Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Một số giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tại trường trung học phổ thông đông hiếu (thị xã thái hòa) đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.62 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục (GD) Việt Nam đang phát triển trong bối cảnh thế giới có
nhiều thay đổi nhanh chóng và phức tạp. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế về
giáo dục đã trở thành xu thế tất yếu, đây cũng chính là cơ hội để giáo dục nước
ta vươn đến đạt chuẩn của khu vực và thế giới. Trong thời gian qua, Đảng và
Nhà nước ta cũng đã có rất nhiều những Chỉ thị, Nghị quyết cụ thể hóa các
nhiệm vụ trong các thời kỳ khác nhau của giáo dục, đặc biệt chú trọng giáo
dục phổ thông. Chỉ thị 40 của Ban Bí thư về Xây dựng đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý giáo dục [2], Chiến lược phát triển giáo dục phổ thông 20112020 [4], Nghị quyết 29 Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) [1], Văn kiện Đại
hội đại biểu lần thứ XII [3], Nghị quyết 88 của Quốc hội về đổi mới chương
trình giáo dục phổ thông, …. đã có xây dựng chiến lược phát triển giáo dục
phổ thông trong những năm tới.
GDPT là nền tảng cơ bản của hệ thống giáo dục quốc dân, có vị trí hết
sức quan trọng, quyết định chất lượng nguồn lực lao động của đất nước.
Không thể có chất lượng giáo dục phổ thông tốt nếu không có đội ngũ nhà
giáo tương ứng về chất lượng. Đội ngũ nhà giáo yếu kém về mọi mặt thì dù
chương trình, sách giáo khoa có tiên tiến đến đâu, cơ sở vật chất thiết bị dạy
học có đầy đủ đến đâu cũng khó có thể đảm bảo được chất lượng giáo dục. Có
đội ngũ nhà giáo và CBQL tốt thì mới phát huy được các điều kiện đảm bảo
khác cho chất lượng giáo dục.
Bậc THPT là giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp, là giai đoạn
giáo dục 3 năm cuối của giáo dục phổ thông (từ lớp 10 đến lớp 12) nhằm phát
triển năng lực theo sở trường, nguyện vọng của từng học sinh, bảo đảm học
sinh tiếp cận nghề nghiệp, chuẩn bị cho giai đoạn sau giáo dục phổ thông có
thể tham gia cuộc sống lao động. Điều kiện thực hiện chương trình giáo dục
phổ thông yêu cầu: “Số lượng và cơ cấu giáo viên (kể cả giáo viên thỉnh giảng,
nếu có) bảo đảm để dạy các môn học và hoạt động giáo dục của chương trình
giáo dục phổ thông; 100% giáo viên có trình độ được đào tạo đạt chuẩn hoặc
trên chuẩn; được xếp loại đạt trở lên theo Chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở
1




giáo dục phổ thông; giáo viên được đảm bảo các quyền theo quy định của
Điều lệ trường phổ thông và của pháp luật; giáo viên được bồi dưỡng, tập
huấn về dạy học theo chương trình giáo dục phổ thông” [5.8]
Các quy định về chuẩn chức danh nghề nghiệp cho GV phổ thông hiện
hành sẽ là thước đo để GV tự đánh giá bản thân, tự có kế hoạch bồi dưỡng đạt
chuẩn; là công cụ để các nhà quản lý ở trường phổ thông đánh giá giáo viên,
có kế hoạch phát triển đội ngũ; là cơ sở để đánh giá ngoài chất lượng các
trường phổ thông Việt Nam.
Như vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo được coi là nhiệm
vụ tiên quyết trong các trường học phổ thông hiện nay. Hoạt động BDGV nói
chung và BDGV THPT nói riêng tuy đã được các cấp quản lý chú trọng hơn
nhưng hiệu quả vẫn còn thấp. Một thực tế đáng lo ngại là một bộ phận GV ở
các cấp học, bậc học chưa đáp ứng yêu cầu về chất lượng của ngành GD, đặc
biệt, trước những yêu cầu cấp thiết về đổi mới căn bản và toàn diện GD ở Việt
Nam. Ở một số địa phương, hoạt động BDGV vẫn còn mang tính phong trào,
chưa thực sự đi vào chiều sâu, còn thụ động theo những chủ trương của cấp
trên. Công tác quản lý hoạt động BDGV ở trường THPT chưa thực sự hiệu
quả, do chưa thực hiện tốt trong khâu phối hợp giữa các chủ thể quản lý hoạt
động BDGV các cấp, chưa phát huy tốt vai trò của các chủ thể quản lý trong
công tác quản lý hoạt động BDGV THPT. Hoạt động BDGV THPT chưa thực
sự được quan tâm đúng tầm và chưa theo kịp xu thế phát triển hiện nay của
GDPT nói riêng và GD nước nhà nói chung.
Tại trường THPT Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa) nói riêng và các trường
THPT ở các huyện miền núi nói chung, vấn đề BDGV thường xuyên cũng đã
được chú trọng, nhất là trong những năm gần đây trước yêu cầu của đổi mới
toàn diện giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, cũng như thực trạng chung, do khách
quan và chủ quan, hoạt động BDGV tại trường THPT Đông Hiếu vẫn còn
nhiều bất cập cần quan tâm.

Trong bối cảnh hiện nay, các trường THPT cũng cần có những kế
hoạch chủ động nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo Việt Nam. GV THPT phải thường
xuyên được bồi dưỡng về phẩm chất, về chuyên môn, nghiệp vụ, các năng lực
2


theo chuẩn nghề nghiệp đã quy định để đáp ứng đòi hỏi của nền giáo dục Việt
Nam thế kỷ XXI, các nhà QLGD phải có năng lực quản lý tốt hoạt động
BDGV trong bối cảnh đổi mới GD nước nhà. Từ những lý do nêu trên, tôi
chọn đề tài “Một số giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tại
trường Trung học phổ thông Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa) đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục đào tạo hiện nay” để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý hoạt động BDGV
THPT hiện nay, đề tài đề xuất các giải pháp quản lý hoạt động BDGV THPT
tại trường THPT Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa) trong bối cảnh đổi mới giáo
dục ở Việt Nam.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Trong đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích - tổng
hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa…các vấn đề lý luận nhằm xây dựng cơ sở lý
luận về quản lý hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện
nay.
3.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Trong đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như:
- Điều tra bằng phiếu đến các nhà quản lý GD và GV THPT tại một số
trường THPT thị xã Thái Hòa, từ đó tổng kết và rút kinh nghiệm, tìm kiếm
giải pháp quản lý hoạt động BDGV THPT ở trường THPT Đông Hiếu trong
bối cảnh đổi mới GD ở Việt Nam.

- Tổ chức thử nghiệm một số giải pháp được đề xuất trong đề tài.
Từ đó, đối chiếu thử nghiệm để kiểm chứng các giải pháp đề xuất.
3.3. Một số phương pháp khác
- Xử lý số liệu hệ thống sơ đồ, bảng biểu, đồ thị trên các phần mềm;
- So sánh, đối chiếu, thống kê, tổng hợp…
4. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Kiến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,
phần Nội dung đề tài có 3 phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trung
3


học phổ thông trong bối cảnh đổi mới giáo dục.
Phần 2: Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trung học
phổ thông tại trường Trung học phổ thông Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa).
Phần 3: Giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên trung học tại
trường Trung học phổ thông Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa) đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục đào tạo hiện nay.

4


PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên THPT trong bối
cảnh đổi mới giáo dục
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về bồi dưỡng GV và quản lý
hoạt động bồi dưỡng GV
GV có vai trò quan trọng đối với sự phát triển GD, công tác BDGV trở
thành một yếu tố để đảm bảo đội ngũ GV phát triển bền vững trước bối cảnh
đổi mới giáo dục. Hoạt động BDGV đã khẳng định vị trí quan trọng của hoạt

động này về mục tiêu cũng như nội dung, phương pháp, đặc trưng của hoạt
động BDGV và các điều kiện đảm bảo hiệu quả hoạt động BDGV (trình độ
chuyên môn, kỹ năng sư phạm, nhân cách nghề nghiệp). Kết quả các nghiên
cứu trong nước đều khẳng định vị trí quan trọng của những người GV và coi
hoạt động BDGV là một hoạt động không thể thiếu được trong hoạt động GD
ở các cấp học, ngành học.
Năm 2013, cùng với công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội của đất nước,
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương khóa XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo,
đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã xác định những
vấn đề liên quan đến GD-ĐT nói chung và công tác đào tạo, BD đội ngũ GV
nói riêng. Nghị quyết đã khẳng định nhiệm vụ phát triển đội ngũ nhà giáo và
cán bộ quản lý là một nhiệm vụ có ý nghĩa then chốt, nhằm đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục và đào tạo, “xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển
kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế; thực hiện
chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo”; “đổi mới
mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất
lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp” [1].
Mục tiêu xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo là một trong những nội
dung được thể hiện thường xuyên trong nhiều văn kiện của Đảng, Nhà nước,
Chính phủ, Ngành GD-ĐT trong những năm gần đây. Hàng loạt các Chỉ thị,
5


Nghị quyết ra đời thể hiện tính cấp thiết của việc đổi mới GDĐT, trong đó xây
dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo được xem là khâu có ý nghĩa then chốt. Chỉ
thị số 40/2004/CT-TƯ ngày 15 tháng 6 năm 2004 của Ban Chấp hành Trung

ương Đảng về việc Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục có đưa ra những nhiệm vụ cụ thể cho việc xây dựng và phát
triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý: “tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội
ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng bảo
đảm đủ số lượng và cân đối về cơ cấu; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ, đạo đức cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; đổi mới, nâng cao
chất lượng công tác quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; xây dựng và
hoàn thiện một số chính sách, chế độ đối với đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc xây dựng và nâng cao
chất lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục.” [2]
Tiếp tục kết quả đạt được trong thời gian qua, Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ XII đã xác định những nhiệm vụ chủ yếu của GD&ĐT nước nhà trong
những năm tới: “Giáo dục là quốc sách hàng đầu…Đổi mới căn bản công tác
quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ
sở giáo dục, đào tạo. Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục;
đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn
lực đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo
dục Việt Nam đạt đến trình độ tiên tiến trong khu vực”. [3]
Trong Chiến lược phát triển GDPT và giáo dục phổ thông giai đoạn
2011-2020, mục tiêu chiến lược của giáo dục phổ thông được đặt ra là: “đào
tạo ra những con người Việt Nam có phẩm chất, năng lực và sức khỏe trong xã
hội hiện đại; phát triển quy mô cơ cấu GD, hài hòa, đảm bảo công bằng xã hội
trong giáo dục và cơ hội học tập suốt đời cho mỗi công dân” [4]. Văn kiện trên
cũng nêu rõ 8 giải pháp để đạt được mục tiêu chiến lược, trong đó giải pháp 1
“đổi mới quản lý giáo dục” được xem là giải pháp đột phá và giải pháp 2 “phát
triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý (CBQL)” được xem là giải pháp then
chốt và là điều kiện đảm bảo thực hiện thắng lợi mục tiêu của giáo dục phổ
thông trong thời kỳ mới.

6



Theo Thông tư 32/2018/TT-BGĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ
GD&ĐT, chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, bậc trung học phổ thông
có nhiệm vụ “giúp học sinh tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần
thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học
và ý thức học tập suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng
lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân để tiếp tục học lên, học
nghề hoặc tham gia vào cuộc sống lao động, khả năng thích ứng với những đổi
thay trong bối cảnh toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới” [5.6]
Cùng với việc ban hành Chuẩn chức danh nghề nghiệp cho giáo viên
các bậc học, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành “Quy định chuẩn nghề nghiệp
giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông” (Ban hành kèm theo Thông tư số
20/2018/TT-BGDĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo) [6]. Điều đó cho thấy tầm quan trọng, vai trò của giáo viên phổ
thông như thế nào trong quá trình đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục Việt
Nam, góp phần đưa giáo dục Việt Nam tiến gần đến chuẩn khu vực và quốc tế.
Sở GD và ĐT Nghệ An rất chú trọng đến công tác bồi dưỡng thường
xuyên cho đội ngũ GV nói chung và GV THPT nói riêng. Toàn ngành tập
trung thực hiện Kế hoạch 07-KH/UBND ngày 05/01/2018 của UBND Tỉnh
Nghệ An về Đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông giai đoạn
2016-2020, định hướng đến 2025 trên địa bàn tỉnh Nghệ An. Tại Hội thảo
khoa học “Phát triển giáo dục phổ thông trên đại bàn tỉnh Nghệ An đáp ứng
yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay” (tháng 11/2018), trong tham luận “Phát
triển giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Nghệ An, thực hiện Nghị quyết 26NQ/TW và Nghị quyết 29-NQ/TW đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện
GD&ĐT”, Giám đốc Sở GD&ĐT Nghệ An đã nhấn mạnh một trong những
giải pháp đột phá là xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên đáp
ứng yêu cầu phát triển phẩm chất, năng lực người học. Tham luận nhấn mạnh:
“Phối hợp tổ chức đào tạo lại, bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ cán bộ

quản lý về quản trị trường học; cho đội ngũ giáo viên về năng lực, nghiệp vụ
giảng dạy, giáo dục tương ứng với chuẩn phát triển phẩm chất, năng lực người
7


học. Xây dựng đội ngũ cốt cán thực sự có phẩm chất, năng lực và say mê
nghiên cứu, có tinh thần học hỏi và quyết tâm vượt khó để đổi mới; làm nòng
cốt cho hoạt động bồi dưỡng giáo viên”. [7]
Một số văn bản trên là cơ sở pháp lý quan trọng để các nhà quản lý, nhà
khoa học tìm kiếm giải pháp để thực hiện mục tiêu BDGV đủ về số lượng, đạt
chuẩn về trình độ đào tạo, hợp lý về cơ cấu và đủ năng lực hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao. Cũng vì thế, công tác BDGV trở thành một yếu tố để
đảm bảo đội ngũ GV phát triển bền vững trước bối cảnh đổi mới giáo dục.
Trong hoạt động quản lý bồi dưỡng giáo viên, xu hướng phổ biến trên
thế giới là quản lý hoạt động BDGV dựa trên khung năng lực. Tiếp cận hoạt
động quản lý bồi dưỡng giáo viên dựa trên mô hình năng lực hay tiếp cận năng
lực hình thành và phát triển rộng trên khắp thế giới từ những năm 1970 của thế
kỷ XX. GD Việt Nam cũng đã tiến hành xây dựng khung năng lực GV và
quản lý BDGV theo khung năng lực. Thông tư 20/2018/TT- BGDĐT ban hành
Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông, theo đó
chuẩn giáo viên phổ thông gồm có 5 tiêu chuẩn được cụ thể bằng 15 tiêu chí.
Mục đích ban hành chuẩn nghề nghiệp giáo viên phổ thông là “làm căn cứ để
giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông tự đánh giá phẩm chất, năng lực, xây dựng
và thực hiện kế hoạch rèn luyện phẩm chất, bồi dưỡng nâng cao năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ; làm căn cứ để cơ sở giáo dục phổ thông đánh giá
chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên…; làm căn cứ để cơ quan quản lý nhà
nước nghiên cứu, xây dựng và thực hiện chế độ, chính sách phát triển đội ngũ
giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông cốt cán; làm căn cứ để các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng giáo viên xây dựng, phát triển chương trình và tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng phát triển phẩm chất, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên…”

[6]. Như vậy trong thời gian tới, dựa vào chuẩn năng lực được quy định trên,
việc quản lý hoạt động BDGV phổ thông nói chung và giáo viên THPT ở Việt
Nam sẽ có những có sở lý luận vững chắc để tiếp cận theo cách chung của khu
vực và thế giới, từ đó nâng cao chất lượng giáo viên phổ thông Việt Nam đáp
ứng yêu cầu đổi mới giáo dục đào tạo hiện nay.
8


1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Bồi dưỡng và hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Khái niệm bồi dưỡng được dùng với nghĩa là cập nhật, bổ túc thêm một
số kiến thức, kỹ năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ
bản, cung cấp thêm những kiến thức chuyên ngành, mang tính ứng dụng.
Theo chúng tôi, BD được hiểu là hoạt động đảm bảo năng lực của đội
ngũ luôn phù hợp với yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của hệ thống trong điều kiện
có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, giúp chuyển hệ thống đến
trạng thái mới thích ứng với những hoàn cảnh mới. Như vậy, BD hiểu theo
nghĩa rộng là quá trình giáo dục, đào tạo nhằm hình thành nhân cách và những
phẩm chất riêng biệt của nhân cách theo định hướng mục đích đã chọn. Còn
hiểu theo nghĩa hẹp thì bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật kiến thức, kỹ
năng còn thiếu hoặc đã lạc hậu, nhằm mục đích nâng cao và hoàn thiện năng
lực hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể nào đó.
Hoạt động BDGV là hoạt động đặc trưng cho nghề dạy học. Do tính chất
của nghề nghiệp mà hoạt động BDGV có nội dung rất phong phú. Hoạt động
BDGV không chỉ giới hạn trong giảng dạy và làm công tác chủ nhiệm lớp, nó
còn bao gồm cả các công việc như tự BD, BD giáo dục HS ngoài giờ lên lớp,
BD sinh hoạt chuyên môn, nghiên cứu nội dung bài học, nghiên cứu khoa học
giáo dục…Các nội dung hoạt động BDGV có mối liên hệ mật thiết với nhau,
tạo thành một chỉnh thể thống nhất, trong đó, giảng dạy và giáo dục HS là hai
nội dung hoạt động BD cơ bản của GV. Những nội dung khác phải phục vụ,

hỗ trợ để GV thực hiện tốt hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh.
Hoạt động BDGV diễn ra khi cá nhân GV và nhà trường có nhu cầu cần
được bổ sung kiến thức, kỹ năng còn thiếu hoặc cần nâng cao kiến thức, kỹ
năng chuyên môn, nghiệp vụ cho GV. Hoạt động BDGV bao gồm các yêu
cầu: mục tiêu, nội dung, phương thức và kết quả bồi dưỡng; cấp bồi dưỡng,
đối tượng được bồi dưỡng. Trong đó, nếu biết phát huy vai trò chủ thể của đối
tượng được bồi dưỡng là GV sẽ quyết định đến chất lượng hoạt động BDGV.
1.2.2. Quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên
Quá trình quản lý nói chung liên quan đến chủ thể quản lý, đối tượng
quản lý, nội dung, phương thức và mục đích của quá trình quản lý. Quản lý là
9


“tổ chức, điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [9], quản lý
chính là hoạt động có ý thức của con người nhằm định hướng, tổ chức, sử
dụng các nguồn lực và phối hợp hành động của con người nhằm đạt được mục
tiêu của tổ chức dưới sự tác động của những yếu tố khác.
Quản lý hoạt động BDGV THPT là hệ thống các tác động hướng đích
của chủ thể quản lý đến khách thể (đối tượng) quản lý nhằm đảm bảo hoạt
động BDGV THPT diễn ra đúng hướng, thực hiện thành công mục tiêu bồi
dưỡng. Mục tiêu của quản lý hoạt động BDGV THPT là nhằm phát triển năng
lực đội ngũ GV THPT một cách toàn diện và vững chắc, phù hợp với chuẩn
nghề nghiệp quy định, phù hợp yêu cầu thực hiện nhiệm vụ mới của người GV
THPT trong bối cảnh hiện nay.
Trong quản lý hoạt động BDGV THPT có nhiều chủ thể cùng tham gia
vào công tác quản lý. Ở các vị trí khác nhau, các cấp khác nhau có các chủ thể
với các vai trò và ảnh hưởng khác nhau. Ở Việt Nam, chủ thể quản lý hoạt
động BDGV ở các địa phương là Sở GD&ĐT và các trường THPT. Muốn cho
quản lý hoạt động BDGV đạt kết quả tốt thì Sở GD&ĐT và các trường THPT
cần tìm ra các giải pháp phù hợp, đó chính là việc lựa chọn các cách thức tác

động của các cấp quản lý đến hoạt động BDGV THPT nhằm tạo điều kiện cho
GV THPT phát triển năng lực nghề nghiệp trên cơ sở chi phí đầu tư hợp lý về
nguồn lực cho hoạt động bồi dưỡng.
1.3. Quản lý hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh đổi mới giáo dục
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII trong mục V (Đổi mới
căn bản toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực) đã nhận định:
“Công tác quản lý giáo dục, đào tạo có bước chuyển biến” nhưng “chất lượng,
hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu. Quản lý giáo dục, đào
tạo còn yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng
yêu cầu. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả”. Để “đến 2030, nền
giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực”, một trong những
phương hướng, nhiệm vụ mà Đại hội XII nêu ra là: “Đổi mới mạnh mẽ và
đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát
triển phẩm chất, năng lực người học…Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ
10


quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Thực hiện chuẩn hóa
đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo”. [3]
Trong những năm trước đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQTW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào
tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 về Đổi mới
chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo. Ngày 27 tháng 3 năm 2015, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương
trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Mục tiêu đổi mới được Nghị quyết
88/2014/QH13 của Quốc hội quy định: “Đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông nhằm tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và

hiệu quả giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề
nghiệp; góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền
giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hoà đức, trí, thể,
mĩ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh”. Thực hiện các Nghị
quyết của Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, “chương
trình giáo dục phổ thông mới được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm
chất và năng lực của học sinh; tạo môi trường học tập và rèn luyện giúp học
sinh phát triển hài hoà về thể chất và tinh thần, trở thành người học tích cực, tự
tin, biết vận dụng các phương pháp học tập tích cực để hoàn chỉnh các tri thức
và kĩ năng nền tảng, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời; có
những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có
trách nhiệm, người lao động có văn hoá, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu
phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước
trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới”. [5].
Hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh đổi mới giáo dục phải thay đổi
theo những yêu cầu mới của giáo dục, đào tạo nước nhà. Trong bối cảnh hiện
nay, hoạt động BDGV THPT nhằm mục tiêu chuẩn bị năng lực cần thiết để
người GV thực hiện thành công chương trình GDPT mới. Mục tiêu hoạt động
11


BDGV trong bối cảnh đổi mới giáo dục phải được xây dựng dựa trên khung
năng lực của người GV THPT thông qua các bước: đánh giá mức độ năng lực
hiện tại trên cơ sở khung năng lực cần có, phát hiện các mức độ chưa đạt so
với yêu cầu về năng lực được quy định, xác định mục tiêu bồi dưỡng. Đây
chính là điểm mới trong xây dựng mục tiêu hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh
hiện nay.
Quản lý hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh đổi mới giáo dục cũng
cần phải thay đổi theo mục tiêu này nhằm thực hiện tốt đồng thời yêu cầu quản
lý nhà trường phổ thông và yêu cầu mới về hoạt động BDGV theo hướng phát

triển các năng lực cốt lõi cho người GV để thực hiện chương trình GDPT mới.
Vai trò của các cấp quản lý tại địa phương là rất quan trọng, đặc biệt là vai trò
của nhà trường, Hiệu trưởng các trường THPT- người có thể tự chủ, tự quyết
định hoạt động này để vừa đảm bảo các yêu cầu chung của GDPT, vừa phù
hợp với điều kiện thực tế của nhà trường và đáp ứng được yêu cầu đổi mới
GDPT. Hiệu trưởng giữ vai trò là người đứng đầu, người chịu trách nhiệm
trước cấp trên về việc thực hiện hoạt động BDGV THPT tại các cơ sở giáo
dục. Về một phương diện khác, Hiệu trưởng có thể trở thành chủ thể thực hiện
công tác BDGV về một lĩnh vực nào đó mà bản thân Hiệu trưởng am hiểu,
nắm vững. Hiệu trưởng là người làm đầu mối giữa cơ quan quản lý cấp trên
với hoạt động BDGV ở trường học mình phụ trách. Căn cứ vào điều kiện cụ
thể, Hiệu trưởng có thể ủy quyền, giao một phần trách nhiệm quản lý công tác
BDGV cho một Phó Hiệu trưởng, nhưng bản thân Hiệu trưởng phải theo dõi,
đôn đốc, kiểm tra công tác này một cách thường xuyên, nghiêm túc.
Ngoài ra, Tổ trưởng chuyên môn cũng là người chịu trách nhiệm xây
dựng chương trình hoạt động bồi dưỡng của tổ, giúp tổ viên xây dựng kế
hoạch công tác chuyên môn, kiểm tra đôn đốc tổ viên thực hiện đúng kế hoạch
đã đề ra, cùng Hiệu trưởng đánh giá kết giáo dục thông qua hoạt động bồi
dưỡng.
Như vậy, các chỉ thị, nghị quyết, các văn bản của chính phủ và các cấp
quản lý về bồi dưỡng giáo viên, quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên; những
định nghĩa, các khái niệm chuyên môn được sử dụng trong đề tài chính là cơ

12


sở lý luận vững chắc làm tiền đề cho những nghiên cứu thực tiễn quản lý hoạt
động bồi dưỡng GV THPT tại trường THPT Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa).
2. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng GV THPT tại trường
THPT Đông Hiếu (Thái Hòa)

Mục đích nghiên cứu thực trạng quản lý hoạt động BDGV THPT chính
là để đánh giá một cách khách quan, khoa học về thực trạng tổ chức, quản lý
mặt công tác này, từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế, những thuận lợi và khó
khăn, bất cập và nguyên nhân, cung cấp cơ sở thực tiễn để xây dựng các giải
pháp có tính cần thiết, khả thi và hiệu quả trong việc quản lý hoạt động BDGV
THPT tại các trường THPT ở thị xã Thái Hòa nói chung và trường THPT
Đông Hiếu nói riêng trong bối cảnh đổi mới giáo dục đào tạo hiện nay.
Để có những kết luận chính xác và khoa học về thực trạng trong việc
quản lý hoạt động BDGV THPT tại trường THPT Đông Hiếu, chúng tôi tập
trung vào đánh giá những vấn đề sau:
- Đánh giá thực trạng nhận thức về hoạt động BDGV THPT đáp ứng yêu
cầu đổi mới GDPT, cụ thể là yêu cầu thực hiện chương trình GDPT mới.
- Đánh giá thực trạng hoạt động BDGV THPT trong thời gian qua trên cơ
sở đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
- Đánh giá thực trạng quản lý hoạt động BDGV THPT các trường THPT
tại thị xã Thái Hòa (Nghệ An), đặc biệt tập trung vào cấp quản lý trực tiếp là
Ban giám hiệu, tổ chuyên môn: Thực trạng việc lập kế hoạch, tổ chức thực
hiện kế hoạch, chỉ đạo và đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch BDGV THPT,
thực trạng đảm bảo các điều kiện phục vụ hoạt động BDGV THPT, các yếu tố
ảnh hưởng đến quản lý hoạt động BDGV THPT.
Đối tượng khảo sát bao gồm 6 CBQL và 60 GV THPT một số trường
THPT tại thị xã Thái Hòa, cụ thể là:
- Trường THPT Đông Hiếu
- Trường THPT Tây Hiếu
- Trường THPT Thái Hòa
2.1. Vài nét chung về GD THPT tại thị xã Thái Hòa
Thái Hòa là một thị xã nằm phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An, được thành lập
theo Nghị định 164/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2007 của Chính phủ.
13



Thị xã có diện tích khoảng hơn 135 km2, dân số khoảng 67.000 người chủ yếu
là dân tộc Kinh. Thị xã Thái Hòa có 10 đơn vị hành chính gồm 4 phường và 6
xã. Thái Hòa xưa kia là thủ phủ của Phủ Quỳ, là trung tâm kinh tế, văn hóa,
xã hội của vùng Tây Bắc tỉnh Nghệ An.
Đây là vùng đất có truyền thống hiếu học của xứ Nghệ, mặc dầu mới
được tách ra từ huyện Nghĩa Đàn từ năm 2007 nhưng Giáo dục và Đào tạo
Thái Hòa có nhiều chuyển biến trong những năm gần đây. Hiện nay, thị xã có
2/3 trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Trong những năm gần đây, giáo dục
Thái Hòa cũng đạt được những thành tích cao. Tại thị xã Thái Hòa hiện nay có
3 trường THPT công lập. Tổng số học sinh là 3445, giáo viên là 201, số lượng
CBQL tính từ tổ trưởng tổ chuyên môn trở lên 22 1. Trường THPT Đông Hiếu
có lịch sử phát triển 18 năm (trường được tách ra từ trường THPT Nghĩa Đàn
thuộc huyện Nghĩa Đàn từ năm 2001). Năm học 2018-2019, Trường THPT
Đông Hiếu có 28 lớp, số lượng HS là 1051 em và có 68 giáo viên, số lượng
CBQL là 03. Mặc dù trường được thành lập sau so với các trường trên địa bàn
thị xã, bề dày thành tích chưa nhiều, song đến thời điểm hiện tại về quy mô
lớp tương đương với các trường THPT khác của thị xã Thái Hòa là 28 lớp.
Trong những năm qua trường THPT Đông Hiếu cũng đã đạt được một số
thành tích đáng ghi nhận.Tạo được niềm tin trong lòng phụ huynh và học
sinh. Tỉ lệ học sinh giỏi, học sinh đậu Đại học, Cao đẳng, học sinh tốt nghiệp
ngày càng cao.
Tập trung nghiên cứu thực trạng chính là để đề xuất các giải pháp quản lý
hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay tại thị xã
Thái Hòa nói chung và trường THPT Đông Hiếu nói riêng.
2.2. Thực trạng về hoạt động BDGV THPT tại thị xã Thái Hòa
Chúng tôi sử dụng mẫu Phiếu số 1 (Phần Phụ lục) để điều tra sơ bộ về
các vấn đề sau:
- Nhận thức của GV về HĐ BD GV THPT;
- Tầm quan trọng của HĐ BDGV;

- Sự cần thiết của HĐ BDGV;

1

Số liệu năm học 2018-2019
14


- Mục tiêu và phương pháp của HĐ BDGV;
- Hiệu quả của các phương pháp HĐ BDGV;
- Hình thức BDGV phù hợp nhất;
- Kết quả của hoạt động BDGV;
- Cách đánh giá hoạt động BDGV;
- Điều kiện phục vụ cho HĐ BDGV;
- Trở ngại khó khăn trong công tác BDGV.
Trên cơ sở khảo sát các khách thể là CBQL và GV các trường THPT tại
thị xã Thái Hòa, chúng tôi nhận thấy đa phần CBQL và GV đều nhận thức về
tầm quan trọng và sự cần thiết của hoạt động BDGV. Tuy nhiên ở một số câu
hỏi về mục tiêu và phương pháp BDGV, hiệu quả của các phương pháp
BDGV, kết quả của hoạt động BDGV, cách đánh giá hoạt động BDGV... thì
phần lớn đều cho rằng trong thực tế thực sự chưa đạt được được chất lượng
như mong muốn. Đa phần đều khẳng định, điều kiện phục vụ cho HĐ BDGV
hiện nay đang ở mức trung bình, trở ngại khó khăn lớn nhất trong hoạt động
BDGV là sự bố trí, sắp xếp thời gian của người học để tiến hành BD. Trên cơ
sở những khảo sát sơ bộ như vậy, chúng tôi nhận thấy còn một số thực trạng
như sau:
2.2.1 Nhận thức của đội ngũ CBQL và GV về hoạt động BDGV THPT
Để nắm được tình hình nhận thức quản lý hoạt động BDGV THPT tại
một số trường THPT ở thị xã Thái Hòa, chúng tôi đã tiến hành khảo sát CBQL
bao gồm các chức danh Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, Tổ trưởng chuyên môn

và GV của các trường THPT Tây Hiếu, Đông Hiếu và Thái Hòa. Nhìn chung,
kết quả khảo sát đã phản ánh nhận thức về thực trạng quản lý hoạt động
BDGV tại các trường THPT hiện nay đã được chú ý nhưng chưa thực sự đáp
ứng được với yêu cầu của GD ĐT trong bối cảnh mới. Quản lý hoạt động
BDGV THPT còn chưa tập trung và đa dạng cả về hình thức lẫn nội dung.
Như vậy, trách nhiệm trong việc nâng cao nhận thức về hoạt động
BDGV THPT không chỉ riêng nhà quản lý quan tâm mà nó đòi hỏi phải có sự
thay đổi nhận thức từ chính các nhà giáo và CBQL ở các cấp GD, đặc biệt là ở
các trường THPT.

15


2.2.2 Thực trạng về phẩm chất và năng lực của người GV THPT (Theo
Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông kèm theo
Thông tư 20/2018/TT-Bô GD và ĐT ngày 22 tháng 8 năm 2018 của Bộ trưởng
bộ GD và ĐT)
Chúng tôi dựa theo 3/5 tiêu chuẩn (tiêu chuẩn 1,2,5) được cụ thể bằng
các tiêu chí trong Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ
thông hiện hành để khảo sát thực trạng về phẩm chất và năng lực chuyên môn,
nghiệp vụ của người GV THPT tại thị xã Thái Hòa.
Về phẩm chất, hầu hết GV THPT được các nhà QLGD đánh giá tốt về
đạo đức nhà giáo, phong cách nhà giáo; phần lớn GV có tinh thần tự học, tự
rèn luyện và phấn đấu, là tấm gương mẫu mực về đạo đức, phong cách nhà
giáo, ảnh hưởng tốt và hỗ trợ đồng nghiệp trong rèn luyện đạo đức, hình thành
phong cách nhà giáo.
Về phát triển chuyên môn, nghiệp vụ, hầu hết giáo viên THPT tại thị xã
Thái Hòa nắm vững chuyên môn và thành thạo nghiệp vụ; luôn có ý thức nâng
cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu đổi mới
giáo dục hiện nay. Tuy nhiên, đa số GV THPT chưa thực sự chủ động trong

xây dựng kế hoạch dạy học và giáo dục; sử dụng phương pháp dạy học và giáo
dục; kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực hoc sinh
theo yêu cầu của chương trình GDPT mới; thực hiện chưa thực sự hiệu quả
các biện pháp tư vấn và hỗ trợ phù hợp với từng đối tượng học sinh trong hoạt
động dạy học và giáo dục.
Ngoài ra, ở tiêu chuẩn thứ 5, việc sử dụng ngoại ngữ vào dạy học và
phát triển chuyên môn, nghiệp vụ vẫn còn nhiều hạn chế. Gần như việc bồi
dưỡng về ngoại ngữ đang được xem là đối phó và hợp lý hóa bằng cấp, chứng
chỉ. So sánh với mức yêu cầu "đạt” trong Quy định chuẩn nghề nghiệp giáo
viên cơ sở giáo dục phổ thông ở tiêu chí 14, chúng tôi nhận thấy hầu hết GV
THPT đều chưa đạt, GV chưa sử dụng ngoại ngữ trong giao tiếp ở mức đơn
giản. Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT), khai thác và sử dụng thiết
bị công nghệ trong dạy học, giáo dục còn chưa đồng đều đối với GV ở các
trường THPT. Một số CBGV còn ngại sử dụng CNTT và các thiết bị dạy học
hiện đại vào dạy học và các hoạt động giáo dục.
16


Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên chủ yếu xuất phát từ những vấn
đề sau:
- Một số GV lớn tuổi, chủ yếu dạy học bằng kinh nghiệm, bằng kiến
thức được đào tạo ở các trường sư phạm, họ chủ quan và thường ít quan
tâm đến bồi dưỡng nâng cao trình độ.
- Một số GV truyền thụ kiến thức theo con đường mòn, ngại tiếp cận
với phương pháp mới, ngại sử dụng thiết bị dạy học hiện đại để hỗ trợ dạy học.
- Trước những yêu cầu bức thiết của ngành GD-ĐT hiện nay, đặc biệt
là việc nâng chuẩn giáo viên và bồi dưỡng GV để thực hiện tốt chương trình
GDPT mới, nhiều trường, nhiều GV vẫn còn bàng quan, chưa sẵn sàng nhập cuộc.
Như vậy, dựa vào chuẩn quy định trên để đánh giá thực trạng về phẩm
chất và năng lực GV THPT trên địa bàn thị xã Thái Hòa, chúng tôi nhận thấy

để đáp ứng yêu cầu đổi mới GD ở nước ta hiện nay, GV cần được BD nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống,
đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng thực hành, vận dụng
kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự học, khuyến khích học
tập suốt đời đối với HS. GV phải say mê tham gia nghiên cứu khoa học, tích
cực vận dụng phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực và phân hóa, tự
chọn, nắm vững kiến thức về tâm lý lứa tuổi… nhằm nâng cao đạo đức nghề
nghiệp, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Qua đó góp phần phát triển trí tuệ,
thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và BD năng
khiếu, định hướng nghề nghiệp cho HS, đạt được mục tiêu của bậc học THPT.
2.2.3. Thực trạng thực hiện nội dung BDGV THPT trong bối cảnh đổi
mới giáo dục
Do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội cùng với những đòi hỏi đối với
ngành giáo dục, trong những năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tăng cường
hoạt động BD, nâng cao chất lượng đội ngũ GV. Hiện nay nội dung BDGV do
các Sở GD&ĐT tổ chức chủ yếu là: BD nâng cao về trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ; BD nâng cao năng lực sư phạm và BD các kỹ năng mềm. Ngoài ra,
có các nội dung BD theo các chuyên đề khác nhau mang tính thời sự của
ngành phù hợp với yêu cầu của địa phương. Chương trình BDGV THPT đa số
17


đều xác định rõ mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, thời gian, cách
thức tổ chức BD và các điều kiện thực hiện chương trình BD.
Qua nghiên cứu các kế hoạch, chương trình và nội dung BDGV THPT
của Sở GD&ĐT Nghệ An, các trường THPT, chúng tôi nhận thấy Sở và các
trường đã có sự uyển chuyển và linh hoạt trong việc xây dựng và triển khai
chương trình BDGV THPT, tuy nhiên vẫn còn một vài băn khoăn. Chương
trình BD vẫn nặng về lý thuyết, chưa có nhiều những hoạt động trải nghiệm
nghề nghiệp; chưa có những nội dung cụ thể BDGV để nâng cao kiến thức và

năng lực thực hiện Chương trình GDPT mới; nội dung BDGV được áp đặt từ
trên xuống, các trường hầu như chỉ thực hiện thụ động, không dựa vào nhu cầu
và khả năng BD của GV, điều kiện cụ thể của trường, lớp.
Ngoài ra, nhiều trường THPT trên địa bàn còn coi nhẹ việc BD kỹ năng
sư phạm, đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao năng lực sử dụng CNTT
trong dạy học và năng lực sử dụng ngoại ngữ.
Kết quả khảo sát về các nội dung BDGV THPT hiện nay cho thấy việc
BD cho GV THPT đa số được thực hiện thường xuyên ở các trường THPT,
chủ yếu là BD các nội dung như: BD nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất,
đạo đức nhà giáo; BD về các kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm; BD
kỹ năng sư phạm; BD đổi mới phương pháp giảng dạy và BD nâng cao chất
lượng sử dụng ngoại ngữ, CNTT.
Năm học 2017-2018, GV các trường THPT tại Thái Hòa đã được bồi
dưỡng các chuyên đề: Chuyên đề về đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới
kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực học sinh thông qua dạy học
theo chủ đề, chuyên đề Sinh hoạt tổ CM theo nghiên cứu bài học, chuyên đề
Hướng dẫn ra đề trắc nghiệm thi THPT quốc gia, chuyên đề Tư vấn học
đường, chuyên đề về Công tác truyền thông và an ninh mạng..... Năm học
2017-2818, toàn thị xã đã BD chuẩn chức danh nghề nghiệp cho GV THPT
hạng II là 155 người, chiếm 69,5 % số lượng GV, hạng I là 0 GV.
Ngoài những chuyên đề được bồi dưỡng theo kế hoạch của cấp trên,
thì tại trường THPT Đông Hiếu, Ban chuyên môn chỉ đạo các tổ, nhóm
chuyên môn triển khai một số chuyên đề liên quan đến công tác BDGV sau:
Chuyên đề về nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác chủ nhiệm lớp; tổ
18


chức sinh hoạt chuyên đề trong bộ môn Ngữ văn thông qua hoạt động ngoại
khóa của câu lạc bộ Văn học dân gian; tổ chức ngoại khóa câu lạc bộ Ngoại
ngữ có sự tham gia của các thầy cô giáo người nước ngoài ở các trung tâm

Ngoại ngữ trên địa bàn thị xã... Hàng năm, Ban chuyên môn nhà trường còn tổ
chức hội thi giáo viên giỏi cấp trường cho GV. Thông qua cuộc thi, mỗi GV
tiếp tục được trau dồi, tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ.
Một số nội dung thiết thực khác phục vụ cho chuyên môn của bản thân
GV thì chưa được BD thường xuyên, hoặc có BD thường xuyên nhưng chưa
đáp ứng được mục tiêu BD đã đề ra.
Trong các trường THPT vẫn còn tồn tại sự thụ động trong nội dung
BD. Hầu hết nội dung bồi dưỡng đều từ Bộ hoặc từ Sở GD và ĐT, hầu hết các
trường đều không chủ động trong việc đề xuất nội dung BDGV theo đúng đòi
hỏi từ bản thân GV của trường mình. Những nội dung cần được BD ở các
trường THPT khi được xây dựng cần phải được đánh giá lại dựa trên những
nhu cầu cần được BD. Khi chúng ta xác định đúng nhu cầu về những nội dung
được BD, tổ chức BD ở những nội dung đó thì chất lượng đạt được có thể tốt
hơn, người GV có thể nhận thấy được sự quan tâm của các cấp quản lý đối với
những nhu cầu của họ, tạo động lực và tinh thần hăng say làm việc và chất
lượng đạt được cao hơn.
Hiện nay, chương trình GDPT tổng thể và chương trình chi tiết các môn
học đã được công bố. Theo lộ trình của Bộ GD và ĐT thì năm học 2022-2023
sẽ thực hiện chương trình GDPT mới cho bậc THPT, vì thế các nội dung bồi
dưỡng mặc dù có thay đổi theo hướng đổi mới phát huy năng lực người học
nhưng chương trình BDGV để đáp ứng yêu cầu thực hiện chương trình GDPT
mới chưa đáp ứng nhu cầu thực tế.
2.2.4. Phương pháp và hình thức BDGV THPT
Hiện nay, có những phương pháp và hình thức BDGV phổ biến như:
- Bồi dưỡng trực tiếp: Hình thức bồi dưỡng trực tiếp phổ biến nhất là
BD tập trung, trực tiếp theo thang bậc (giảng viên cấp Bộ BD cho cán bộ cốt
cán cấp sở, cốt cán cấp sở BD cho cốt cán trường THPT, cốt cán trường BD
cho CBQL và GV toàn trường). Ưu điểm của hình thức này là học viên được
nghe giảng trực tiếp, được các cấp quản lý dưới hình thức lớp học. Vì được tổ
19



chức theo lớp học nên có thể tổ chức các hình thức thảo luận, semina, học
nhóm, làm bài tập, tiểu luận… trong quá trình dạy học. Học viên được học lý
thuyết trên lớp, có thể được tổ chức thực hành và các hoạt động khác tại các
cơ sở giáo dục, hướng dẫn quan sát, đánh giá, rút kinh nghiệm. Hình thức này
bắt buộc người học phải dành một lượng thời gian nhất định tập trung vào việc
BD. Tuy nhiên, hạn chế của hình thức này chính là chất lượng báo cáo viên có
thể không đáp ứng yêu cầu, nội dung bài giảng có thể bị thay đổi theo chủ
quan và khả năng của người BD (theo bậc). GV sẽ gặp nhiều khó khăn về việc
sắp xếp thời gian và không gian, chỉ tiến hành được trong dịp nghỉ hè. Thường
thì nội dung và thời lượng BD càng được rút ngắn dần theo từng cấp, khi BD ở
cấp Bộ là 10 ngày thì khi BD đến đội ngũ Gv trực tiếp giảng dạy chỉ còn 2
ngày. Do vậy, chất lượng BD sẽ không cao và không đạt mục tiêu đề ra.
- Bồi dưỡng trực tuyến: Ưu thế của hình thức và phương pháp này là
học viên được nghe giảng trực tiếp từ chuyên gia của Bộ GD và ĐT, tránh
được hiện tượng thông tin tam sao thất bản, không chính xác do hình thức BD
truyền đạt nhiều cấp. Bồi dưỡng trực tuyến sẽ phổ cập được đối tượng học
viên trên diện rộng, dễ dàng triển khai trên khắp mọi vùng miền, đặc biệt là
vùng sâu vùng xa, giúp tiết kiệm ngân sách tổ chức dạy học, chủ động về thời
gian. Hạn chế của hình thức này là không kiểm soát được số lượng học viên,
chất lượng BD; trang thiết bị để BD không đồng đều, dễ bị thực hiện một các
chiếu lệ, hời hợt.
- Hình thức giao việc, giao tài liệu, GV tự thực hiện việc BD theo thời
gian tự sắp xếp. Hình thức BD tự học, học qua mạng internet (online), tự
nghiên cứu tài liệu cũng là một phương pháp BD thường được sử dụng trong
BDGV hiện nay. Phương pháp này chỉ cung cấp tài liệu, hướng dẫn cách học
có thể giao nhiệm vụ học tập và bố trí các nguồn lực cần thiết cho các nhóm
làm việc, các nhóm báo cáo kết quả làm việc. Phương pháp này phát huy tính
tích cực, chủ động của học viên, chỉ thích hợp với các GV có ý thức tự học, tự

bồi dưỡng, còn phần nhiều không có tác dụng với BD đại trà nên hiệu quả đạt được
là chưa cao.
Như vậy, trong thực trạng chung về BDGV, các hình thức và phương
pháp bồi dưỡng đang được áp dụng hiện nay cũng cần được nghiên cứu để
20


phát huy những mặt mạnh và hạn chế. Cần có những chương trình hành động
cụ thể, phù hợp với mục tiêu, nội dung và phương pháp BD, đồng thời phù
hợp với những nhu cầu và khả năng điều kiện BD của GV THPT nói chung
hiện nay.
Nhìn chung, thực trạng về hoạt động BDGV THPT ở thị xã Thái Hòa
và trường THPT Đông Hiếu nói riêng đang còn nhiều bất cập, vướng mắc cần
tháo gỡ. Những bất cập, vướng mắc này cũng là những vấn đề chung trong
hoạt động BD GV trong cả nước. Vì vậy cần có những giải pháp thiết thực để
nâng cao hiệu quả hoạt động BDGV THPT trước yêu cầu đổi mới giáo dục.
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động BDGV THPT trong bối cảnh đổi
mới giáo dục
2.3.1. Thực trạng lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch BDGV THPT
đáp ứng yêu cầu đổi mới GDPT
Để thực hiện được mục tiêu của quản lý hoạt động BDGV THPT là
nhằm phát triển năng lực đội ngũ GV THPT một cách toàn diện và vững chắc,
phù hợp với chuẩn nghề nghiệp quy định, phù hợp yêu cầu thực hiện nhiệm vụ
mới của người GV THPT trong bối cảnh hiện nay, chủ thể quản lý cần phải có
năng lực lập kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch BDGV nhằm đáp ứng
yêu cầu đổi mới GDPT. Vai trò của lập kế hoạch phụ thuộc vào cấp quản lý
cấp trường. Hiện nay có các dạng kế hoạch như sau:
- Kế hoạch BDGV nhằm cụ thể hóa mục tiêu bồi dưỡng của Bộ GD&ĐT;
- Kế hoạch BDGV nhằm cụ thể hóa mục tiêu bồi dưỡng của Sở GD&ĐT;
- Kế hoạch BDGV thường xuyên, dài hạn và ngắn hạn của Nhà trường

(bao gồm kế hoạch đi học nâng cao trình độ chuyên môn: thạc sĩ, tiến sĩ,
nghiệp vụ: các lớp bồi dưỡng, trình độ chính trị: chuẩn hóa trình độ sơ cấp,
trung cấp và cao cấp đối với CBQL).
Kết quả khảo sát trên cho thấy hầu hết CBQL và GV đều đánh giá Hiệu
trưởng các trường THPT có quan tâm đến hoạt động lập kế hoạch BDGV của
trường mình. Cụ thể là việc cụ thể hóa mục tiêu và kế hoạch bồi dưỡng của
Bộ, Sở thành một kế hoạch BDGV của Nhà trường trong đó có kế hoạch
thường xuyên, kế hoạch dài hạn và các kế hoạch ngắn hạn, cấp tốc khác.
21


Nội dung cụ thể mà trong kế hoạch BDGV các trường THPT thường đưa
ra đó là kế hoạch bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng những kiến
thức xã hội và bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học. Trong thực tế, khi được hỏi thì
các hiệu trưởng và tổ trưởng chuyên môn đều khẳng định về tính khả thi và
chất lượng công tác lập kế hoạch bồi dưỡng GV của các trường THPT, việc
lập kế hoạch là quy định, hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể đối với GV
các trường THPT hiện nay.
Việc tổ chức thực hiện kế hoạch thể hiện vai trò rất cao của CBQL cấp
trường. Sau khi có kế hoạch, Nhà trường phân công trách nhiệm quản lý cho
thành viên trong Ban giám hiệu, tổ trưởng chuyên môn, thông qua đội ngũ cốt
cán chuyên môn chịu trách nhiệm tổ chức triển khai kế hoạch BD đến GV
trong trường, đảm bảo chất lượng BD. Trong những năm gần đây, các trường
THPT thị xã Thái Hòa nói chung và trường THPT Đông Hiếu nói riêng dưới
sự chỉ đạo của Sở GD&ĐT Nghệ An đã triển khai rất nhiều chương trình
BDGV nhằm đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình và sách giáo khoa mới
cho bậc THPT. Ngoài triển khai các hoạt động chuyên môn, các cấp quản lý
còn huy động nguồn lực cho hoạt động BD nâng cao năng lực nghiệp vụ, trình
độ chính trị cho GV THPT tại đơn vị. Để tổ chức thực hiện kế hoạch, cần xây
dựng cơ chế phối hợp giữa quản lý hoạt động BDGV THPT và các nguồn lực

(nhân lực, tài lực, vật lực, thông tin); chuẩn bị các điều kiện khác phục vụ cho
việc thực hiện kế hoạch BDGV THPT.
Tuy nhiên việc lập kế hoạch được quan tâm nhưng việc tổ chức thực
hiện kế hoạch BDGV tại các trường THPT thị xã Thái Hòa đôi lúc chưa đạt
yêu cầu như mong muốn, việc thực hiện kế hoạch còn lúng túng và thụ động.
Giữa việc lập kế hoạch và triển khai thực hiện kế hoạch đôi khi chưa thực sự
thống nhất, sự ủng hộ của GV với các kế hoạch BD chưa thực sự cao, còn
mang tính chất đối phó. Thậm chí, việc tổ chức thực hiện kế hoạch còn phụ
thuộc vào chủ quan của các trường, không có sự đồng đều trong việc triển khai
tổ chức thực hiện kế hoạch BDGV ở các trường THPT.

22


2.3.2. Thực trạng chỉ đạo thực hiện hoạt động BDGV THPT đáp ứng yêu
cầu đổi mới GDPT
Các trường THPT đều trực thuộc Sở GD&ĐT, nhận sự chỉ đạo trực tiếp
về BDGV từ Sở GD. Hiệu trưởng các trường THPT là người chỉ đạo, ra quyết
định triển khai các hoạt động tại trường mình.
Sở GD và Nhà trường cùng nhau phối hợp trong chỉ đạo thực hiện hoạt
động BDGV THPT. Cụ thể là các hoạt động:
- Xác định nhu cầu BD và mục tiêu của việc BD nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho GV THPT;
- Chỉ đạo các Nhà trường, tổ chuyên môn bố trí thời gian hợp lý, tạo điều
kiện cho GV tham gia BD; quy hoạch, chọn người đi BD;
- Hướng dẫn lựa chọn nội dung, phương pháp và hình thức BD phù hợp
với trình độ năng lực của GV THPT;
- Chỉ đạo đổi mới về mục tiêu, nội dung, PP và hình thức tổ chức, đánh
giá kết quả BDGV THPT;
- Chỉ đạo chuẩn bị và sử dụng các thiết bị, phương tiện phục vụ BDGV

THPT.
Thực tế trong quá trình nghiên cứu, thu thập thông tin và trao đổi với một
số CBQL là Hiệu trưởng và phó Hiệu trưởng các trường THPT, việc chỉ đạo
thực hiện các nội dung BD từ Sở GD&ĐT thường tập trung vào một số GV
cốt cán chuyên môn, rất nhiều GV hầu như ít khi tham gia tập huấn BD các
nội dung mới theo yêu cầu của đổi mới giáo dục. Như vậy, khi chỉ đạo thực
hiện BD GV, cần có một cách làm phù hợp để tạo cơ hội cho tất cả các GV
tham gia BD và tự BD. Việc chỉ đạo này đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả
các cấp quản lý GD từ Sở rồi đến Ban giám hiệu các trường THPT, các tổ
chuyên môn và đến từng GV. Để thực hiện tốt sự chỉ đạo từ Sở, các trường
cần có những văn bản chỉ đạo phù hợp với điều kiện cụ thể của trường mình
dựa trên những văn bản chỉ đạo từ cấp trên. Đặc biệt cần phải có sự phối hợp
nhịp nhàng trong chỉ đạo các hoạt động BDGV.

23


2.3.3. Thực trạng quản lý cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ hoạt
động BDGV THPT
Thực tế cho thấy, hiện nay đa số các trường THPT có tinh thần trách
nhiệm cao trong việc thực hiện chỉ đạo của cấp trên: phân công chuyên môn,
lập kế hoạch quản lý sử dụng cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ hoạt
động BDGV THPT.
Kết quả khảo sát cho thấy, đa số các tiêu chí về điều kiện phục vụ BDGV
THPT tương đối đầy đủ, nhưng chất lượng đáp ứng cho yêu cầu BD về cơ sở
vật chất nói chung chưa đồng đều ở các trường. Đặc biệt, là các điều kiện như:
trang thiết bị phục vụ BD; thời gian tổ chức BD; chi phí cho các hoạt động BD
và chi phí cho học viên tham dự BD,... còn chưa đáp ứng được yêu cầu.
Một số CBQL của các trường THPT chưa thật sự quan tâm đến chất
lượng các điều kiện phục vụ hoạt động BDGV THPT. Trong quản lý còn nặng

về hình thức, lãng phí, chưa tạo sức bật trong hoạt động quản lý thiết bị dạy
học để phục vụ nhu cầu cho việc đổi mới phương pháp dạy học, BDGV.
Ngoài ra, nhiều GV còn không quan tâm hoặc để tình trạng lãng phí việc sử
dụng thiết bị, CSVC trong BD. Tài liệu phục vụ BDGV đôi lúc còn bị xem
nhẹ trong quá trình BD.
Nhìn chung, các hoạt động BDGV THPT đã được Sở GD&ĐT Nghệ An
và các trường THPT ở thị xã Thái Hòa cùng tham gia thực hiện. Mục tiêu
BDGV các cấp được xác định rõ ràng, thường xuyên, đổi mới nội dung BD ngày
càng được chú trọng đáp ứng yêu cầu chương trình GDPT mới, hình thức và
phương pháp BD cải tiến theo hướng lấy người học làm trung tâm. Công tác
quản lý hoạt động BDGV THPT đã bước đầu ổn định từ khâu lập kế hoạch BD
đến khâu tổ chức thực hiện, chỉ đạo thực hiện và đến kiểm tra, đánh giá kết quả
hoạt động BDGV THPT. Đặc biệt, tại Thái Hòa, các trường từng bước đầu tư
trang thiết bị hiện đại vào hoạt động BDGV và bước đầu ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý hoạt động BDGV THPT. Những vấn đề liên quan đến
quản lý thực hiện mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp BDGV THPT
đã có những tiến bộ, đáp ứng được các yêu cầu phát triển giáo dục của thị xã.

24


Tuy vậy, nhìn chung, một số CBQL chưa nhận thức đầy đủ về những
đổi mới trong Chương trình GDPT, chưa coi việc BD năng lực đội ngũ nhà
giáo là nhiệm vụ quan trọng, quyết định chất lượng thực hiện Chương trình
GDPT mới; một số GV các trường THPT ở thị xã Thái Hòa có trình độ đào
tạo đạt chuẩn và trên chuẩn nhưng năng lực chuyên môn, nghiệp vụ vẫn chưa
đáp ứng được yêu cầu, nhiều GV chưa nhận thức đúng đắn về yêu cầu BD và
tự BD để nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn đáp ứng được yêu cầu thực
hiện nhiệm vụ trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Việc ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý hoạt động BDGV còn mang tính hình thức, chưa thực sự

phát huy hiệu quả cần có. Công tác kiểm tra, đánh giá chưa phản ánh đúng
thực trạng và kết quả hoạt động BDGV.
Ngành giáo dục đang tích cực triển khai Chiến lược phát triển giáo dục
phổ thông giai đoạn 2011 - 2020 và Nghị quyết số 29-NQ/TW, Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8, khóa XI về đổi mới GD&ĐT, trong đó
phát triển đội ngũ GV là giải pháp quan trọng. Đây là điều kiện thuận lợi và cơ
hội tốt về mặt chủ trương, tăng đầu tư kinh phí… để chúng ta có thể triển khai
các giải pháp BDGV tại các trường THPT. Tìm hiểu thực trạng chính là cách
chúng tôi tìm kiếm giải pháp để nâng cao chất lượng BDGV, quản lý hoạt
động BDGV hiện nay tại trường THPT Đông Hiếu trong vai trò là Hiệu
trưởng Nhà trường.
3. Giải pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng giáo viên tại trường
Trung học phổ thông Đông Hiếu (thị xã Thái Hòa) đáp ứng yêu cầu đổi
mới giáo dục đào tạo hiện nay.
Từ nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng và quá trình triển khai thực hiện
các giải pháp có hiệu quả ở đơn vị, chúng tôi đề xuất các giải pháp quản lý
hoạt động BDGV THPT tại thị xã Thái Hòa nói chung và trường THPT Đông
Hiếu nói riêng trong bối cảnh đổi mới giáo dục. Đây chính là những kinh
nghiệm thực tiễn mà tôi, trong vai trò là Hiệu trưởng, người chịu trách nhiệm
cao nhất về quản lý HĐ BDGV tại trường đã áp dụng và thực nghiệm.

25


×