Tải bản đầy đủ (.docx) (98 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế huyện hoành bồ, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.08 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------------------------------------

NGUYỄN ANH TÚ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ HUYỆN HOÀNH BỒ TỈNH QUẢNG NINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI, NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------------------------------------

NGUYỄN ANH TÚ

NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ HUYỆN HOÀNH BỒ TỈNH QUẢNG NINH

Chuyên ngành : Quản lý Kinh tế
Mã số

: 60 34 04 10

Luận văn thạc sĩ kinh tế

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS NGUYỄN HOÀNG LONG

Hà Nội, Năm 2019


3

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các tài liệu được sử dụng trong công trình đều có nguồn gốc rõ ràng. Những
đánh giá, nhận định trong công trình đều do cá nhân tôi nghiên cứu và thực
hiện.
Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn

Nguyễn Anh Tú


4

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn này, tôi đã nhận
được nhiều sự quan tâm, phối hợp giúp đỡ.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Hoàng
Long đã hướng dẫn tôi hoàn thành công trình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Giám hiệu cùng toàn thể Thầy, Cô giáo Trường
Đại học Thương mại đã truyền đạt, trang bị cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm
quý giá trong suốt thời gian học vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo huyện, các phòng, ban liên quan và một
số doanh nghiệp trên địa bàn huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh đã nhiệt tình giúp

đỡ tôi trong suốt quá trình thu thập số liệu để thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đồng nghiệp những
người đã luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ, cổ vũ và động viên tôi trong thời
gian học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2019
Tác giả luận văn


5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC BẢNG


7

DANH MỤC HÌNH


8

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hoành Bồ là một huyện nằm ở vùng trung tâm của tỉnh Quảng Ninh, có vai

trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của tỉnh, có vị trí chiến lược về kinh tế,
quốc phòng, an ninh; là một động lực tăng trưởng mới của tỉnh Quảng Ninh
trong tương lai.
Trong những năm qua kinh tế của huyện luôn tăng trưởng khá và là một trong
những địa phương có tỷ lệ CNH - HĐH cao của tỉnh Quảng Ninh. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế trên địa bàn huyện Hoành Bồ bình quân giai đoạn 2011 - 2018 đạt
13,6%/năm, trong đó giai đoạn 2016-2018 tăng bình quân 15,5%/năm. Cơ cấu kinh
tế chuyển dịch mạnh theo hướng công nghiệp hóa, trong đó năm 2017 Công nghiệp
- Xây dựng: 78,4%; Thương mại - Dịch vụ: 18,3%; Nông, Lâm, Thủy sản: 3,3%
Tăng trưởng kinh tế của huyện Hoành Bồ góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng
cao mức sống người dân và cải thiện phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, kinh tế phát triển
cao nhưng chưa bền vững, một số ngành phát triển có mặt chưa tương xứng với
tiềm năng, lợi thế; chất lượng tăng trưởng kinh tế của huyện Hoành Bồ còn thấp và
còn nhiều nút thắt kìm hãm sự tăng trưởng trong giai đoạn tiếp theo; chất lượng
tăng trưởng còn nhiều hạn chế, bất cập cần giải quyết mà điển hình là: .
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy cao song chưa tương xứng với tiềm năng, tăng
trưởng vẫn theo chiều rộng và dựa vào sự dịch chuyển từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực công nghiệp và dịch vụ.
Một số ngành ngành công nghiệp chủ đạo như: Xi măng, Nhiệt điện, khai thác
đá vôi,... phụ thuộc nhiều vào nguyên liệu, thị trường bên ngoài nên thiếu tính ổn
định, hiệu quả sản xuất không cao.
Sản xuất nông nghiệp chưa hình thành được các vùng nguyên liệu, vùng sản
xuất hàng hoá lớn. Hạ tầng sản xuất, nhất là hệ thống giao thông, thuỷ lợi, thuỷ
nông chưa đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Việc ứng dụng tiến bộ
khoa khoa học, công nghệ cao để nâng cao chất lượng, sản lượng và khả năng cạnh


9

tranh của một số sản phẩm chủ lực còn chậm. Công tác bảo quản, chế biến, tiêu thụ

sản phẩm nông nghiệp còn nhiều khó khăn.
Dịch vụ có chất lượng và quy mô chưa nhiều, chưa cao. Khai thác du lịch dưới
mức tiềm năng và thiếu tính chuyên nghiệp.
Tăng trưởng kinh tế ở huyện Hoành Bồ chưa gắn liền với chất lượng và chưa
bền vững. Chưa đảm bảo phát triển môi trường xã hội, môi trường thiên nhiên,đời
sống của đại bộ phận người nghèo, hộ cận nghèo, công nhân trong một số doanh
nghiệp còn nhiều khó khăn; sự phân hoá giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị có
xu hướng gia tăng.
Ônhiễm môi trường tại một số xã của huyện ở mức cao, đặc biệt là các vùng
khai thác đá, than, sản xuất xi măng, vôi, vật liệu xây dựng.
Nghị quyết giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng bộ huyện đề ra mục tiêu đến năm
2021 huyện sẽ tự chủ chi thường xuyên; đến năm 2025 huyện lên thị xã và là đô thị
vệ tinh hiện đại của Thành phố Hạ Long đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu tìm ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của huyện Hoành Bồ. Vì
những lý do trên tôi chọn “Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế huyện Hoành
Bồ, tỉnh Quảng Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Chất lượng tăng trưởng kinh tế, hiện tồn tại nhiều quan điểm khác nhau. Có
quan điểm cho rằng, chất lượng tăng trưởng kinh tế được đánh giá ở đầu ra, thể hiện
bằng kết quả đạt được qua sự tăng trưởng của kinh tế như sự cải thiện về chất lượng
cuộc sống, sự bình đẳng trong phân phối thu nhập, bình đẳng về giới, bảo vệ môi
trường, đảm bảo an sinh, xã hội… Quan điểm khác lại nhấn mạnh đến yếu tố đầu
vào của sản xuất như việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nắm bắt và tạo cơ hội
bình đẳng cho các đối tượng tham gia đầu tư và quản lý có hiệu quả các nguồn lực
đầu tư.
Theo quan điểm của Thomas, Dailami và Dhareshwar (2004), chất lượng
tăng tưởng thể hiện trên hai khía cạnh: tốc độ tăng trưởng cao cần được duy trì



10

trong thời gian dài hạn và tăng trưởng cần phải đóng góp cải hiện một cách bền
vững vào xoá đói giảm nghèo. Quan điểm của một số nhà kinh tế như Lucas
(1993), Sen (1999), và Stinglitz (2000), chất lượng tăng trưởng biểu hiện tập
trung ở các tiêu chuẩn chính sau: (1) yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) cao, đảm
bảo việc duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn và tránh được những biến động từ
bên ngoài; (2) tăng trưởng phải đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế và nâng cao
năng lực cạng tranh của nền kinh tế; (3) tăng trưởng đi kèm với phát triển môi
trường bền vững; (4) tăng trưởng hỗ trợ cho thể chế dân chủ luôn đổi mới, đến
lượt nó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở tỷ lệ cao hơn; và (5) tăng trưởng phải đạt
mục tiêu cải thiện phúc lợi và xoá đói giảm nghèo.
Ở các nước đang phát triển, một số nhà kinh tế đã tổng kết và nêu ra 3 mô
hình tăng trưởng kinh tế thực nghiệm:
- Mô hình 1: Tăng trưởng không bền vững, quy mô của nền kinh tế được mở
rộng trong thời kỳ tăng trưởng nhanh, nhưng tại những thời kỳ khác, tốc độ tăng
trưởng thấp và nền kinh tế suy giảm, trì trệ.
- Mô hình 2: Tăng trưởng nhanh, mất cân đối, phải trả giá bằng các tổn thất về
tài nguyên, môi trường. Các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt là vốn nhân lực được sử
dụng không hiệu quả.
- Mô hình 3: Tăng trưởng bền vững nhờ nguồn tích luỹ từ các nguồn vốn tăng
lên theo thời gian một cách cân đối. Chính phủ tập trung nhiều hơn cho khu vực
kinh tế công cộng như giáo dục, y tế… Nguồn vốn tư nhân cũng tăng lên, kể cả vốn
vật chất và vốn nhân lực. Vốn nhân lực được gia tăng nhờ sự đổi mới về công nghệ
và tăng TFP.
Từ những năm 1990, với các nghiên cứu của Paul Krugman (2008), nghiên
cứu của Young (1995) và của Easterly (2009) đã chỉ ra rằng, trong ba thập kỷ trước
năm 1995, tăng trưởng cao của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan có
được là nhờ gia tăng đầu tư, tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động và tăng chất
lượng lao động (phản ánh qua sự gia tăng tỷ lệ lao động có trình độ), chứ không nhờ

tiến bộ công nghệ nhanh hay các lực lượng khác tác động tới số dư Solow.


11

Qua các công trình nghiên cứu trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên
cứu chất lượng tăng trưởng kinh tế tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh.
2.2. Các nghiên cứu trong nước
Theo hiểu biết của tôi, các công trình nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm 1 là các công trình nghiên cứu lý thuyết về tăng trưởng kinh tế, trong
đó: công trình“Các mô hình tăng trưởng và dự báo kinh tế: Lý thuyết và thực
nghiệm”, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM năm 2004 của tác giả Nguyễn Thị
Cành; cuốn “Các mô hình tăng trưởng kinh tế” NXB Thống kê năm 2005 của tác
giả Trần Thọ Đạt…đã đề cập các nội dung lý thuyết về mô hình tăng trưởng kinh
tế. Đây là những công trình có giá trị khoa học cao để tôi kế thừa trong xây dựng
khung cơ sở lý thuyết của luận văn.
Nhóm 2 là các công trình nghiên cứu thực tế về tăng trưởng kinh tế của Việt
Nam, tiêu biểu là các công trình nghiên như: sách chuyên khảo “Tăng trưởng kinh
tế Việt Nam 15 năm 1991-2005 từ góc độ phân tích đóng góp của các nhân tố sản
xuất”, NXB Khoa học và kỹ thuật của Lê Xuân Bá và Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006);
sách tham khảo “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam: 10 năm nhìn lại và định
hướng tương lai”, NXB Giao thông Vận tải 2011 của PGS.TS. Nguyễn Ngọc Sơn
và PGS.TS. Phạm Hồng Chương; Luận án tiến sỹ của Nguyễn Duy Thục (2007) về
“Mô hình tăng trưởng kinh tế địa phương và áp dụng cho Tỉnh Bình Định”.
Các nghiên cứu này đã sử dụng các mô hình tăng trưởng để giải thích về quá
trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, làm rõ sự đóng góp của các nguồn lực chính
vào tăng trưởng kinh tế, nêu ra thực trạng, đề xuất các giải pháp và kiến nghị để
đảm bảo tăng trưởng kinh tế Việt Nam theo hướng phát triển bền vững.
Nhóm 3 là các công trình nghiên cứu về chất lượng tăng trưởng kinh tế và mối

quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng tăng trưởng kinh tế, tiêu biểu là các
công trình như: cuốn “Báo cáo chất lượng tăng trưởng kinh tế”, NXB Thống kê năm
2005 của Tổng Cục thống kê; sách chuyên khảo “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng
kinh tế ở Việt Nam”, NXB Đại học KTQD của Trần Thọ Đạt (2006); Báo cáo


12

nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuệ Anh và Lê Xuân Bá (2005) “Chất lượng tăng tưởng
kinh tế - Một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam”; Báo cáo nghiên cứu của Trần
Đình Thiên (2006) “Đổi mới tư duy về mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam”, Kỷ
yếu Hội thảo khoa học Đại học KTQD…
Các công trình trên cho rằng: (1) chất lượng tăng trưởng thể hiện cả ở yếu tố
đầu vào như việc quản lý và phân bổ các nguồn lực trong quá trình tái sản xuất xã
hội, kết quả đầu ra của quá trình sản xuất với chất lượng cuộc sống được cải thiện,
phân phối sản phẩm đầu ra đảm bảo tính công bằng và góp phần bảo vệ môi trường
sinh thái; (2) tình trạng tăng GDP của Việt Nam có sự đối nghịch là tăng trưởng cao
nhưng hiệu quả tăng trưởng thấp, năng lực cạnh tranh bị tụt hạng mà nguyên nhân
chủ quan,chủ yếu là tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào đầu tư vốn trong khi
chống lạm pháp còn nhiều hạn chế của hệ thống điều hành kinh tế vĩ mô; (3) đề
xuất mô hình tăng trưởng kinh tế cho thủ đô Hà Nội (Ngô Thắng Lợi-2012), cho
tỉnh Nghệ An (Nguyễn Ngọc Sơn và cộng sự-2015). Kết quả nghiên cứu các công
trình này là tài liệu có giá trị để tôi tham khảo xác lập phương pháp và tiến hành
phân tích thực trạng chất lượng tăng trưởng kinh tế của huyện Hoành Bồ, tỉnh
Quảng Ninh trong thời gian qua.
Nhóm 4: là các công trình nghiên cứu liên quan đến tăng trưởng kinh tế của
một thành phố, tỉnh.
Có các nghiên cứu của Ngô Thắng Lợi (2011) về đổi mới mô hình tăng
trưởng TP. Hà Nội, Nguyễn Ngọc Sơn (2010) về chất lượng tăng trưởng thành
phố Hà Nội, Nguyễn Ngọc Sơn (2015) về đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ

cấu kinh tế tỉnh Nghệ An, Nguyễn Ngọc Sơn (2018) về đổi mới mô hình tăng
trưởng kinh tế tỉnh Vĩnh Phúc.Đây là các công trình đã, đang được vận dụng
trong thực tế tại địa phương cụ thể mà tôi có thể tham khảo vận dụng trong thực
tiễn tại huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn tiếp theo đến năm
2020, định hướng đến năm 2025.
Tóm lại, đã có một số công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề về mô
hình tăng trưởng ở Việt Nam ở trên các khía cạnh khác nhau, song chưa có công


13

trình nghiên cứu nào có nội dung nghiên cứu trực diện về chất lượng tăng trưởng
kinh tế của huyện Hoành Bồ, tỉnh Quảng Ninh theo định hướng phát triển nhanh
và bền vững.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn về chất
lượng tăng trưởng kinh tế trên phạm vi một huyện, đề xuất ra những giải pháp để
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế trên địa bàn huyện Hoành Bồ.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận và khung lý thuyết về chất lượng tăng
trưởng kinh tế địa phương.
- Đánh giá thực trạng và rút ra những thành công, những hạn chế và nguyên nhân
của thực tiễn chất lượng tăng trưởng kinh tế ở huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh.
- Đề ra một số giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế huyện Hoành
Bồ tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Lý thuyết và thực tiễn chất lượng tăng trưởng kinh tế của một huyện nói
chung, huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh nói chung.

* Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Phạm vi không gian: huyện Hoành Bồ đặt trong mối quan hệ với các huyện,
thị xã, thành phố khác của tỉnh Quảng Ninh.
Phạm vi thời gian: Số liệu thu thập và khảo sát thực tiễn tại huyện Hoành Bồ
tỉnh Quảng Ninh, thời gian từ 2010 - 2017 và các đề xuất có phạm vi áp dụng đến
năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Phạm vi nội dung: Nghiên cứu chất lượng tăng trưởng kinh tế của một địa
phương thông qua nghiên cứu các yếu tố tốc độ, quy mô tăng trưởng, cấu trúc theo
ngành, GRDP/người và các chỉ tiêu hiệu quả tăng trưởng kinh tế cùng sự tác động
lan tỏa của nó.


14

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nghiên cứu các sự vật hiện,
tượng trong đời sống xã hội bằng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
* Phương pháp thu thập thông tin thứ cấp: các tài liệu trong tỉnh, trong nước
và ngoài nước như: báo cáo khoa học, sách, báo, tạp chí của các nhà khoa học, cơ
quan hoặc tổ chức. Nguồn tài liệu này sẽ được phân loại phục vụ cho quá trình
nghiên cứu luận văn.
- Phương pháp chuyên gia trong quá trình nghiên cứu đề tài tác giả sẽ trực tiếp
tiến hành gặp và phỏng vấn lãnh đạo huyện và một số chủ doanh nghiệp liên quan.
* Các phương pháp phân tích, tổng hợp thông tin được mô tả chi tiết trong
bảng sau:
TT

Phương pháp phân tích thông tin


Nội dung nghiên cứu tương ứng

1

Phương pháp phân tích thống kê Tổng hợp phân tích thực trạng và các nhân tố
ảnh hưởng đến chất lượng tăng trưởng
mô tả.

2

So sánh sự khác biệt giữa các địa phương
Phân tích so sánh đối chứng.

trong tỉnh và giữa Tỉnh Quảng Ninh với các
địa phương trong Vùng Kinh tế trọng điểm
Bắc Bộ và cả nước.
Nghiên cứu các trường hợp điển hình thành

3
Phân tích tình huống.

công hay thất bại trong mối quan hệ giữa tăng
trưởng với việc giải quyết các vấn đề xã hội.

6. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
- Về khoa học: Làm rõ những nét đặc thù đối với nâng cao chất lượng tăng
trưởng kinh tế trên địa bàn một địa phương làm tiền đề lý luận cho việc tìm kiếm
các giải pháp phù hợp góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của huyện
Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh trong giai đoạn tiếp theo.
- Về thực tiễn: Có thể vận dụng các giải pháp và kiến nghị đề xuất của đề tài



15

vào xây dựng các chương trình, chiến lược, Nghị quyết để nâng cao chất lượng kinh
tế của huyện Hoành Bồ trong giai đến năm 2020, tầm nhìn 2025.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục, phụ lục và
tài liệu tham khảo, gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về chất lượng tăng trưởng kinh tế địa phương
Chương 2. Thực trạng về chất lượng tăng trưởng kinh tế của huyện Hoành Bồ
tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010 - 2018
Chương 3. Định hướng và một số giải pháp nâng cao chất lượng tăng trưởng
kinh tế của huyện Hoành Bồ tỉnh Quảng Ninh giai đoạn đến năm 2030.


16

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ ĐỊA PHƯƠNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của lý luận về phát
triển kinh tế. Trong thời đại ngày nay, tư duy hiện đại đối với vấn đề tăng trưởng
kinh tế là rất cần thiết và đặt ra vấn đề rất cấp bách. Lý luận về tăng trưởng kinh tế
không khó để bắt gặp nhưng những quốc gia vận dụng chúng một cách thành công
lại không phải là nhiều. Ngay cả đối với những quốc gia được coi là vận dụng thành
công lý thuyết về tăng trưởng kinh tế vào công cuộc phát triển của đất nước mình
thì cũng không phải là liên tục và trong thời gian dài.

Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi quốc gia, mỗi
vùng và địa phương. Để đánh giá trình độ phát triển kinh tế và để so sánh trình độ
phát triển của các quốc gia, các địa phương (tỉnh, huyện), người ta thường sử dụng
một trong những chỉ tiêu chủ yếu là tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế nhanh
hay chậm, có chất lượng hay không có chất lượng phần nào nói lên được trình độ
phát triển kinh tế của quốc gia hay địa phương đó. Vì thế, trong các chiến lược, kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước người ta thường sử dụng chỉ tiêu tăng
trưởng kinh tế làm mục tiêu phấn đấu.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản lượng được tính cho toàn
bộ nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm). Tăng trưởng kinh
tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng) hoặc số tương đối (tỷ lệ
tăng trưởng). Tăng trưởng kinh tế được xem xét dưới góc độ số lượng và chất
lượng. Về mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng
trưởng, nó thể hiện thông qua các chỉ tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng
thu nhập (Nguyễn Ngọc Sơn, Bùi Đức Tuân, 2011).
Tăng trưởng được xem xét trên hai mặt là số lượng và chất lượng. Mặt số
lượng tăng trưởng là biểu hiện bề ngoài của tăng trưởng và được thể hiện thông qua


17

quy mô và tốc độ tăng trưởng. Trong khi đó, chất lượng của tăng trưởng kinh tế là
thuộc tính bên trong của quá trình tăng trưởng kinh tế, thể hiện ở hiệu quả của việc
đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng và khả năng duy trì trong dài hạn. Chất lượng tăng
trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố đầu vào, tạo nên tính chất, sự vận động
của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội (Ngô Thắng Lợi, 2011).
Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng quy mô tăng trưởng và tốc độ tăng
trưởng.
- Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít (chỉ tiêu tuyệt đối) ∆Y

= Yt+1 - Yt. Trong đó: ∆Y là quy mô tăng trưởng; Yt+1 là thu nhập của năm t+1; Yt là
thu nhập của năm t.
- Tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh
sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ (chỉ tiêu tương đối): g = ∆Y / Y t x
100%. Trong đó: ∆Y, Yt là các biến số đã giải thích ở trên; g là tốc độ tăng trưởng
kinh tế.
1.1.2. Khái niệm về chất lượng tăng trưởng kinh tế
Chất lượng của tăng trưởng kinh tế là thuộc tính bên trong của quá trình tăng
trưởng kinh tế, thể hiện ở hiệu quả của việc đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng và khả
năng duy trì trong dài hạn. Chất lượng tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các
yếu tố đầu vào, tạo nên tính chất, sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh
hưởng lan tỏa của nó đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Tăng trưởng kinh tế là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với phát triển kinh tế của một
quốc gia. Song, điều cốt lõi của quá trình phát triển không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà
chất lượng tăng trưởng kinh tế mới là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Tuy nhiên, đến nay
vẫn còn có những quan điểm khác nhau về chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Quan điểm thứ nhất của Ngân hàng thế giới quan niệm chất lượng tăng trưởng
kinh tế là phát triển bền vững theo nguyên tắc “Sự thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hôm
nay không làm ảnh hưởng tới sự thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ mai sau”, bảo đảm
và phát triển ba nguồn vốn: tài nguyên môi trường, nhân lực và cơ sở vật chất.


18

Quan điểm thứ hai là chất lượng tăng trưởng kinh tế theo hiệu quả. Tăng
trưởng kinh tế theo chiều rộng, tức là tăng trưởng vốn, tăng lao động và tăng cường
khai thác tài nguyên. Tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, thể hiện ở tăng năng suất
lao động, hiệu quả sử dụng vốn sản xuất nâng cao với thước đo năng suất nhân tố
tổng hợp (TFP) tăng lên. Như vậy, chất lượng tăng trưởng kinh tế được quan niệm
theo nguồn gốc tăng trưởng. Đối với các nước đang phát triển, chiều rộng vẫn là

chủ đạo trong yếu tố tăng trưởng.
Quan điểm thứ ba của các nhà kinh tế Mỹ coi chất lượng tăng trưởng kinh tế
là cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu của tăng trưởng kinh tế. Tính hợp lý của quan niệm
này là coi chất lượng sự vật là sự biến đổi cơ cấu bên trong của sự vật, không gắn
chất lượng sự vật với mục đích tồn tại, bối cảnh, môi trường, điều kiện mà sự vật
tồn tại hoặc các sự vật có mối liên hệ tác động mật thiết với nhau.
Quan điểm thứ tư được đưa ra trong thời gian gần đây trong nhiều thảo luận về
chất lượng tăng trưởng kinh tế tập trung vào vấn đề năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế, ngành hoặc doanh nghiệp, theo đó, tăng trưởng đi liền với việc nâng cao năng lực
cạnh tranh là tăng trưởng có chất lượng cao và ngược lại. Tính logic và sự chặt chẽ của
quan niệm này đã tạo ra tên tuổi của của các nhà kinh tế như Micheal Porter.
Quan điểm thứ năm coi chất lượng tăng trưởng kinh tế là thể chế dân chủ
trong môi trường chính trị xã hội của nền kinh tế. Các công trình nghiên cứu của
Samuel Huntington (Đại học Oklahoma), Evelyne Stephens (Đại học Chicago),..
cho thấy có mối liên hệ tương quan chặt chẽ giưa thu nhập đầu người và mức độ
dân chủ hóa của thể chế chính trị xã hội, đã cổ vũ mạnh mẽ cho quan điểm này.
Quan điểm thứ sáu về chất lượng tăng trưởng kinh tế được thảo luận là việc
nâng cao phúc lợi của công dân và gắn liền tăng trưởng kinh tế với công bằng xã
hội. Theo quan điểm này tăng trưởng kinh tế đáp ứng như thế nào phúc lợi cho
người dân là thước đo chất lượng tăng trưởng.
Như vậy, có rất nhiều quan điểm về chất lượng tăng trưởng kinh tế, mỗi quan
điểm đều có các góc nhìn nhận một cách khác nhau. Trong luận văn này chất lượng
tăng trưởng có thể được xem xét theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp.


19

Theo nghĩa hẹp, chất lượng tăng trưởng là thuộc tính bên trong của quá trình
tăng trưởng kinh tế, thể hiện qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đạt được mặt số
lượng của tăng trưởng và khả năng duy trì nó trong dài hạn (Ngô Thắng Lợi, Phan

Thị Nhiệm, 2011).
Theo nghĩa rộng, chất lượng tăng trưởng thể hiện năng lực sử dụng các yếu tố
đầu vào, tạo nên tính chất, sự vận động của các chỉ tiêu tăng trưởng và ảnh hưởng
lan tỏa của nó đến các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội - môi trường.
Từ những khái niệm ở trên ta có thể khái quát khái niệm về chất lượng tăng
trưởng kinh tế như sau: “ Chất lượng tăng trưởng kinh tế là sự phát triển nhanh, hiệu
quả và bền vững của nền kinh tế, thể hiện qua năng suất nhân tố tổng hợp và năng
suất lao động xã hội tăng và ổn định, mức sống của người dân được nâng cao không
ngừng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch phù hợp với từng thời kỳ phát triển của đất nước,
sản xuất có tính cạnh tranh cao, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường, quản lý kinh tế của nhà nước có hiệu quả”.
1.2.Các tiêu chí đo lường tăng trưởng kinh tế và chất lượng tăng trưởng
kinh tế địa phương
1.2.1.Tăng trưởng kinh tế
1.2.1.Quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế
1.2.1.1. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) hay Giá trị gia tăng (VA)
Tổng sản phẩm trên địa bàn(GRDP) là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá
trị mới tăng thêm của hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trên địa bàn tỉnh/thành phố
trong một thời gian nhất định (6 tháng, năm). Cụm từ “hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng” được hiểu theo nghĩa không tính giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sử dụng
ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất sản phẩm. Tổng sản phẩm trên địa
bàn được tính theo giá hiện hành và giá so sánh.
Tổng sản phẩm trong tỉnh tiếng Anh viết là Gross regional domestic
product (viết tắt là GRDP), đây là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, phản ánh
toàn bộ kết quả hoạt động cuối cùng (mới sáng tạo) trong năm nghiên cứu của tất
cả các đơn vị thường trú (bao gồm các đơn vị có hoạt động kinh tế: Các doanh


20


nghiệp, hợp tác xã, trang trại, cơ quan Nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính
trị, chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp, đơn vị an ninh, quốc
phòng, cơ sở SXKD cá thể phi nông nghiệp, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm
nghiệp,v.v...) có trụ sở chính hoặc cơ sở hoạt động, sản xuất kinh doanh chính
nằm trong phạm vi địa giới hành chính của địa phương.Tổng sản phẩm trên địa
bàn được tính theo giá hiện hành và giá so sánh.
Theo hướng dẫn của Tổng cục Thống kê, phương pháp tính GRDP như sau:
- Theo giá hiện hành: có 3 phương pháp tính GRDP và về lý thuyết các
phương pháp này đều cùng cho ra một kết quả, đó là:
+ Nếu áp dụng phương pháp sản xuất, GRDP tính theo công thức (1) dưới
đây:
GRDP = Tổng giá trị sản xuất (GO) – Tổng Chi phí trung gian (IC).
Hay:

GRDP = GO – IC

(1)

+ Nếu áp dụng phương pháp thu nhập, GRDP được tính theo công thức (2)
dưới đây:
GRDP = Tổng thu nhập từ các hoạt động kinh tế của người lao động trong tỉnh
(TNKT) + Thuế sản xuất kinh doanh (THUE) + Khấu hao TSCĐ dùng cho SXKD
(KH) + Lợi nhuận SXKD (LN).
Hay:

GRDP = TNKT + THUE + KH + LN.

(2)

Trong đó:

Tổng thu nhập từ các hoạt động kinh tế hợp pháp (bao gồm: SXKD và cả sản
xuất mang tính tự sản, tự tiêu) của các lao động trong tỉnh (ký hiệu là: TNKT) bao
gồm: Tổng cộng toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật của lao động thu được trong thời
kỳ (năm) nghiên cứu, như: Tiền lương, tiền công, tiền thưởng, tiền ăn ca, tiền đóng
BHXH, BHYT, BH thất nghiệp và đóng công đoàn phí do chủ sử dụng lao động
chịu trách nhiệm đóng góp cho người lao động, tiền do BHXH chi trả nghỉ ốm đau,
thai sản, ... cho người lao động (ký hiệu là: LUONG); thu nhập hỗn hợp (ký hiệu là:
TNHH) bao gồm tiền và giá trị hiện vật thu từ SXKD của các hộ dân cư, các trang
trại, các doanh nghiệp tư nhân trong tỉnh sau khi lấy tổng thu từ SXKD trừ đi tổng


21

chi phí SXKD (gồm chi nguyên nhiên vật liệu; chi dịch vụ thuê ngoài; thuế, phí
phải nộp,...) tương ứng với phạm vi thu từ SXKD của các đơn vị đó trong năm.
Như vậy: TNKT = LUONG + TNHH

(3)

+ Nếu áp dụng phương pháp sử dụng, GRDP được tính theo công thức (4)
dưới đây:
GRDP = Tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình và Tiêu dùng cuối cùng của Nhà
nước (TDCC) + Tích lũy tài sản (TLTS) + Chênh lệch xuất, nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ (CLXNK).
Hay: GRDP = TDCC + TLTS + CLXNK

(4)

- Theo giá so sánh: Tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá so sánh được tính qua
những bước trung gian. Vì chỉ tiêu tổng sản phẩm trên địa bàn hoặc giá trị tăng

thêm không thể phân tích được thành các yếu tố giá và lượng, nên không có chỉ số
giá phù hợp để giảm phát trực tiếp nên được tính gián tiếp bằng hiệu giữa giá trị sản
xuất theo giá so sánh và chí phí trung gian theo giá so sánh (Phương pháp tính tổng
sản phẩm trên địa bàn theo giá so sánh bằng phương pháp sản xuất)
1.2.1.2. Chỉ tiêu bình quân đầu người
Quĩ thu nhập của địa phương là tổng cộng toàn bộ thu nhập của tất cả lao
động, hộ dân cư (sau đây viết chung là hộ) trong một địa phương. Quĩ thu nhập của
một địa phương thường được hiểu theo hai phạm vi sau đây:
- Phạm vi thứ nhất, Quĩ thu nhập của tỉnh là tổng cộng thu nhập từ tất cả các
hoạt động kinh tế (TNKT) của hộ trong năm nghiên cứu và được tính toán theo
công thức (3) trên đây.
- Phạm vi thứ hai, Quĩ thu nhập của một địa phương bao gồm tổng thu nhập từ
các hoạt động kinh tế của hộ (TNKT) cộng (+) với các khoản thu nhập khác (ký
hiệu là: TNK) không từ hoạt động kinh tế của hộ, như: thu nhập từ tiền lương hưu,
tiền trợ cấp các loại, tiền bảo trợ xã hội hàng tháng, các khoản thu của hộ do các cá
nhân, tổ chức khác cho, biếu, tặng, mừng, lãi tiền gửi tiết kiệm,... Ký hiệu Quĩ thu
nhập theo phạm vi này là “TONGTN”, khi đó có công thức sau:
TONGTN = TNKT + TNK

(5)


22

Như vậy,GRDP bình quân đầu người và Thu nhập bình quân đầu người của
tỉnh là hai chỉ tiêu hoàn toàn khác nhau, bởi vì GRDP và Quĩ thu nhập của địa
phương là hai chỉ tiêu có khái niệm, phạm vi, nội dung, phương pháp tính toán hoàn
toàn khác nhau. Sơ đồ dưới đây thể hiện rõ sự khác nhau giữa GRDP và Quĩ thu
nhập của địa phương:
CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH GRDP VÀ QUĨ THU NHẬP CỦA ĐỊA PHƯƠNG


GRDP = KH + THUE + LN + LUONG + TNHH
(Tổng sản phẩm trong tỉnh)
Yếu tố 1

Yếu tố 2

Yếu tố 3

Yếu tố 4

Yếu tố 5

KH

THUE

LN

LUONG

TNHH

(Khấu hao

(Thuế SX)

(Lợi nhuận)

(Tiền lương,


(Thu nhập

tiền công,…)

hỗn hợp)

TSCĐ)

TNKT = LUONG + TNHH

Yếu tố 6

(Quĩ thu nhập từ các hoạt

TNK

động kinh tế của hộ)

(TN khác
không từ HĐ
KT của hộ)

TONGTN = LUONG + TNHH + TNK
(Quĩ Tổng thu nhập của hộ)


23

Theo sơ đồ trên:

-

GRDP của tỉnh gồm 5 yếu tố cấu thành, đó là: (1) Khấu hao tài sản cố định; (2)
Thuế sản xuất; (3) Lợi nhuận; (4) Tiền lương, tiền công,… và (5) Thu nhập hỗn
hợp.

-

Quĩ thu nhập từ kinh tế của các hộ trong tỉnh gồm 2 yếu tố cấu thành, đó là: (1) Tiền
lương, tiền công,… và (2) Thu nhập hỗn hợp.

-

Quĩ Tổng thu nhập của các hộ trong tỉnh gồm 3 yếu tố cấu thành, đó là: (1) Tiền
lương, tiền công,…, (2) Thu nhập hỗn hợp và (3) Thu nhập khác.
Chỉ tiêu GRDP bình quân đầu người thường được sử dụng để phản ánh
trình độ, năng suất, hiệu quả nền kinh tế trên địa bàn tỉnh, còn chỉ tiêu Thu
nhập bình quân đầu người của tỉnh thường được sử dụng để phản ánh mức
đời sống, thu nhập bình quân của một người dân trong tỉnh.
1.2.2.Chất lượng tăng trưởng kinh tế
1.2.2.1 Thước đo phan anh hiệu qua tăng trưởng kinh t ế
a) Tiêu chí phản ánh mối quan hệ giữa giá trị sản xuất (GO) với giá trị gia
tăng (VA)
Tốc độ tăng trưởng GRDP nhỏ hơn tốc độ tăng trưởng GO phản ánh nền kinh
tế “tăng trưởng nhờ gia công”, khi đó sự khỏe mạnh của nền kinh tế phụ thuộc rất
nhiều vào nguồn hàng hóa trung gian nhập khẩu từ bền ngoài. Điều đó, phản ánh
nền kinh tế mang tính bị động lớn và luôn có nguy cơ bị tắc nghẽn. Mặt khác, tốc
độ tăng trưởng của GO cao hơn GRDP chứng tỏ sự gia tăng ngày càng cao của chi
phí trung gian, làm cho tỷ trọng phần chi phí trung gian (IC) trong GO ngày càng
cao và kết quả là phần giá trị gia tăng (VA) trong GO giảm đi, như vậy, hiệu quả

tăng trưởng sẽ thấp.
Thực tế đã chứng minh, phần “giá trị gia công” thường chiếm tỷ trọng rất nhỏ
trong chuỗi giá trị và ngày càng nhỏ theo xu hướng phát triển của khoa học công
nghệ. Nếu một nền kinh tế chuyên “gia công” chắc chắn sẽ không thể làm giàu
được và lại càng không thể bền vững được.


24

Song phần lớn các nước đang phát triển, do hạn chế nhiều mặt, không còn con
đường nào khác đã lấy “gia công” để thực hiện mục tiêu tăng trưởng của mình. Vì
vậy, họ luôn bị thua thiệt trong phân công hợp tác quốc tế và dành phần hiệu quả
thấp, không ổn định trong chuỗi dây truyền giá trị toàn cầu.
b) Tiêu chí phản ánh hiệu quả sử dụng lao động (năng suất lao động)
Thể hiện sự so sánh cụ thể kết quả thu thập nhận được với các yếu tố nguồn
lực bỏ ra là lao động, nó được đo bằng năng suất lao động
Năng suất lao động xã hội tính bằng GRDP theo giá thực tế (hoặc giá so sánh)
chia cho tổng số lao động đang làm việc, phản ánh hiệu quả của tăng trưởng ở góc
độ sử dụng lao động sống. Một điều dễ nhận thấy rằng, khi năng suất lao động thấp
và tăng chậm, thì chẳng những tác động không tốt đến tăng trưởng GRDP, mà còn
chứng tỏ giá trị thặng dư tạo ra thấp, ảnh hưởng đến tích lũy, tái đầu tư để mở rộng
cũng như nâng cao mức sống. Hiện nay, năng suất lao động của các nước đang phát
triển (Việt Nam không phải là ngoại lệ) còn rất thấp so với các nước phát triển và
thấp so với các nước công nghiệp mới ở Đông Á.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến năng suất lao động ở các nước đang phát triển
thấp. Một mặt, do chất lượng lao động, trình độ công nghệ còn thấp; mặt khác, còn
vì tình trạng thất nghiệp cao, bao gồm cả hữu hình và trá hình.
Vì vậy, mục tiêu phấn đấu của các nước đang phát triển trong quá trình nâng
cao hiệu quả và chất lượng tăng trưởng kinh tế phải đặt ra hai yêu cầu:vừa nâng cao
chất lượng lao động, nâng cao trình độ kỹ thuật cho người lao động, vừa phải quan

tâm đến các chương trình giải quyết việc làm cho người lao động.
c) Tiêu chí phản ánh hiệu quả sử dụng vốn
Suất đầu tăng trưởng (hệ số ICOR) thể hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế và đầu tư, tức là hiệu suất sử dụng vốn và thể hiện bằng hệ số giữa tỷ lệ vốn đấu
tư phát triển so với tốc độ tăng trưởng GRDP. Tức là để tạo ra một đơn vị đầu ra
tăng trưởng thì phải cần bao đơn vị đầu vào của vốn đầu tư. Theo lý thuyết, nếu tỷ
lệ này cao chứng tỏ chi phí về vốn cho tăng trưởng cao, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
Và ngược lại, nếu hệ số này thấp thì chi phí vốn cho tăng trưởng thấp hay hiệu suất
sử dụng vốn cao.


25

Tuy vậy, khi sử dụng chỉ tiêu hệ số ICOR để đánh giá hiệu quả sử dụng cần
phải tính toán đến yếu tố công nghệ kỹ thuật của nền kinh tế. Công nghệ càng đơn
giản, lạc hậu thì vốn đầu tư càng ít và công nghệ càng hiện đại thì đòi hỏi vốn càng
cao hơn. Theo logic của quá trình phát triển, các nước sẽ áp dụng công nghệ hiện
đại, đòi hỏi vốn càng cao hơn, sản phẩm sản xuất ra được cấu thành bởi vốn ngày
càng nhiều hơn cấu thành bởi lao động, vì vậy, suất đầu tư tăng trưởng cao là một
xu hướng đúng. Do đó, khi dùng hệ số ICOR để đánh giá và so sánh hiệu quả đầu tư
giữa các giai đoạn hay giữa các nước với nhau, cần phải xem xét đến sự đồng nhất
về trình độ công nghệ đầu tư. Suất đầu tư tăng trưởng của Mỹ khoảng 9; của Việt
Nam khoảng 5, điều đó không có nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn của Mỹ thấp hơn
Việt Nam mà là Mỹ thường đầu tư vào công nghệ đòi hỏi nhiều vốn hơn ở Việt
Nam. Một số nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam được đánh giá là suất đầu
tư tăng trưởng cao hơn so với mức độ đáng có của nó do hiệu quả sử dụng vốn thấp,
đầu tư quá dàn trải và còn nhiều hiện tượng tiêu cực trong sử dụng vốn đầu tư.
Có hai phương pháp tính hệ số ICOR
ICOR =


- Phương pháp thứ nhất:

I1
Y1 − Y0

Trong đó, I1 là tổng vốn đầu tư của năm nghiên cứu, Y1 là GRDP của năm
nghiên cứu, và Y0 là GRDP của năm trước đó. Các chỉ tiêu về vốn đầu tư và GRDP
để tính hệ số ICOR theo phương pháp này phải được đo theo cùng một loại giá (giá
thực tế hoặc giá so sánh).
ICOR =

- Phương pháp thứ hai:

I Y
gY

I Y
Trong đó,

là tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP,

gY

là tốc độ tăng GRDP. Hệ

số ICOR tính theo phương pháp này thể hiện: để tăng thêm 1% GRDP đòi hỏi phải
tăng thêm bao nhiêu phần trăm tỷ lệ vốn đầu tư so với GRDP.
d) Tiêu chí về mật độ kinh tế (GRDP/km2)



×