ba trong toàn huyện.
3c. Kiến nghị:
Để nâng cao hiệu quả trong dạy học Toán cũng như giúp học sinh
học tốt việc giải các bài tập về tìm thành phần chưa biết trong phép tính
cộng trừ, nhân chia ở lớp Ba, rất mong được có sự hỗ trợ của các phương
- 13 -


tiện dạy học và sự đầu tư về sách giáo khoa, sách hướng dẫn, tài liệu tham
khảo, thiết bị…. Cũng như sự nghiên cứu để cung cấp thêm kinh nghiệm từ
phía Ban lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp để đem đến những giờ dạy thật
sự có hiệu quả.
Tuy sáng kiến kinh nghiệm đạt kết quả tương đối khả quan nhưng
việc hoàn thiện bản thân nó vẫn là một vấn đề đặt ra cần có sự đầu tư

nghiên cứu, đầu tư nhiều ở các bạn đồng nghiệp để áp dụng cho các em ở
các lớp học sau này.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn và mong muốn các cấp lãnh
đạo của nghành, của trường nhận xét, đóng góp ý kiến giúp cho đề tài này
mang lại hiệu quả thiết thực hơn.
Long Thạnh, ngày 6 tháng 3 năm 2015
Người thực hiện

Phạm Thị Ngọc Quyên

- 14 -



×