Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

những yếu tố ảnh hưởng đến sự tự nguyện nộp thuế thu nhập cá nhân ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.19 KB, 30 trang )

I.

Những vấn đề chung về thuế
1. Khái niệm và đặc điểm về thuế thu nhập cá nhân
1.1 Khái niệm
Thuế thu nhập cá nhân là khoản tiền thuế mà người có thu nhập phải trích nộp một
phần tiền lương hoặc từ các nguồn thu khác vào ngân sách nhà nước sau khi đã
tính các khoản được giảm trừ.
Theo đó, thuế TNCN được xây dựng trên nguyên tắc công bằng và khả năng nộp
thuế. Thuế thu nhập cá nhân không đánh vào những cá nhân có thu nhập thấp, vừa
đủ ni sống bản thân và gia đình ở mức cần thiết.
Do đó việc nộp thuế thu nhập cá nhân cũng góp phần làm giảm hợp lý khoảng cách
chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư.
1.2 Đặc điểm thuế thu nhập cá nhân:
+ Thuế thu nhập cá nhân là một hình thức động viên mang tính bắt buộc trên
nguyên tắc theo luật định. Phân phối khoản thu nhập qua thuế thu nhập cá nhân
gắn với quyền lực, sức mạnh của Nhà nước.
+ Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp khơng hồn trả trực tiếp cho người
nộp. Nó vận động một chiều, không phải là khoản thù lao mà người nộp thuế phải
trả cho Nhà nước do được hưởng các dịch vụ Nhà nước cung cấp.
+ Thuế thu nhập cá nhân luôn gắn với chính sách xã hội của mỗi quốc gia. hầu hết
các quốc gia đều gắn chính sách thuế thu nhập cá nhân với một số chính sách xã
hội khác ( như phúc lợi cơng cộng, chăm sóc sức khỏe…).


+ Thuế thu nhập cá nhân là thuế trực thu. Do vậy, người nộp thuế cũng là người
chịu thuế.
+ Thuế thu nhập cá nhân có diện thu thuế rất rộng, tất cả các cá nhân có thu nhập
bao gồm: cơng dân nước sở tại và người nước ngoài cư trú thường xun hay
khơng thường xun tại nước đó và hầu như tất cả số thu nhập có được của các cá
nhân đều phải tính thuế khơng kể nguồn thu nhập phát sinh trong nước hay ngồi


nước. Chính vì vậy, khả năng tạo nguồn thu cho ngân sách của thuế thu nhập cá
nhân rất cao.
+ Việc đánh thuế thu nhập cá nhân thường áp dụng theo nguyên tắc thuế suất lũy
tiến từng phần. Đặc điểm này xuất phát từ vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá
nhân là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, góp phần thực hiện công bằng xã
hội. Do vậy, việc sử dụng thuế suất lũy tiến từng phần sẽ đáp ứng được nhu cầu đó
vì phần thu nhập tăng thêm càng cao thì sẽ phải tính thuế suất càng cao.
+ Xét về góc độ kinh tế, thuế thu nhập cá nhân có tính trung lập cao hơn so với các
loại thuế khác vì việc tăng hay giảm thuế thu nhập cá nhân hầu như không kéo theo
những biến đổi về cơ cấu kinh tế[1].
2. Các khoản thu nhập chịu thuế
Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây, trừ thu
nhập được miễn thuế quy định tại Điều 4 của Luật này:
2.1 Thu nhập từ kinh doanh, bao gồm:
a) Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ;
b) Thu nhập từ hoạt động hành nghề độc lập của cá nhân có giấy phép hoặc
chứng chỉ hành nghề theo quy định của pháp luật.


2.2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công, bao gồm:
a) Tiền lương, tiền cơng và các khoản có tính chất tiền lương, tiền công;
b) Các khoản phụ cấp, trợ cấp, trừ các khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định
của pháp luật về ưu đãi người có cơng, phụ cấp quốc phòng, an ninh, phụ cấp độc
hại, nguy hiểm đối với những ngành, nghề hoặc công việc ở nơi làm việc có yếu tố
độc hại, nguy hiểm, phụ cấp thu hút, phụ cấp khu vực theo quy định của pháp luật,
trợ cấp khó khăn đột xuất, trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trợ cấp một
lần khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi, trợ cấp do suy giảm khả năng lao động,
trợ cấp hưu trí một lần, tiền tuất hàng tháng, trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm
theo quy định của Bộ luật lao động, các khoản trợ cấp khác do Bảo hiểm xã hội chi
trả, trợ cấp giải quyết tệ nạn xã hội;

c) Tiền thù lao dưới các hình thức;
d) Tiền nhận được từ tham gia hiệp hội kinh doanh, hội đồng quản trị, ban
kiểm soát, hội đồng quản lý và các tổ chức;
đ) Các khoản lợi ích khác mà đối tượng nộp thuế nhận được bằng tiền hoặc
không bằng tiền;
e) Tiền thưởng, trừ các khoản tiền thưởng kèm theo các danh hiệu được Nhà
nước phong tặng, tiền thưởng kèm theo giải thưởng quốc gia, giải thưởng quốc tế,
tiền thưởng về cải tiến kỹ thuật, sáng chế, phát minh được cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cơng nhận, tiền thưởng về việc phát hiện, khai báo hành vi vi phạm
pháp luật với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
2.3. Thu nhập từ đầu tư vốn, bao gồm:
a) Tiền lãi cho vay;
b) Lợi tức cổ phần;


c) Thu nhập từ đầu tư vốn dưới các hình thức khác, trừ thu nhập từ lãi trái
phiếu Chính phủ.
2.4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, bao gồm:
a) Thu nhập từ chuyển nhượng phần vốn trong các tổ chức kinh tế;
b) Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán;
c) Thu nhập từ chuyển nhượng vốn dưới các hình thức khác.
2.5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản, bao gồm:
a) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất;
b) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền sở hữu hoặc sử dụng nhà ở;
c) Thu nhập từ chuyển nhượng quyền thuê đất, thuê mặt nước;
d) Các khoản thu nhập khác nhận được từ chuyển nhượng bất động sản.
2.6. Thu nhập từ trúng thưởng, bao gồm:
a) Trúng thưởng xổ số;
b) Trúng thưởng trong các hình thức khuyến mại;
c) Trúng thưởng trong các hình thức cá cược, casino;

d) Trúng thưởng trong các trị chơi, cuộc thi có thưởng và các hình thức
trúng thưởng khác.
2.7. Thu nhập từ bản quyền, bao gồm:
a) Thu nhập từ chuyển giao, chuyển quyền sử dụng các đối tượng của quyền
sở hữu trí tuệ;
b) Thu nhập từ chuyển giao công nghệ.
2.8. Thu nhập từ nhượng quyền thương mại.


2.9. Thu nhập từ nhận thừa kế là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh
tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng
ký sử dụng.
2.10. Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức
kinh tế, cơ sở kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc
đăng ký sử dụng.
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Điều này.
2. Cơ sở lý thuyết về tuân thủ thuế
2.1. Khái niệm về tuân thủ thuế
Tuân thủ thuế là việc thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật
thuế. Tuân thủ thuế là hành vi bắt buộc đối với nhiều chủ thể khác nhau như cơ
quan quản lý thuế, NNT, các tổ chức, cá nhân khác có liên quan được quy định
trong các văn bản pháp luật về thuế. Trong đó, sự tuân thủ thuế của NNT luôn là
một vấn đề được quan tâm nhiều nhất.
Tuân thủ thuế của NNT thể hiện ở việc chấp hành đầy đủ, kịp thời và đúng đắn các
quy định của pháp luật thuế, cụ thể là việc chấp hành các tiêu chí thời gian, mức độ
chính xác trung thực và đầy đủ của các hoạt động đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế
và các nghĩa vụ khác về thuế của NNT . Tuân thủ thuế của NNT là việc NNT chấp
hành đầy đủ nghĩa vụ về thuế theo đúng luật định, bao gồm các hoạt động đăng ký
thuế, kê khai thuế, tính thuế và nộp thuế. Bất kỳ sự vi phạm nào xuất hiện ở một
trong các khâu trên đều dẫn đến sự không tuân thủ ở các mức độ khác nhau.

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là, như thế nào là “làm đúng theo luật định” nếu
như có cách hiểu, cách diễn đạt pháp luật thuế khác nhau giữa cơ quan quản lý thuế
và NNT? Theo Hướng dẫn thực hành của tổ chức OECD về đo lường mức độ tuân


thủ (2001), có một câu hỏi đã được đặt ra: “Mức độ tuân thủ được định nghĩa như
thế nào – đó có phải là sự tuân thủ theo cách diễn giải luật thuế và cách áp dụng
luật của CQT hay cách hiểu của NNT? Hay khái niệm này được định nghĩa theo
một cách trung lập hơn?”. CQT thường coi cách diễn đạt luật thuế của NNT khác
với cách diễn giải của họ là một bằng chứng của việc không tuân thủ, mà khơng
tính đến rằng thực tế luật thuế – như thường thấy ở các nước đang phát triển – có
thể thiếu tính thống nhất và minh bạch, hoặc trong luật có những quy định chưa rõ
ràng và có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Mặc dù cách định nghĩa mức độ
tn thủ (hay khơng tn thủ) vẫn cịn được tranh cãi nhiều nhưng những nguyên
nhân của sự không tuân thủ và những lý do dẫn đến thất thoát nguồn thu lại tương
đối rõ ràng về mặt lý thuyết.
Trốn thuế là biểu hiện quan trọng nhất của sự không tuân thủ. Những biểu
hiện hành vi này của NNT lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố có liên quan lẫn
nhau, cả yếu tố thuộc về cơ quan thuế (tính hiệu quả của quản lý thuế, tính liêm
chính và năng lực của cơng chức thuế…) lẫn yếu tố ngồi CQT (trách nhiệm giải
trình trong chi tiêu cơng, tham nhũng, quy mơ của nền kinh tế phi chính thức…).
Tránh thuế cũng làm giảm nghĩa vụ thuế của NNT, nhưng tránh thuế không
phải là hành vi vi phạm pháp luật thuế. Do vậy, có thể nói, tránh thuế khơng thuộc
phạm trù khơng tuân thủ thuế.
Như vậy, về mặt lý thuyết, việc trốn thuế và tránh thuế là khác nhau nhưng cả hai
đều dẫn tới thất thoát nguồn thu, khiến hệ thống thuế trở nên kém cơng bằng và
làm bóp méo sự cạnh tranh lành mạnh của thị trường. Những NNT bị coi là trốn
thuế khi họ sử dụng những cách thức phi pháp để không phải nộp đầy đủ nghĩa vụ
thuế của mình. Họ sẽ khơng kê khai, hoặc khai thiếu thu nhập, doanh thu hay tài
sản của mình, trong khi lại khai quá lên những khoản chi phí được trừ hay những

khoản được giảm trừ. Còn trong việc tránh thuế, NNT thường lợi dụng những khe
hở của pháp luật thuế để tối thiểu hóa số thuế phải nộp.


Trong thực tế có một số trường hợp rất khó phân định rạch ròi giữa hành vi
trốn thuế và tránh thuế. Đó chính là trường hợp quy định pháp luật thuế khơng rõ
ràng có nhiều cách hiểu khác nhau. Trong những trường hợp này nếu theo cách
hiểu của người nộp thuế là không vi phạm nhưng theo cách hiểu của cơ quan thuế
là vi phạm pháp luật.
Việc không tuân thủ thuế gây thất thốt nguồn thu có tác hại nghiêm trọng
đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nó tạo thêm nhiều khó khăn cho nền tài
chính của các quốc gia và thiếu hụt nguồn tài lực để các quốc gia đó có thể đạt
được các mục tiêu phát triển. Bên cạnh việc mất nguồn thu, hệ thống thuế có nguy
cơ trở nên bị bóp méo nhiều hơn nữa, làm gia tăng sự bất bình đẳng trong xã hội.
Ngược lại, nếu mức độ tuân thủ của NNT cao, làm giảm thất thốt sẽ có tác động
trực tiếp đến việc nâng cao hiệu quả quản lý thu của hệ thống thuế. Nó cho phép
một quốc gia có thể thu được một số thuế nhất định mà không cần phải thường
xuyên thay đổi chính sách thuế. Một chính sách thuế tương đối ổn định và toàn
diện với mức thuế suất thấp sẽ góp phần tăng hiệu quả và hiệu suất trong hoạt động
của CQT.
Tóm lại, có thể hiểu tuân thủ thuế của NNT là việc NNT chấp hành đầy đủ nghĩa
vụ về thuế theo đúng luật định, bao gồm các hoạt động đăng ký thuế, kê khai thuế,
tính thuế, nộp thuế và tuân thủ các yêu cầu khác về quản lý thuế theo quy định của
pháp luật.
2.2. Các tiêu chí đánh giá
2.2.1. Các tiêu chí định tính
Tính tuân thủ thuế của NNT bao giờ cũng được biểu hiện ra ngoài. Tuy vậy,
có những biểu hiện có thể định lượng và có những biểu hiện khơng thể định lượng.
Trong trường hợp tính tn thủ của NNT khơng thể định lượng được thì đó là các
tiêu chí định tính. Cụ thể như sẽ được phân tích dưới đây.



-

Thứ nhất, mức độ quan tâm và am hiểu của NNT đối với các quy định của pháp
luật thuế, nhất là các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ của NNT. Mức độ
quan tâm và am hiểu thể hiện NNT đã có những ý thức xử sự nhất định đối với các
quy định của pháp luật thuế. Họ phải tìm hiểu, nghiên cứu, áp dụng nhằm tuân thủ
đúng các quy định của pháp luật thuế. Khi NNT không quan tâm đến các quy định
của pháp luật thuế hoặc không am hiểu một cách tường tận các quy định này thì
khả năng xảy ra các hành vi khơng tn thủ là rất lớn. Tiêu chí này sẽ chịu sự ảnh
hưởng của trình độ dân trí, mức độ phức tạp hay đơn giản của chính sách pháp luật
thuế, nội dung và hình thức tuyên truyền, hỗ trợ NNT của CQT cũng như mức độ
xử phạt những hành vi gian lận, sai sót của NNT. Mặc dù khơng thể lượng hóa mức
độ quan tâm của NNT đối với các quy định pháp luật thuế, song có thể đánh giá
xem NNT có quan tâm hay khơng và quan tâm nhiều hay ít thông qua việc khảo sát

-

bằng bảng hỏi hoặc phỏng vấn trực tiếp NNT.
Thứ hai, sự tự nguyện hay miễn cưỡng trong tuân thủ thuế. Tiêu chí này cho thấy
NNT tuân thủ một cách miễn cưỡng hay tự nguyện pháp luật thuế. Nếu NNT tự
nguyện tuân thủ với tâm lý thoải mái trên cơ sở tự hào về nghĩa vụ thuế sẽ là tín
hiệu tốt hơn là trường hợp NNT tuân thủ vì thấy rằng nếu khơng tn thủ sẽ bị phát
hiện và xử phạt. Trong trường hợp NNT miễn cưỡng tuân thủ đúng quy định pháp
luật thuế thì nguy cơ vi phạm khi cho rằng có thể hành vi vi phạm không bị phát
hiện sẽ tăng lên. Mức độ tự nguyện hay miễn cưỡng trong tuân thủ thuế của NNT
mặc dù khó lượng hóa, song có thể đánh giá ở một chừng mực nhất định thông qua
khảo sát bằng bảng hỏi hoặc bằng sự quan sát trực tiếp hoặc thông qua phỏng vấn
NNT.

2.2.2 Các chỉ tiêu định lượng
Có nhiều cách xem xét mức độ tuân thủ thuế của NNT (như tuân thủ hành
chính và tuân thủ kỹ thuật; hay tuân thủ theo các nghĩa vụ của NNT: trong đăng ký


thuế, trong kê khai thuế, trong nộp thuế và trong thực hiện các quy định khác của
pháp luật thuế). Những yếu tố trên có thể định lượng được bằng con số cụ thể,
chẳng hạn như có bao nhiêu NNT khơng đăng ký thuế, có bao nhiêu NNT bị phát
hiện có gian lận qua thanh tra, kiểm tra thuế… Đây chính là các chỉ tiêu định lượng
đo lường mức độ tuân thủ thuế của NNT.

-

Chỉ tiêu đánh giá tổng quát về mức độ tuân thủ thuế
Trong quá trình thực thi và chấp hành các quy định của pháp luật thuế, để đánh

giá một cách chung nhất thực trạng tuân thủ thuế của NNT, các tiêu chí chủ yếu
được xem xét là số thuế thu được có đầy đủ, chính xác, kịp thời hay khơng? Có
tình trạng NNT khơng tn thủ hay không (trên tất cả các phương diện về nghĩa vụ
thuế)? Do đó, trên phương diện tổng quát và khả thi trong đo lường, chỉ tiêu phản
ánh tổng quát mức độ tuân thủ của NNT là:
Chỉ tiêu 1: Tỷ lệ giữa số NNT có hành vi vi phạm pháp luật thuế với tổng số
NNT đang quản lý hoặc được kiểm tra. Hành vi vi phạm pháp luật thuế sử dụng để
đo lường chỉ tiêu này là tất cả các loại hành vi vi phạm về thuế, từ vi phạm thủ tục
đến vi phạm về kê khai, tính thuế, nộp thuế… Chỉ tiêu này được xác định cho một
thời kỳ nhất định (tháng, quý, năm) tùy theo mục đích nghiên cứu. Tỷ lệ này càng
cao thì mức độ tuân thủ thuế càng thấp và ngược lại. Tuy nhiên, chỉ tiêu này một
mặt phản ánh mức độ tuân thủ của NNT, song mặt khác, chỉ tiêu này cũng phản
ánh tính hiệu quả trong công tác thanh tra, kiểm tra nhằm phát hiện các hành vi
khơng tn thủ của CQT.



Nhóm chỉ tiêu đánh giá mức độ tuân thủ thuế theo từng khía cạnh cụ thể

Thứ nhất, các chỉ tiêu về tuân thủ trong việc đăng ký thuế. Mức độ tuân thủ thuế
của NNT trong đăng ký thuế thể hiện ở việc NNT thực hiện kê khai đăng ký thuế
đúng mẫu biểu, chính xác các chỉ tiêu, nộp hồ sơ đăng ký thuế cho cơ quan quản lý


đúng thời hạn, đúng địa điểm. Do đó, chỉ tiêu định lượng để đánh giá tính tuân thủ
trong hoạt động này có thể dựa trên tỷ lệ hoặc số lượng NNT chấp hành đầy đủ các
yêu cầu nêu trên. Tuy nhiên, trong thực tế, các tiêu chí thường được sử dụng là tỷ
lệ/số lượng NNT có hành vi khơng tn thủ. Cụ thể như sau:
Chỉ tiêu 2: Tỷ lệ NNT vi phạm về thời gian đăng ký thuế so với tổng số đối
tượng phải đăng ký thuế. Tỷ lệ này được đo bằng tỷ lệ % giữa số NNT vi phạm về
thời gian đăng ký thuế (bao gồm cả số lượng NNT không đăng ký thuế, chưa đăng
ký thuế hay đăng ký thuế muộn so với quy định) so với tổng số đối tượng phải
đăng ký thuế. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ trong việc đăng ký thuế
chưa tốt.
Chỉ tiêu 3: Tỷ lệ NNT khai đăng ký thuế có sai sót, nhầm lẫn so với tổng số
NNT đã thực hiện đăng ký thuế. Việc khai hồ sơ khai thuế thông thường được quy
định theo các mẫu biểu và các chỉ tiêu có sẵn. Các chỉ tiêu đó là những thơng tin
quan trọng của NNT mà CQT phải nắm bắt để phục vụ cho công tác quản lý thuế
của mình. Nếu NNT kê khai khơng đúng, khơng chính xác theo mẫu biểu, theo chỉ
tiêu sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý thuế của CQT, do đó, việc kê khai khơng
chính xác này cũng là một chỉ tiêu xem xét tính tuân thủ của NNT. Chỉ tiêu này
càng thấp càng chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt và ngược lại.


Thứ hai, các chỉ tiêu về tuân thủ trong kê khai và tính thuế, gồm tuân thủ về nộp tờ

khai (hồ sơ, mẫu biểu, thời gian) và tuân thủ trong kê khai thuế (chính xác, đầy
đủ). Thuộc nhóm này gồm có các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu 4: Tỷ lệ giữa số tờ khai được nộp so với tổng số tờ khai phải nộp.
Các tờ khai được nộp bao gồm cả tờ khai nộp đúng hạn và tờ khai chậm nộp. Nếu
chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn.
Chỉ tiêu 5: Tỷ lệ giữa số tờ khai nộp đúng hạn trên tổng số tờ khai đã được
nộp. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ tuân thủ thuế tốt hơn.


Chỉ tiêu 6: Tỷ lệ số tờ khai có sai sót trên tổng số tờ khai thuế đã nộp. Chỉ
tiêu này phản ánh sự tuân thủ về hình thức mẫu biểu kê khai của NNT. Chỉ tiêu này
càng thấp càng tốt.
Chỉ tiêu 7: Tỷ lệ số NNT kê khai sai thuế được phát hiện so với tổng số NNT
được thanh tra, kiểm tra. Chỉ tiêu này một mặt phản ánh tính hiệu quả của hoạt
động thanh tra, kiểm tra của CQT. Mặt khác, chỉ tiêu này cũng phản ánh mức độ
tuân thủ trong kê khai xác định số thuế phải nộp của NNT. Giả định tính hiệu quả
của hoạt động thanh tra, kiểm tra thuế khơng đổi thì chỉ tiêu này càng thấp càng
chứng tỏ NNT tuân thủ tốt.
Chỉ tiêu 8: Tỷ lệ số NNT bị phát hiện trốn thuế so với tổng số NNT được
thanh tra, kiểm tra. Tương tự như chỉ tiêu 7, chỉ tiêu này một mặt phản ánh tính
hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra của CQT. Mặt khác, chỉ tiêu này cũng
phản ánh mức độ tn thủ trong tính tốn nghĩa vụ thuế phải nộp của NNT. Sự
khác biệt của chỉ tiêu 7 so với chỉ tiêu 8 là tính chất của hành vi khác nhau. Với chỉ
tiêu 7, NNT vẫn phản ánh trên sổ sách kế toán nhưng kê khai sai căn cứ tính thuế.
Với chỉ tiêu 8, NNT cố tình gian lận thuế. Giả định tính hiệu quả của hoạt động
thanh tra, kiểm tra thuế khơng đổi thì chỉ tiêu này càng thấp càng chứng tỏ NNT
tuân thủ tốt.
Các chỉ tiêu trong nhóm phản ánh tính tn thủ về kê khai, tính thuế này (từ chỉ
tiêu 4 đến chỉ tiêu 8) có thể tính tốn cho từng sắc thuế hoặc cho tất cả các sắc
thuế. Tùy theo mục đích và điều kiện nghiên cứu mà người nghiên cứu sử dụng

nhóm chỉ tiêu này để nghiên cứu cho một sắc thuế hoặc nhiều sắc thuế.


Thứ ba, các chỉ tiêu về tuân thủ trong nộp thuế. Nói đến mức độ tuân thủ trong nộp
thuế là nói đến việc nộp thuế đúng hạn, nộp đủ số thuế phải nộp.
Chỉ tiêu 9: Tỷ lệ số NNT đúng hạn trên tổng số NNT có số thuế phải nộp
trong kỳ tính thuế. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ NNT tuân thủ tự giác trong việc đảm


bảo thời hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ
mức độ tuân thủ thuế tốt hơn.
Chỉ tiêu 10: Tỷ lệ giữa số thuế được nộp đúng hạn trên tổng số thuế phải nộp
theo nghĩa vụ thuế của NNT. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ số thuế đã được NNT đảm
bảo thời hạn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ mức độ
tuân thủ thuế tốt hơn.
Chỉ tiêu 11: Tỷ lệ giữa số thuế nợ so với tổng số thuế phải nộp hoặc so với
tổng số thuế ghi thu trong kỳ tính thuế. Nếu chỉ tiêu này thấp chứng tỏ mức độ tuân
thủ thuế tốt hơn.
Tương tự như các chỉ tiêu thuộc nhóm tuân thủ về kê khai, tính thuế, các chỉ tiêu
thuộc nhóm tn thủ nộp thuế (các chỉ tiêu 9, 10, 11) có thể được tính tốn áp dụng
cho tất cả các sắc thuế hoặc từng sắc thuế. Tùy theo từng mục đích nghiên cứu và
đối tượng nghiên cứu mà áp dụng cho tất cả NNT hoặc cho từng người NNT để
đánh giá mức độ tuân thủ trong nộp thuế nói chung hoặc từng sắc thuế, từng NNT
nói riêng.


Thứ tư, các chỉ tiêu về tn thủ trong chấp hành các quy định khác về thuế. Bên
cạnh các nghĩa vụ chính về thuế như đăng ký, kê khai thuế và nộp thuế nêu trên,
trong quá trình tuân thủ thuế, NNT còn phải thực hiện các nội dung công việc theo
các quyết định của cơ quan quản lý thuế. Các quyết định hành chính của cơ quan

quản lý thuế đối với NNT có thể kể đến như quyết định ấn định thuế; quyết định về
tiến hành thanh tra, kiểm tra thuế; quyết định xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra thuế;
quyết định cưỡng chế thuế; quyết định xử phạt về thuế… Ngồi ra, CQT có thể có
những u cầu đối với NNT trong q trình quản lý thuế như yêu cầu cung cấp hồ
sơ, thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế; yêu cầu thực hiện áp dụng
công nghệ thông tin trong quản lý thuế (khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử…); yêu
cầu về sử dụng hóa đơn, chứng từ, sổ sách kế tốn… Do đó, các chỉ tiêu định
lượng đánh giá mức độ tuân thủ thuế của NNT cũng có thể được xác định trên cơ


sở mức độ hay tỷ lệ tuân thủ của NNT đối với các quyết định, các yêu cầu nói trên
của CQT. Tuy nhiên, các chỉ tiêu này có thể được xem là hệ quả của các chỉ tiêu
chính nêu trên. Vì vậy, chỉ cần quan tâm, xác định được các chỉ tiêu chính nêu trên
là có thể đánh giá được đầy đủ mức độ tuân thủ thuế của NNT
II:Thực trạng các nhân tố ảnh hưởng đến tuân thủ thuế của người nộp thuế
ở Việt Nam giai đoạn 2011-2019
1.
-

Theo chủ quan ( Người nộp thuế)
Trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của người dân trong thời gian qua cũng đã có

-

sự tăng lên nên việc tuân thủ pháp luật và tuân thủ thuế tốt hơn.
Bên cạnh đó thời gian qua mặc dù khơng ít khó khăn nhưng nền kinh tế Việt Nam
đã có những bước tiến nhất định, thu nhập của người dân cũng có sự gia tăng.
Cùng với đó đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn
trong việc tiếp nhận các dịch vụ kinh tế, xã hội, giáo dục từ đó mà tình hình tuân


-

thủ thuế của người nộp thuế cũng tăng lên.
Tuy nhiên xét trên một cách tổng thể, NNT ở Việt Nam vẫn chưa thực sự hiểu một
cách đầy đủ, sâu sắc về trách nhiệm nghĩa vụ đối với NSNN và đặc biệt là quyền
thụ hưởng lợi ích từ tiền thuế do mình đóng góp, nên ý thức tn thủ thuế của họ
chưa cao, Số lượng người nộp thuế tự triển khai các luật thuế theo đúng quy định
chiếm tỷ lệ không cao, nên phần lớn người nộp thuế sẽ gặp khó khan trong khai
thuế, nộp thuế nếu khơng có sự hỗ trợ và hướng dẫn cụ thể của cơ quan thuế và cán

2.
2.1.
-

bộ thuế.
Theo khách quan
Chính sách, pháp luật thuế
Trước khi có luật quản lý thuế, các quy định về quản lý thuế, các thủ tục về thuế
được quy định rải rác trong các văn bản pháp luật về thuế, khơng thống nhất và
thiếu tính pháp lý. Điều này khơng chỉ gây ra khó khăn cho cơ quan thuế trong q
trình tổ chức quản lý thu thuế mà cịn cản trở lớn đến việc tuân thủ thuế của NNT.
Trong điều kiện đó, Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 được ban hành ngày


28/11/2006, có hiệu lực từ 01/07/2007 nhằm quy định tất cả các nội dung về quản
lý thuế vào trong một luật để đảm bảo tính pháp lý và tính thống nhất của các quy
-

định về công tác quản lý thuế ở Việt Nam.
Luật quản lý thuế còn được tiếp tục hồn thiện thơng qua q trình sửa đổi, bổ

sung theo các luật số 21/2012/QH13 ngày 20/11/2012, Luật số 71/2014/QH13

-

ngày 26/11/2014, luật số 106/2016/QH13 ngày 06/04/2016.
Qua 10 năm triển khai thực hiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, Luật
quản lý thuế cơ bản đã đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó nổi bật là những nội dung
sau:
+ Cải cách thủ tục hành chính thuế, thống nhất các quy định về thủ tục và quản lý
thuế từ các luật thuế khác nhau, tạo ra một hệ thống pháp luật về quản lý thuế đồng
bộ, công khai đối với NNT, tạo điều kiện thuận lợi cho NNT khi thực hiện tuân thủ
nghĩa vụ thuế.
+ Nâng cao tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của NNT thông qua nguyên tắc tự
tính, tự khai, tự nộp thuế.
+ Tạo hành lang pháp lý, quy định xử lý vi phạm pháp luật về thuế nhất quán, bước
đầu đã tạo điều kiện công bằng cho NNT. Từ đó thúc đẩy nâng cao tính tuân thủ
thuế của NNT.
Bên cạnh những kết quả đạt được hành lang pháp lý còn những hạn chế nhất định
ảnh hưởng không tốt đến hành vi tuân thủ của NNT.
Luật thuế TNCN được ban hành nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối chính
sách của Đảng và nhà nước về lĩnh vực tài chính theo Nghị quyết đại hội Đảng IX
và X. Đồng thời việc ban hành luật thuế này nhằm tăng cường cơng tác kiểm sốt,
phân phối thu nhập và điều tiết vĩ mô kinh tế- xã hội và hồn thiện hệ thống chính
sách thuế, đáp ứng u cầu phát triển kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế
trong thời gian tới của Việt Nam.
Luật thuế TNCN là luật thuế có tác động trực tiếp đến đời sống của các tầng lớp
dân cư. Việc ra đời và hồn thiện dần của luật thuế này đã có các tác động quan


trọng trong đảm bảo nguồn thu NSNN, điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã

hội.
Phương pháp thu thuế
Luật thuế TNCN tiếp tục áp dụng phương pháp thu khấu trừ tại nguồn thông qua

2.2.

các đơn vị chi trả thu nhập và không được hưởng thù lao, đây là công cụ thu thuế
hiệu quả của thuế TNCN. Theo quy định của luật quản lý thuế thì việc khấu trừ
thuế thuộc trách nhiệm của các đơn vị chi trả thu nhập, nếu có phát sinh các khoản
thu nhập phải khấu trừ thuế mà tổ chức chi trả không khấu trừ thuế khi cơ quan
thuế phát hiện thì sẽ truy thu thuế các tổ chức chi trả.
Công tác quản lý thu thuế
Cục thuế đã tổ chức quản lý thu thuế chặt chẽ và hiệu quả hơn như tổ chức triển

2.3.

khai chính sách thuế cho người nộp thuế hiểu để thực hiện kê khai nộp thuế đầy đủ
vào ngân sách nhà nước, thực hiện cấp mã số thuế để quản lý đối tượng nộp thuế
được tốt hơn. Đồng thời hiện đại hóa trong cơng tác quản lý thu thuế đã giúp cho
Cục thuế xây dựng cơ sở dữ liệu người nộp thuế để tạo thuận lợi trong cơng tác


hành thu.
Như vậy sau khí áp dụng thuế TNCN từ tiền lương tiền công đã tăng thu ngân sách
hợp lí. Mục tiêu quan trọng nhất của cải cách thuế là tăng thu cho ngân sách nhà
nước nhưng mức tăng thu phải hợp lí để người dân quen dần với việc đóng thuế
thu nhập, tạo tâm lý bình thường trong xã hội, từng bước xây dựng cơ sở dữ liệu để
quản lý người nộp thuế từ đó hồn thiện chính sách thuế. Nếu luật thuế thu cao
ngay từ đầu để tăng thu ngân sách sẽ tạo tâm lý khơng tốt trong nhân dân và người
dân sẽ tím cách trốn thuế do đó sẽ gây khó khăn cho việc quản lý thu thuế sau này.


III: Những yếu tố tác động tới sự tự nguyện nộp thuế TNCN


1. Những yếu tố tác động
a.Sự phức tạp trong chính sách
Ngày 20/11/2007 tại kì họp thứ 2, Quốc hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XII thơng qua Luật thuế TNCN Luật này chính thức có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/01/2009.
Trong quá trình thực thi, Luật này đã phát sinh 1 số hạn chế nhất định và được
điều chỉnh bổ sung bởi Luật số 26/2012/QH13 của Quốc Hội. Qua thực tiễn triển
khai cho thấy, quy định tại Luật thuế cơ bản phù hợp với thực tiễn phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước nên đã phát huy được những tác động tích cực.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế,
cùng với sự biến động nhanh chóng của kinh tế - chính trị thế giới nói chung và
nền kinh tế Việt Nam nói riêng, chính sách về thuế TNCN đã bộc lộ những hạn chế
cần phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo phù hợp với thực tế tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
Về thuế TNCN, một số quy định tại Luật thuế TNCN hiện hành cịn phức tạp,
phát sinh thủ tục hành chính, chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế và khó khăn
trong quản lý thuế; chưa có chính sách thuế phù hợp nhằm thu hút cá nhân là nhân
lực công nghệ cao…cụ thể:
Thứ nhất, những hạn chế về quy định giảm trừ gia cảnh.
Chính sách thuế TNCN hiện hành mới chỉ quy định giảm trừ gia cảnh áp dụng
đối với cá nhân có thu nhập từ kinh doanh và thu nhập từ tiền lương, tiền cơng, cịn
cá nhân có các loại thu nhập khác không được áp dụng mức giảm trừ gia cảnh.
Điều này làm nảy sinh sự bất bình đẳng khi có thu nhập chịu thuế được giảm trừ
gia cảnh, có thu nhập chịu thuế không được giảm trừ gia cảnh.



Bảng 1: Tỷ lệ chịu thuế đối với thu nhập từ tiền lương tương ứng
với

các mức thu nhập khác nhau.

Bậc thuế
1
2
3
4
5
6
7

Thu nhập tính
thuế cả năm
(ng.đ)
60.000
120.000
216.000
384.000
624.000
960.000
1.000.000

Tốc độ tăng
khoảng cách
bậc thuế (%)
100
200

180
178
163
154

Thuế suất (%)

Thuế
TNCN
phải nộp (ng.đ)

Tỷ lệ chịu thuế
(%)

5
10
15
20
25
30
35

250
750
1.950
4.750
9.750
18.150
`19.550


5,00
7,05
10,83
14,84
18,75
22,69
19,55

Tuy nhiên, trong thực tế ở các nước đang phát triển – trong đó có Việt Nam – ý
thức chấp hành pháp luật chưa cao, đồng thời, việc kiểm tra tính xác thực của các
thơng tin mà người nộp thuế kê khai là khó có thể thực hiện. Quy định về đối
tượng được giảm trừ được thiết lập đã thực hiện rất tốt mục tiêu đảm bảo tính
cơng bằng theo chiều ngang cho các đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, việc quy định
cho các đối tượng được coi là người phụ thuộc quá rộng có thể làm xói mịn cơ sở
tính thuế và tạo ra những bất công bằng theo chiều ngang cho các đối tượng nộp
thuế.
Ví dụ: Từ tháng 01/2015 đến tháng 4/2015 bà E khơng có thu nhập từ tiền
lương, tiền cơng. Từ tháng 5/2015 đến tháng 12/2015 bà E có thu nhập từ tiền
cơng, tiền lương do kí hợp đồng lao động trên 03 tháng tại Công ty A. Như vậy,
trong năm 2015 bà E được tạm tính giảm trừ gia cảnh cho bản thân từ tháng 5/2015
đến hết tháng 12/2015 ( tương ứng với tháng có phát sinh thu nhập). Nếu bà E thực
hiện quyết tốn thuế thì bà E được tính giảm trừ cho bản thân đủ 12 tháng.
Thứ hai, biểu thuế thu nhập lũy tiến từng phần đối với tiền lương, tiền công thiết
kế chưa hợp lý.


Chính sách thuế TNCN ở nước ta quy định áp dụng Biểu thuế lũy tiến từng phần
đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công nhằm giảm khoảng cách chênh lệch về
thu nhập giữa cá nhân có thu nhập cao và cá nhân có thu nhập thấp.
Tuy nhiên, Biểu thuế lũy tiến từng phần hiện hành cũng bộc lộ những bất cập

nhất định: Số lượng bậc thuế nhiều nên mức độ giãn cách giữa các bậc thuế chưa
hợp lí; Mức khởi điểm nộp thuế thấp nên đại đa số người có thu nhập từ tiền lương,
tiền cơng thấp phải chịu thuế TNCN, trong khi mức điều tiết thu nhập của người có
thu nhập cao chưa nhiều, dẫn đến khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa người
có thu nhập cao và người có thu nhập thấp ngày càng lớn.
Bảng 2: Đề xuất biểu thuế lũy tiến từng phần đối với tổng thu nhập
Bậc
1
2
3
4

Thu nhập tính thuế cả
năm (tr.đ)
Đến 120
Từ 120 đến 600
Từ 600 đến 960
Trên 960

Thu nhập tính thuế bình
qn tháng (tr.đ)
Đến 10
Từ 10 đến 50
Từ 50 đến 80
Trên 80

Thuế suất (%)
10
20
30

35

Đối với mức khởi điểm áp dụng thuế suất 5% chỉ áp dụng đối với thu nhập đến
tính thuế từ 5.000.000đ/tháng, song theo số liệu thực tế, có đến trên 70% số lượng
đối tượng nộp thuế TNCN rơi vào bậc này với số thuế phải nộp không lớn, chỉ
chiếm khoảng 10% tổng số thuế TNCN. Điều này cho thấy, sự bất bình đẳng giữa
bậc 1 với các bậc thuế khác trong nhóm thu nhập từ tiền lương, tiền cơng.
Thứ ba, chưa có chính sách phù hợp thu hút cá nhân là nhân lực công nghệ cao.
Giam thuế TNCN cho lao động chất lượng cao sẽ tạo cơ chế khuyến khích, thu
hút nhân lực chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp
4.0, giúp các doanh nghiệp nước ta “ đi tắt đón đầu” để có thể cạnh tranh với các
nước phát triển.


Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp cho biết đang gặp khó khăn, vướng mắc, chưa có
cơ chế, chính sách, chế độ đãi ngộ vượt trội để thu hút các chuyên gia có trình độ
chun mơn cao đến làm việc.
Việc ban hành chính sách ưu đãi TNCN cho nhân lực cơng nghệ cao là 1 trong
những giải pháp quan trọng thu hút nhân lực cơng nghệ cao, khuyến khích sự phát
triển của ngành công nghệ cao ở Việt Nam bởi để thu hút nhân lực và người tài,
điều đầu tiên phải có là chính sách thuế hợp lý.
Theo các chuyên gia, song song với chính sách giảm thuế, thu nhập người lao
động chắc chắn sẽ cao hơn trước, doanh nghiệp công nghệ thơng tin lại khơng mất
thêm chi phí. Do đó, doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi gián tiếp từ chính sách này
khi có thêm sản phẩm chất lượng mà giá thành lại không thay đổi, giúp nâng cao
sức cạnh tranh trên thị trường.
b. Công tác thanh tra, kiểm tra
Việc thanh tra kiểm tra thuế phải tuân theo các nguyên tắc sau đây:
-Thực hiện trên cơ sở phân tích thơng tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế,
đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng

cứ để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế.
-Khơng cản trở hoạt động bình thường của người nộp thuế.
-Tuân thủ quy định của Luật quản lý thuế và các quy định của pháp luật có liên
quan.
*Kiểm tra thuế
Hoạt động kiểm tra thuế tuân thủ theo nguyên tắc quy định tại Điều 75 Luật
quản lý thuế và tuân theo quy trình về kiểm tra thuế tại quyết định số 746/QĐ-TCT
ngày 20/4/2015 của Tổng cục thuế.


Theo đó, kiểm tra thuế sẽ được tiến hành tại trụ sở của cơ quan thuế thì cơng
chức thuế thực hiện việc kiểm tra nội dung kê khai trong hồ sơ thuế, đối chiếu với
cơ sở dữ liệu của người nộp thuế và tài liệu có liên quan về người nộp thuế, so
sánh với dữ liệu của người nộp thuế cùng ngành nghề, mặt hàng kinh doanh để
phân tích đánh giá tính tuân thủ hoặc phát hiện các trường hợp khai chưa đầy đủ
dẫn tới việc thiếu thuế hoặc, gian lận thuế.
Kiểm tra thuế tại trụ sở người nộp thuế chỉ được thực hiện khi có quyết định
kiểm tra thuế tại trụ sở người nơp thuế. Người nơp thuế có quyền từ chối việc kiểm
tra khi khơng có quyết định kiểm tra thuế.
Kết quả kiểm tra là cơ sở để xử lý các vi phạm ( nếu có) và buộc các đối tượng
vi phạm thực hiện nghĩa vụ của mình.
Bên cạnh đó, cơ quan quản lý thuế thường xuyên cập nhật các kết quả kiểm tra
vào cơ sở dữ liệu quản lý đối tượng nộp thuế, làm căn cứ phục vụ cơng tác kiểm
sốt khi thực hiện các nghĩa vụ về thuế cho các lần tiếp theo.
*Thanh tra thuế
Nguyên tắc cơ bản của công tác thanh tra thuế cũng là thực hiện trên cơ sở phân
tích thơng tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế, đánh giá việc chấp hành pháp
luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ để xác định hành vi vi
phạm pháp luật về thuế và khơng cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ
chức, cá nhân là người nộp thuế.

Mục đích chính của cơng tác thanh tra thuế là giải quyết khiếu nại, tố cáo và
đánh giá tính tuân thủ pháp luật của đối tượng nộp thuế. Thanh tra thuế TNCN theo
Điều 81 Luật Quản lý thuế và Thông tư 156/2013/TT-BTC thì chỉ thanh tra đối với
trường hợp có dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế, chỉ được tiến hành thanh tra khi có
căn cứ xác định người nộp thuế khai thiếu nghĩa vụ nộp thuế, trốn thuế, gian lận


thuế nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc lập kế hoạch thanh
tra phải dựa trên cơ sở phân tích thơng tin về người nộp thuế, từ đó phát hiện lập
danh sách người nộp thuế có dấu hiệu bất thường trong việc thực hiện nghĩa vụ
thuế để lựa chọn đối tượng lập kế hoạch thanh tra. Kế hoạch thanh tra bao gồm các
nội dung chủ yếu sau đây: đối tượng thanh tra, kì thanh tra, loại thuế thuộc diện
thanh tra, thời gian dự kiến tiến hành thanh tra.
c. Mức phạt
Người nộp thuế TNCN có trách nhiệm nộp thuế theo đúng thời hạn quy định,
nếu chậm nộp thuế thì sẽ xử phạt hành chánh tính theo số ngày chậm nộp.
Mức tiền chậm nộp thuế TNCN được xác định dựa trên số ngày chậm nộp và
căn cứ vào mốc thời gian mà có cách xác định tiền chậm nộp thuế thu nhập cá
nhân khác nhau.
Theo điểm a, điểm b khoản 2 Điều 34 Thông tư 156/2013/TT-BTC được sửa đổi,
bổ sung tại Thông tư số 130/2016/TT-BTC, các xác định tiền chậm nộp tiền thuế
TNCN cụ thể:
-Đối với khoản tiền thuế nợ phát sinh từ ngày 01/7/2016 cho đến nay thì tiền chậm
nộp được tính như sau:
Số tiền phạt = Số tiền thuế chậm nộp x 0,03% x Số ngày chậm nộp
-Đối với khoản tiền thuế nợ phát sinh trước ngày 01/7/2016 nhưng sau ngày
01/7/2016 vẫn chưa nộp thì tính theo các trường hợp sau:
Trường hợp 1: Trước ngày 01/01/2015 mức phạt chậm nộp tiền thuế được tính như
sau:
Nếu số ngày chậm nộp nhỏ hợn 90 ngày thì số tiền phạt được xác định bằng:



Số tiền phạt = Số tiền thuế chậm nộp x 0,05% x số ngày chậm nộp
Nếu số ngày chậm nộp lớn hơn 90 ngày thì số tiền phạt được xác định như sau:
Số tiền phạt = Số tiền thuế chậm nộp x 0,07% x Số ngày chậm nộp – 90 ngày
Trường hợp 2: Từ ngày 01/01/2015 đến ngày 30/6/2016 thì số tiền phạt được xác
định bằng:
Số tiền phạt = Số tiền thuế chậm nộp x 0,05% x Số ngày chậm nộp
Ngày nghỉ cũng được tính vào số ngày chậm nộp thuế
Cũng theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 34 Thông tư trên, số ngày chậm
nộp tiền thuế bao gồm cả ngày lễ, ngày nghỉ được tính từ ngày liền kề sau ngày
cuối cùng của thời hạn nộp thuế, thời hạn gia hạn nộp thuế, thời hạn nộp thuế ghi
trong thông báo hoặc quyết định xử lý vi phạm pháp luật về thuế…
Như vậy, cần lưu ý không chỉ ngày làm việc mà ngày nghỉ, ngày lễ theo quy
định cũng được tính vào số ngày chậm nộp thuế.
Ví dụ: Người nộp thuế C nợ thuế TNCN 05 triệu đồng, có hạn nộp là ngày
20/2/2013. Ngày 26/2/2013, người nộp thuế nộp số tiền trên vào ngân sách nhà
nước. Số ngày chậm nộp là 06 ngày, được tính từ ngày 21/2/2013 đến ngày
26/2/2013.
d. Tính cơng bằng

Cơng bằng là địi hỏi khách quan từ phía người nộp thuế vì đây chính là giá mà
họ phải trả có tính chất bắt buộc cho những hàng hố và dịch vụ cơng cộng. Một hệ
thống thuế q bất cơng có thể là một phần ngun nhân gây ra các biến động
chính trị như cách mạng Pháp, Hoa Kỳ[1]. Nói về vấn đề cơng bằng trong đánh


thuế trong lịch sử nghiên cứu kinh tế cũng như nghiên cứu đánh thuế đã được đề
cập nhiều. Tuy nhiên, chưa có bất kỳ một khái niệm cụ thể rõ ràng thế nào là “công
bằng “ trong đánh thuế. Những nghiên cứu chỉ dừng lại ở quan điểm, học thuyết,

có thể tìm thấy tính chất cơng băng của thuế trong quan điểm của Aristotel hay
Adamsmith hay trong khoa học kinh tế.
Tính cơng bằng trong Luật Thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam
Thuế thu nhập cá nhân hiện nay được điều chỉnh bởi các văn bản bao gồm Luật
Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 sửa đổi bổ sung năm 2012 và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của các Luật về thuế năm 2014. Luật Thuế thu nhập cá nhân
được xây dựng dựa trên tính cơng bằng của thuế đặc biệt nguyên tắc khả năng nộp
thuế. Điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ

nhất,

quy

định

về

người

nộp

thuế

Điều 2 Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định về đối tượng nộp thuế bao gồm cá
nhân cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá
nhân khơng cư trú có thu nhập chịu thuế phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam. Như
vậy, ngay trong quy định về đối tượng nộp thuế cũng đã thể hiện được tính cơng
bằng khi phân chia đối tượng cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú. Xuất phát từ
nguyên tắc đánh thuế theo lãnh thổ và đánh thuế theo thu nhập phát sinh, việc Luật

Thuế thu nhập cá nhân phân chia hai đối tượng này hoàn toàn hợp lý và phù hợp
với quy định của các nước trên thế giới như Malaysia, Indonesia…cũng như phù
hợp với thông lệ quốc tế nhằm tránh đánh thuế nhiều lần đối với cùng một thu
nhập.
Thứ

hai,

quy

định

về

thu

nhập

chịu

thuế

Đối tượng đánh thuế của thuế thu nhập cá nhân là thu nhập nhận được trong kỳ
tính thuế. Mục tiêu đánh thuế công bằng là một cá nhân nhận được thu nhập từ các
nguồn khác nhau sẽ bị đánh thuế giống nhau. Các nhà kinh tế đều nhất trí rằng thu


nhập tồn diện bao gồm khơng chỉ là thu nhập bằng tiền mà còn bao gồm cả thu
nhập vốn và thu nhập khác. Vì vậy, cần có một số điều chỉnh để chuyển đổi mọi
khoản thu nhập không bằng tiền sang thu nhập bằng tiền khi xác định thu nhập

toàn diện trong xác định thu nhập chịu thuế. Quan niệm về thu nhập phản ánh
chính xác khả năng trả thuế
Thứ

ba,

quy

định

về

thu

nhập

miễn

thuế

Mặc dù Luật thuế thu nhập cá nhân quy định cá nhân có thu nhập cao và đáp ứng
điều kiện theo quy định phải nộp thuế. Tuy nhiên, không phải mọi đối tượng và
mọi loại thu nhập đều phải chịu thuế. Sự công bằng ở đây được thể hiện ở quy định
về thu nhập miễn thuế nhằm thể hiện được chính sách ưu đãi của Nhà nước, tránh
tình trạng “tận thu” đánh thuế vào sức người
Thứ

tư,

quy


định

về

giảm

trừ

gia

cảnh

Giảm trừ gia cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối
với thu nhập từ tiền lương, tiền cơng của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú. Sở
dĩ đặt ra khoản giảm trừ này chủ yếu xuất phát từ mục đích xã hội, tạo điều kiện
cho những người mang gánh nặng gia đình thực hiện được trách nhiệm của mình
cũng như tránh tình trạng “đánh vào sức người”, đồng thời khoản giảm trừ cịn có
ý nghĩa trong khuyến khích cá nhân tham gia một số hoạt động nhất định như đóng
góp từ thiện, nhân đạo... Quy định này thể hiện tính cơng bằng giữa những người
có thu nhập cao với nhau nhưng có những điều kiện, hồn cảnh gia đình khác
nhau . Cụ thể hố điều này tại Khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật thuế thu nhập cá nhân đã quy định mức giảm trừ như sau:
Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 9 triệu đồng/tháng (108 triệu
đồng/năm);
Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng.


Ngoài mức giảm trừ gia cảnh, Luật thuế thu nhập cá nhân còn quy định mức giảm
trừ đối với các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo.

e. Dịch vụ hỗ trợ thuế
Thuế là một vấn đề hết sức quan trọng và là mối quan tâm lớn trong quá
trình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải doanh
nghiệp nào cũng sở hữu đội ngũ kế toán giỏi, chuyên nghiệp để có thể cập nhật và
vận dụng linh hoạt các chính sách thuế như báo cáo tài chính, kê khai thuế … theo
đúng pháp luật.. Ngồi ra, trình độ của một bộ phận các kế toán còn yếu về nghiệp
vụ và kinh nghiệm nên chưa xử lý được kỹ càng. Do đó, dịch vụ tư vấn kê khai
thuế, hiện nay đang là dịch vụ mà rất nhiều cá nhân, doanh nghiệp quan tâm và
có nhu cầu sử dụng.
f. Sự thông thạo về thông tin của người nộp thuế
Người nộp thuế TNCN bao gồm: Cá nhân cư trú và cá nhân không cư trú.
Trong một số trường hợp cụ thể được xác định là: Cá nhân kinh doanh và Cá nhân
có thu nhập chịu thuế khác
Theo kết quả của cuộc thăm dị về sự thơng thạo thơng tin của người nộp
thuế vào đầu năm 2019 do Cục Thuế thực hiện thì đa số NNT tiếp cận được thơng
tin về thủ tục hành chính thuế, chính sách thuế dưới nhiều hình thức như: niêm yết
tại cơ quan thuế; gặp trực tiếp công chức hướng dẫn; nhận văn bản qua bưu điện;
tờ rơi hướng dẫn; hội nghị tập huấn, đối thoại; qua website của Tổng cục Thuế,
Cục Thuế tỉnh, email, tin nhắn điện thoại…

g. Thuế suất


×