Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Nghiên cứu mối quan hệ giữa dòng tiền và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.64 KB, 12 trang )

1

Nghiên cứu mối quan hệ giữa
dòng tiền và kết quả kinh doanh
của các doanh nghiệp ở Việt Nam
hiện nay
Bài viết này nghiên cứu ảnh hưởng của thông tin về các thành phần của dòng
tiền trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ tới kết quả kinh doanh của các công ty phi tài
chính niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu được sử dụng trong
bài viết này lấy từ 228 công ty đang niêm yết trên HOSE giai đoạn từ năm 2009
đến năm 2018. Tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng, hồi quy
FEM, REM và dựa trên mô hình Driscoll-Kraay hiệu chỉnh để phân tích dữ liệu và
thảo luận kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng dòng tiền thuần từ
hoạt động kinh doanh, dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư, dòng tiền thuần từ hoạt
động tài chính đều có quan hệ thuận chiều với kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Kết quả này có ý nghĩa đối với các nhà quản lý doanh nghiệp trong
việc phân bổ nguồn lực tài chính vào các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư,
hoạt động tài chính hợp lý để mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp.
1.

Giới thiệu
Cả lợi nhuận và dòng tiền đều có ý nghĩa quan trọng đối với người sử dụng

thông tin kế toán. Lợi nhuận và giúp cho các cổ đông biết được rằng họ sẽ nhận
được bao nhiêu giá trị tăng thêm (hay giảm đi) trên mỗi đồng tài sản sử dụng vào
hoạt động kinh doanh hay trên mỗi đồng vốn cổ phần đã góp để làm căn cứ ra
quyết định đầu tư. Trong khi đó, dòng tiền là thông tin quan trọng, dòng tiền trong
doanh nghiệp được ví như dòng máu trong cơ thể con người, dòng tiền là nhân tố
quyết định khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh



2

nghiệp được biểu hiện bằng số tiền doanh nghiệp có. Một công ty có khả năng
thanh toán là một công ty có đủ tiền để trả nợ và ngược lại. Theo quan điểm của
người cho vay, tiền chính là đối tượng để thực hiện cho vay và đối tượng để trả
khoản vay. Theo kết quả khảo sát 266 nhân viên tín dụng làm việc ở các công ty
chuyên cung cấp dịch vụ cho vay ở Mỹ, Fulmer, Gavin và Bertin (1991) nhận xét
rằng 90% nhân viên tín dụng yêu cầu trong hồ sơ vay vốn phải có báo cáo dòng
tiền hiện tại của doanh nghiệp, 80% nhân viên tín dụng yêu cầu phải có kế hoạch
dòng tiền tương lai của doanh nghiệp. Fulmer, Gavin và Bertin (1991) cho biết:
những doanh nghiệp nhận được khoản vay là những doanh nghiệp có dòng tiền ổn
định qua các năm, có lãi ổn định, đáp ứng được một số tỷ suất tài chính theo yêu
cầu cung cấp tín dụng. Kết quả cả hai công trình của Altman (1968, 1977) đều cho
rằng tỷ suất khả năng thanh toán nhanh (được tính bằng tiền và các khoản tương
đương tiền trên tổng nợ phải trả ngắn hạn) là nhân tố hữu hiệu báo hiệu khả năng
phá sản của doanh nghiệp. dòng tiền có quan hệ mật thiết với chính sách chi trả
cổ tức của doanh nghiệp. Thông thường, mức chi trả cổ tức của doanh nghiệp phụ
thuộc vào khả năng chi trả cổ tức, nghĩa là, doanh nghiệp phải có lãi và doanh
nghiệp phải có tiền (Charitou, A. and Vafeas, N, 1998). Tại Việt Nam, Bộ Tài chính
(2014) quy định tại Thông tư 200/2014/TT-BTC tất cả các doanh nghiệp, khi phân
phối lợi nhuận cần cân nhắc đến các khoản mục phi tiền tệ nằm trong lợi nhuận sau
thuế chưa phân phối có thể ảnh hưởng đến luồng tiền và khả năng chi trả cổ tức, lợi
nhuận của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy một doanh nghiệp có thể báo cáo lãi nhưng
giá trị dòng tiền thuần lại âm bởi các khoản doanh thu từ bán hàng đều đang bị
khách hàng chiếm dụng, chưa thu hồi được. Ngược lại, một doanh nghiệp dù lỗ
nhưng vẫn báo cáo dòng tiền thuần dương bởi doanh nghiệp có tiền từ chủ sở hữu
góp vốn nhưng không sử dụng vốn hiệu quả nên kết quả kinh doanh bị lỗ.



3

Chính vì vậy, nghiên cứu tìm hiểu quan hệ giữa dòng tiền và kết quả hoạt
động kinh doanh là rất có ý nghĩa. Đề tài này cũng thu hút được sự nghiên cứu của
một số học giả, tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu chưa thống nhất về ảnh hưởng
của dòng tiền tới khả năng sinh lợi. Nghiên cứu của Konak (2018) cho rằng dòng
tiền từ hoạt động kinh doanh có quan hệ cùng chiều với ROA nhưng dòng tiền từ
hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính có quan hệ ngược chiều với ROA; Trong
khi đó, nghiên cứu của Nwakaego, Ikechukwu & Ifunanya (2015) cho rằng dòng
tiền từ hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính có quan hệ cùng chiều với
ROA nhưng dòng tiền từ hoạt động đầu tư có quan hệ ngược chiều với ROA. Bên
cạnh đó, các nghiên cứu mới chỉ đề cập tới một ngành cụ thể (nghiên cứu của
Nwakaego, Ikechukwu & Ifunanya (2015) trong ngành thực phảm và đồ uống ở
Nigeria, còn nghiên cứu của Konak (2018) trong ngành công nghiệp hoặc nghiên
cứu của Ogbeide & Akanje (2017) trong ngành bảo hiểm). Chưa có nghiên cứu nào
nghiên cứu trên phạm vi rộng ở nhiều ngành kinh tế để góp phần bổ sung thêm các
bằng chứng thực nghiệm cho tổng quan các nghiên cứu.
Vì vậy, bài viết này sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền (bao gồm dòng tiền
từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính) tới khả năng sinh lợi
(ROA, ROE) của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh để góp phần bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm tại
Việt Nam cho các công trình nghiên cứu đã công bố. Kết quả của bài viết hy vọng sẽ
giúp cung cấp thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư trong việc đưa ra quyết định cho
vay, đầu tư hiệu quả.
2.

Tổng quan nghiên cứu

Trên thế giới, đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa dòng tiền
và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Một số nghiên cứu tiêu biểu có thể kể

tới như sau:


4

Thứ nhất, các nghiên cứu cho rằng dòng tiền có quan hệ mật thiết với chính
sách chi trả cổ tức của doanh nghiệp. Thông thường, mức chi trả cổ tức của doanh
nghiệp phụ thuộc vào khả năng chi trả cổ tức, nghĩa là, doanh nghiệp phải có lãi và
doanh nghiệp phải có tiền (Charitou, A. and Vafeas, N, 1998). Tại Việt Nam, theo
quy định tại Thông tư 200/2014/TT-BTC, tất cả các doanh nghiệp, khi phân phối
lợi nhuận, cần cân nhắc đến các khoản mục phi tiền tệ nằm trong lợi nhuận sau
thuế chưa phân phối có thể ảnh hưởng đến luồng tiền và khả năng chi trả cổ tức, lợi
nhuận của doanh nghiệp. Simons (1994) thì cho rằng các doanh nghiệp đang trong
giai đoạn khó khăn về tài chính hay đang trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế,
lượng tiền đang rất khan hiếm thì mức chi cổ tức sẽ bị giảm đi hoặc không có. Do
vậy, các cổ đông phải quan tâm tới giá trị dòng tiền trong tương lai mà doanh
nghiệp sử dụng để chi trả cổ tức.
Thứ hai, tỷ suất dòng tiền là căn cứ đo lường kết quả hoạt động tài chính của
doanh nghiệp. Giacomino & Mielke (1988/1993), Leonie Jooste (2006) cho rằng
các tỷ suất dòng tiền rất hữu ích trong việc so sánh kết quả HĐKD giữa các doanh
nghiệp khác nhau, giữa các ngành nghề kinh doanh khác nhau và giữa các kỳ kế
toán khác nhau của mỗi doanh nghiệp. Các tác giả đã xây dựng các tỷ suất tài
chính (tỷ suất phản ánh mức độ đáp ứng tiền để trả cổ tức, mức đáp ứng tiền để trả
các khoản vay, mức đáp ứng tiền cho các hoạt động chính, tỷ suất dòng tiền trên
doanh thu, dòng tiền trên lợi nhuận, dòng tiền trên tài sản, chi phí khấu hao TSCĐ
trên dòng tiền) để đánh giá hoạt động tài chính của các công ty ở Hoa Kỳ và Nam
Phi và khẳng định các tỷ suất dòng tiền sẽ cung cấp thêm thông tin cho các nhà đầu
tư về chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp, đánh giá tình hình quản trị tài chính
tại doanh nghiệp.
Thứ ba, thông tin dòng tiền có tác dụng trong dự báo phá sản doanh nghiệp

Beaver (1966) là người đầu tiên tiến hành dự báo khả năng phá sản của doanh
nghiệp thông qua các thông tin kế toán do doanh nghiệp cung cấp. Beaver (1966)


5

đã sử dụng 33 tỷ suất tài chính và chia thành 6 nhóm. Các doanh nghiệp phá sản và
các doanh nghiệp không phá sản đều được tính các tỷ suất này và Beaver (1966) đã
so sánh các tỷ suất này ở các doanh nghiệp phá sản với doanh nghiệp không phá
sản 5 năm trước khi xảy ra phá sản. Một trong các tỷ suất tài chính quan trọng
được khẳng định có khả năng dự báo phá sản tốt là tỷ suất dòng tiền trên tổng tài
sản. Tỷ suất này có khả năng dự báo sự phá sản chính xác tới 87% nếu dự báo
trước 1 năm, và có độ chính xác tới 79%, 77%, 76% và 68% tương ứng nếu thời
gian dự báo trước 2, 3, 4, 5 năm. Ngoài ra, Beaver (1966) cho rằng: tỷ suất dòng
tiền từ HĐKD/ tổng nợ phải trả (dòng tiền từ HĐKD được tính bằng cách lấy lợi
nhuận cộng với khấu hao tài sản cố định hữu hình, khấu hao tài sản cố định vô
hình) là tỷ suất có sai số dự báo nhỏ nhất, đáng tin cậy hơn so với các tỷ suất được
tính dựa trên các thành phần dồn tích của lợi nhuận khi sử dụng để đánh giá khả
năng phá sản của doanh nghiệp. Sau Beaver (1966), Altman (1968, 1977), Chen, C.
(1983) cũng nghiên cứu dự báo khả năng phá sản của doanh nghiệp dựa trên các tỷ
suất tài chính. Kết quả cả hai công trình của Altman (1968, 1977) đều cho rằng tỷ
suất khả năng thanh toán nhanh (được tính bằng tiền và các khoản tương đương
tiền trên tổng nợ phải trả ngắn hạn) là nhân tố hữu hiệu báo hiệu khả năng phá sản
của doanh nghiệp.
Nwakaego, Ikechukwu và Ifunanya (2015) xem xét ảnh hưởng của dòng tiền đến
hiệu suất của các công ty trong ngành Thực phẩm và Đồ uống của Nigeria. Nghiên cứu
bao gồm một cuộc khảo sát của sáu công ty của các công ty thực phẩm và đồ uống
được trích dẫn tại Sở giao dịch chứng khoán Nigeria. Dữ liệu được lấy từ các báo cáo
và tài khoản hàng năm của các công ty được chọn đang nghiên cứu. Các dữ liệu liên
quan được phân tích bằng kỹ thuật hồi quy bội. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng dòng

tiền hoạt động và tài trợ có tác động tích cực đáng kể đến hiệu quả hoạt động trong các
công ty thực phẩm và đồ uống ở Nigeria. Tác giả cũng đã được quan sát thấy rằng dòng
tiền đầu tư có mối quan hệ ngược chiều với hiệu quả hoạt động của công ty.


6
3.

Mô hình nghiên cứu

Trong các nghiên cứu (Hieu & Anh, 2020) đã chỉ ra rằng, kết quả kinh doanh
của doanh nghiệp được thể hiện qua ROA, ROE và EPS. Do đó, nghiên cứu này
nghiên cứu mối quan hệ giữa các loại dòng tiền từ các hoạt động trong doanh
nghiệp bao gồm: dòng tiền từ hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động
tài chính với ROA, ROE, EPS.
Các mô hình nghiên cứu được minh họa ở Hình 1 dưới đây.
ROA i,t = α0 + α 1 CFOi,t + α2CFIi,t + α3CFFi,t + ℰi,t (1)
ROE i,t = β0 + β1CFOi,t + β2CFIi,t + β3CFFi,t + ℰi,t (2)
EPS i,t = £0 + £1 CFOLi,t + £2CFIi,t + £3CFFi,t + ℰi,t (3)
Trong đó:
ROA: Tỷ suất sinh lời của tài sản được đo lường bằng lợi nhuận sau thuế / tổng tài
sản
ROE: Tỷ suất sinh lời của vốn chủ sở hữu được đo lường bằng lợi nhuận sau
thuế / tổng tài sản
EPS: Lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu phổ thông
CFO: Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
CFI: Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư
CFF: Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính
Hình 1: Mô hình nghiên cứu
CFO


CFI

Kết quả kinh doanh:

(ROA, ROE, EPS)

CFF


7

Tác giả đã đưa ra ba giả thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết 1: Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh có ảnh hưởng cùng chiều tới kết quả
kinh doanh của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP
Hồ Chí Minh.
Giả thuyết 2: Dòng tiền từ hoạt động đầu tư có ảnh hưởng cùng chiều tới kết quả kinh
doanh của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí
Minh.
Giả thuyết 1: Dòng tiền từ hoạt động tài chính có ảnh hưởng cùng chiều tới kết quả
kinh doanh của các công ty phi tài chính niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán TP
Hồ Chí Minh.
4.

Kết quả nghiên cứu

4.1 Mô tả thống kê
Bảng 1: Kết quả thống kê mô tả dữ liệu
VarName
ROE

ROA
EPS
CFI
CFF
CFO

Mean
0.154
0.081
3192.314
-0.054
-0.010
0.073

SD
0.181
0.091
4901.718
0.109
0.155
0.138

Min
-1.687
-0.625
-1.03e+04
-0.705
-1.340
-0.696


Max
3.276
0.743
1.45e+05
0.813
0.861
1.189

4.2 Phân tích tương quan
Bảng 2: Hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình

ROE

ROE
1

ROA

EPS

CFI

CFF

CFO


8

ROA

EPS
CFI
CFF
CFO
4.3

0.705***
1
0.594*** 0.523***
1
1
0.078*** 0.074*** 0.057***
1
0.069*** 0.245*** 0.069*** 0.439***
0.208*** 0.407*** 0.164***
0.165*** 0.653***

Kết quả hồi quy

Bảng 3: Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng tiền tới ROE

ROE

(1)
FEM

(2)
REM

(3)

Adjusted DriscollKraay

CFO

0.181** 0.284**

0.181***

CFI

*
*
0.116** 0.0909*

0.116***

CFF

*
*
0.179** 0.176**

0.179***

Constant

*
*
0.149** 0.140**


0.149***

Observations
Number of i
VIF
Hausman test
Autocorrelation
Heteroskedasticit

*

*

2,495
228
<10

2,495
228
<10
0.000

0.9370
0.000

y
Note: *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

2,495
228

<10

1


9

Bảng 4: Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng tiền tới ROA
5.
ROA

(1)
FEM

(2)
REM

(3)
Adjusted Driscoll-

CFO
CFI

0.111*** 0.151***
0.0548** 0.0459**

Kraay
0.111***
0.0548***


CFF

*
*
0.0789** 0.0692**

0.0789***

Constant

*
*
0.0768** 0.0733**

0.0768***

Observations
Number of i
VIF
Hausman test
Autocorrelation
Heteroskedasticit

*
2,495
228
<10

*
2,495

228
<10
0.000

2,495
228
<10

0.000
0.000

y
Note: *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
Bảng 5: Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng tiền tới EPS
6.
EPS

(1)
FEM

(2)
REM

(3)
Adjusted DriscollKraay

CFO

2,765** 3,963**


2,765**

CFI
CFF
Constant

*
1,166
937.2
1,365
1,544
3,075** 2,974**

1,166**
1,365*
3,075***

*

*


10

Observations
Number of i
VIF
Hausman test
Autocorrelation
Heteroskedasticit


2,495
228
<10

2,495
228
<10
0.000

2,495
228
<10

0.000
0.000

y
Note: *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1
5. Thảo luận kết quả nghiên cứu, các kiến nghị và kết luận
Thứ nhất, kết quả hồi quy thu được hệ số hồi quy là 0,181; 0,111 và 2.765 tương
ứng ở các Bảng 3, 4,5 thể hiện mối quan hệ giữa dòng tiền từ hoạt động kinh doanh với
ROE, ROA và EPS. Các hệ số hồi quy đều > 0 và có ý nghĩa thống kê. Như vậy, có thể
kết luận được rằng, mối quan hệ giữa dòng tiền từ hoạt động kinh doanh và kết quả
hoạt động kinh doanh là cùng chiều.
Giả thuyết nghiên cứu H1 được chấp nhận.
Thứ hai, kết quả hồi quy thu được hệ số hồi quy là 0,116; 0,0548 và 1.166 tương
ứng ở các Bảng 3, 4,5 thể hiện mối quan hệ giữa dòng tiền từ hoạt động đầu tư với
ROE, ROA và EPS. Các hệ số hồi quy đều > 0 và có ý nghĩa thống kê. Như vậy, có thể
kết luận được rằng, mối quan hệ giữa dòng tiền từ hoạt động đầu tư và kết quả hoạt

động kinh doanh là cùng chiều.
Giả thuyết nghiên cứu H2 được chấp nhận.
Thứ ba, kết quả hồi quy thu được hệ số hồi quy là 0,179; 0,0789 và 1.365 tương
ứng ở các Bảng 3, 4,5 thể hiện mối quan hệ giữa dòng tiền từ hoạt động tài chính với
ROE, ROA và EPS. Các hệ số hồi quy đều > 0 và có ý nghĩa thống kê. Như vậy, có thể
kết luận được rằng, mối quan hệ giữa dòng tiền từ hoạt động tài chính và kết quả hoạt
động kinh doanh là cùng chiều.
Giả thuyết nghiên cứu H3 được chấp nhận.
Từ kết quả nghiên cứu trên, tác giả xin đưa ra một số đề xuất như sau:


11
-

Đối với các nhà quản lý doanh nghiệp:
Việc dòng tiền từ hoạt động tài chính có quan hệ thuận chiều với kết quả kinh
doanh cho thấy, việc tăng vốn huy động từ các kênh bên ngoài như vay và phát hành
trái phiếu, cổ phiếu đã mang lại kết quả kinh doanh cho doanh nghiệp, làm tăng kết quả
hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp. Điều này cho thấy các doanh nghiệp cần đẩy

-

mạnh các kênh huy động vốn bởi càng có vốn thì kết quả kinh doanh sẽ càng cao.
Đối với nhà đầu tư:
Để đưa ra quyết định đầu tư thì ngoài việc dựa vào thông tin lợi nhuận trên báo
cáo kết quả kinh doanh, các nhà đầu tư cần tìm hiểu kĩ thông tin dòng tiền trên báo cáo
lưu chuyển tiền tệ. Nhà đầu tư cần hiểu rằng, kết quả kinh doanh của doanh nghiệp tỷ lệ
thuận với giá trị dòng tiền thuần của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có dòng
tiền thuần âm là các doanh nghiệp hoạt động yếu kém và nhà đầu tư nên cân nhắc để


-

đưa ra quyết định sáng suốt.
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong những báo cáo vô cùng quan trọng đối
với người sử dụng thông tin. Báo cáo lưu chuyển tiền có mối quan hệ chặt chẽ với kết
quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hiện nay, theo Thông tư số 133/TTBTC của Bộ Tài chính thì Báo cáo lưu chuyển tiền tệ chỉ là báo cáo khuyến khích. Do
vậy, Nhà nước cần yêu cầu tất cả các doanh nghiệp, kể cả các doanh nghiệp nhỏ, siêu
nhỏ phải công bố báo cáo tài chính bắt buộc. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh rõ
thông tin dòng tiền từ các hoạt động trong doanh nghiệp như hoạt động đầu tư, hoạt
động tài chính và hoạt động kinh doanh. Điều này, góp phần giúp các cơ quan quản lý
Nhà nước nhận diện các doanh nghiệp thiếu khả năng thanh toán và nguy cơ ảnh hưởng
tới cả kết quả hoạt động kinh doanh do thiếu dòng tiền.
Kết luận
Bài viết này đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm cho thấy dòng tiền có quan hệ
thuận chiều với kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tại Việt Nam.


12

Nghiên cứu này đã góp phần bổ sung kho tàng cơ sở lý luận của các nghiên cứu về
dòng tiền. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng có ý nghĩa tư vấn cho các cơ quan quản
lý Nhà nước, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong việc đưa ra quyết định kinh tế.
Nghiên cứu này có hạn chế là chưa phân tích tác động của dòng tiền với kết quả kinh
doanh của từng loại hình doanh nghiệp. Các nghiên cứu trong tương lai nên bổ sung
những nhân tố này để kết quả nghiên cứu được mở rộng hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.

Altman, E.I. (1968). Financial ratios, discriminant analysis and the prediction of


2.

corporate bankruptcy. Journal of Finance, 23 (4), 589 – 609.
Charitou, A. and Vafeas, N. (1998). The association between operating cash flows and
dividend changes: an empirical investigation. Journal of Business Finance and

3.

Accounting, 25 (1+2), 225-249.
Hieu, N.T & Anh, N.H. (2020). The Impact of Capital Structure on Firm Performance:

4.

Evidence from Vietnam. Journal of Asian Finance, Economics and Business. 7(4).
Fulmer, J.G., Gavin, T.A. and Bertin, W. J. (1991). What Factors Influence the Lending
Decision: A Survey of Commercial Loan Officers. Commercial Lending Review, 7(1),

5.

64-70.
Konak, F. (2018). The Effect of Cash Flows on Firm Performance: Empirical Evidence
from Borsa Istanbul Industrial Index. Proceedings of International multidiscriplinary

6.

Congress of Eurasia, 18th, 345 – 351.
Nwakaego, D.A, Ikechukwu, O. and Ifunanya, L.C. (2015). Effect of Cash Flow
Statement on Company’s Performance of Food and Beverages Companies in Nigeria.
World Applied Science Journal, 33(12), 1852- 1857.




×