Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

SKKN quản lý giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh trường trung học phổ thông hai bà trưng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.98 KB, 101 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Là cán bộ giáo viên trong thời kỳ đổi mới tôi nhận thức rõ khi công cuộc đổi mới
của đất nước càng đi vào chiều sâu, nền kinh tế thị trường phát triển mạnh mẽ, sự đan
xen các mặt tốt xấu diễn ra hàng ngày, những mặt tiêu cực của nó tác động không nhỏ
đến suy nghĩ, hành động của HS, những năm gần đây tình trạng trẻ vị thành niên vi
phạm pháp luật xu hướng gia tăng, đặc biệt có cả vụ án giết người, cố ý gây thương
tích…mà nạn nhân có cả thầy cô, bạn bè và người thân trong gia đình. Trẻ vị thành
niên phạm tội có nhiều nguyên nhân, trên thực tế còn HS học giỏi đạt điểm cao trong
các môn học nhưng khả năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp lại rất kém, phần này cũng
do giáo dục ở một số nhà trường thiên về dạy chữ hơn là dạy người. Nội dung giáo dục
trong nhà trường nặng về lý thuyết, xem nhẹ thực hành, ít liên hệ thực tiễn, HS thiếu
hiểu biết về pháp luật, lối sống, KNS. Cuộc sống hiện đại khiến mỗi người không chỉ
trang bị cho mình những kiến thức, mà cần những khả năng giải quyết vấn đề, khả
năng ứng phó với căng thẳng, khả năng tư duy sáng tạo…, đó chính là KNS, KNS xem
như năng lực quan trọng để con người làm chủ được bản thân và sống có hiệu quả.
Vì vậy, giáo dục KNS và Quản lý giáo dục KNS trong các nhà trường nói chung,
trường THPT Hai Bà Trưng nói riêng là vô cùng quan trọng.
Trên địa bàn thành phố Phúc Yên, việc giáo dục KNS cho HS trong những năm
gần đây đã được các cấp lãnh đạo, các nhà trường quan tâm, đối với các thầy cô giáo
và cả các nhà quản lý giáo dục. Để đảm bảo nhiệm vụ giáo dục KNS cho HS đạt hiệu
quả cao, công tác quản lý đội ngũ giáo viên giáo dục KNS cho HS thông qua môn học
đóng vai trò then chốt. Là cán bộ quản lý, tôi nghiên cứu về kỹ năng sống, giáo dục kỹ
năng sống, quản lý giáo dục kỹ năng sống ở các trường THPT; các yếu tố tác động đến
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, từ đó đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học ở trường
trung học phổ thông hiện nay. Vận dụng vào thực tiễn việc quản lý trong trường THPT
Hai Bà Trưng.

1




2. Tên sáng kiến
“Quản lý giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn học cho học sinh trường trung
học phổ thông Hai Bà Trưng hiện nay”
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Hồng Dung
- Địa chỉ: Trường THPT Hai Bà Trưng, Thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
- Số điện thoại: 0948.024.366. Email:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trần Thị Hồng Dung
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
Vận dụng trong quản lý, chỉ đạo việc giáo dục kỹ năng sống nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện cho học sinh THPT Hai Bà Trưng
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu:
Từ 10/10/2019 trường THPT Hai Bà Trưng, áp dụng trong công tác quản lý,
chỉ đạo thực hiện quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giáo viên trường THPT
Hai Bà Trưng đã áp dụng sáng kiến trong việc giáo dục kỹ năng sống thông qua các
môn học.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến:
Bằng các phương pháp nghiên cứu: thu thập thông tin, phân tích dữ liệu, thống
kê, nghiên cứu lý thuyết, so sánh - đối chiếu và phân tích, tổng hợp; thực nghiệm sư
phạm để xác định tính ưu việt của việc quản lý nội dung giáo dục KNS thông qua môn
học. Sáng kiến kinh nghiệm 2 chương (5 tiết); kết luận và kiến nghị.
Chương 1: Giáo dục KNS, quản lý giáo dục KNS thông qua các môn học cho
học sinh THPT
-

Các khái niệm cơ bản về KNS; Nội dung giáo dục KNS;

-


Quản lý giáo dục KNS

Chương 2: Thực trạng và một số biện pháp quản lý giáo dục KNS thông qua
môn học cho học sinh THPT Hai Bà Trưng hiện nay.

2


-

Thực trạng việc quản lý nội dung giáo dục KNS thông qua môn học ở
trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay

-

Một số biện pháp quản lý giáo dục KNS cho học sinh trường THPT Hai Bà
Trưng thông qua môn học.

-

Thực nghiệm sư phạm

3


CHƯƠNG 1
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG, QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
THÔNG QUA CÁC MÔN HỌC CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG


1.1. Giáo dục kỹ năng sống
1.1.1.Kỹ năng sống
Có nhiều quan niệm về KNS và mỗi quan niệm lại được diễn đạt theo những
cách khác nhau.
Theo tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi tương ứng
và tích cực, giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức
của cuộc sống hàng ngày.
Theo Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận giúp thay
đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân bằng về tiếp thu
kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng.
Theo Tổ chức văn hóa, khoa học và giáo dục Liên hợp quốc (UNESCO), KNS
gắn với bốn trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kỹ
năng tư duy như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo; Học để làm (Learning to do) gồm
các kỹ năng thực hiện công việc như: kỹ năng tự đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm;
Học để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kỹ năng xã hội như:
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng thương lượng, tự khẳng định; Học để tồn tại (Learning to
be) gồm các kỹ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự
nhận thức, tự tin,…
Theo từ điển tiếng Việt: “Kỹ năng là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào
thực tiễn” [9, tr 843], “Sống còn là tồn tại và phát triển” [9, tr 756].
Trong tài liệu hướng dẫn GV về giáo dục KNS trong môn Sinh học của Bộ Giáo
dục và Đào tạo “Kỹ năng sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng
ứng xử phù hợp với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước
các tình huống của cuộc sống” [2, tr 8].
Trên cở sở tiếp thu thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học về khái niệm
KNS ta có thể nói:
“Kỹ năng sống là khả năng ứng dụng tri thức khoa học vào thực tiễn để con
người tồn tại và phát triển”.
4



1.1.2. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
Theo từ điển tiếng Việt: “Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ
thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối
tượng ấy dần dần có được những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra” [10,
tr510]. “Giáo dục phổ thông là ngành giáo dục dạy những kiến thức cơ sở cho học
sinh” [10, tr 510]. Vậy, giáo dục KNS cho HS là ngành giáo dục dạy những kiến thức
về KNS đáp ứng yêu cầu hình thành nhân cách con người phát triển một cách toàn
diện phù hợp với thời đại.
Trong giáo trình “Hiệu trưởng trường trung học với vấn đề giáo dục giá trị
sống, kỹ năng sống và giao tiếp ứng xử trong quản lý”, khái niệm giáo dục KNS được
định nghĩa là: “Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện
đại, xây dựng những hành vi lành mạnh, thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
dựa trên nền tảng các giá trị sống, nghĩa là người học không chỉ hướng đến sự hiểu
biết mà còn phải làm được những điều mình hiểu, biết ứng xử linh hoạt trong mọi
hoàn cảnh, công việc nhằm làm cho cuộc sống bản thân và cộng đồng ngày càng tốt
đẹp hơn. Giáo dục KNS có nhiệm vụ trọng tâm là đảm bảo cho mọi người có được sự
tự do trong tư duy, phán xét cảm nhận, sáng tạo để phát triển tài năng của mình và
kiểm soát được cuộc sống của mình càng nhiều càng tốt” [3, tr.72].
Theo PGS.TS Nguyễn Thanh Bình: “Giáo dục kỹ năng sống là hình thành cách
sống tích cực trong xã hội hiện đại, là xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi
những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị,
thái độ và các kỹ năng thích hợp” [1, tr.32].
Trên cở sở kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học về quan niệm giáo
dục KNS, vận dụng trong giáo dục KNS cho một đối tượng cụ thể là HS trung học phổ
thông, có thể cho rằng:
“Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông là quá trình tác động
của nhà giáo dục tới học sinh nhằm hình thành ở họ cách sống tích cực trong xã hội
hiện đại, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu
cực trên cơ sở giúp người học có cả kiến thức, giá trị, thái độ và các kỹ năng thích

hợp”.

5


1.1.3. Nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Trong bộ sách giáo khoa “Giáo dục kỹ năng sống”, các môn học: Địa lý, Giáo dục
công dân, Văn học,... của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã gợi ý nội dung giáo dục KNS cho
HS trong các nhà trường phổ thông bao gồm 21 kỹ năng sống cơ bản. Trong tài liệu tập
huấn “Hiệu trưởng trường trung học với vấn đề giáo dục giá trị sống, KNS và giao tiếp
ứng xử trong quản lý” đã phân tích những KNS cơ bản trong giáo dục cho HS được phân
thành ba nhóm kỹ năng sau:
* Nhóm kỹ năng nhận thức

* Nhóm kỹ năng xã hội

- Nhận thức bản thân

- Kỹ năng giao tiếp hiệu quả

- Xây dựng kế hoạch

- Kỹ năng đồng cảm

- Xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân

- Kỹ năng quan sát

- Khắc phục khó khăn


- Kỹ năng kiên định

- Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo,..
* Nhóm kỹ năng quản lý bản thân

- Kỹ năng thuyết phục và gây

- Nhận thức bản thân
- Xác định điểm mạnh, điểm yếu của bản thân
- Khắc phục khó khăn để đạt mục tiêu.

ảnh hưởng
- Kỹ năng làm việc nhóm
- Kỹ năng lãnh đạo


- Tư duy tích cực và tư duy sáng tạo

Học sinh THPT cần được giáo dục để tu dưỡng phẩm chất đạo đức, các tính cách
cụ thể đối với bản thân, biểu hiện như lối sống trung thực, giản dị, tiết kiệm, khoan
dung, tự lập, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau,…Trong công việc cần có thái độ siêng
năng, chăm chỉ, tôn trọng kỷ luật, năng động, sáng tạo,…Biết yêu môi trường thiên
nhiên, có ý thức bảo vệ môi trường. Biết yêu quê hương đất nước, tích cực tham gia
các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội, tôn trọng, học hỏi và tiếp thu các giá trị tốt
đẹp của cuộc sống,…
Học sinh trong nhà trường được giáo dục có đạo đức tốt các em sẽ biết phân biệt
đúng, sai, có thái độ sống khoan dung, độ lượng, biết cách giao tiếp ứng xử, các hành
động của các em thấu tình đạt lý, đạt tới giá trị nhân văn cao nhất, như thế sẽ không
còn tình trạng bạo lực học đường. Đó cũng là những kỹ năng kiềm chế cảm xúc, giải
quyết mâu thuẫn, kỹ năng ra quyết định, kỹ năng kiên định,…

6


Mỗi nhà trường đều thực hiện giáo dục đầy đủ, có hiệu quả những kỹ năng ở ba
nhóm: Nhóm KN nhận thức; nhóm KN quản lý bản thân; nhóm KN xã hội thì chắc
chắn các em có quan niệm sống đúng đắn, biết phát triển bản thân, có thái độ tích cực,
đời sống tâm lý hài hòa, biết xây dựng gia đình và cộng đồng phát triển lành mạnh,
bền vững.
1.2. Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
1.2.1. Quản lý giáo dục kỹ năng sống
- Về thuật ngữ “quản lý giáo dục” cũng có nhiều quan niệm khác nhau. Quản lý
giáo dục theo nghĩa tổng quan là hoạt động điều hành, phối hợp các lực lượng xã hội
nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã viết: “Quản lý giáo
dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt
động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả
nhất” [4, tr.50].
Sự thực, thuật ngữ này có nhiều cấp độ. Ít nhất có hai cấp độ chủ yếu là cấp vĩ
mô và cấp vi mô. Việc phân chia quản lý vĩ mô và quản lý vi mô chỉ là tương đối.
+ Đối với cấp vĩ mô: Quản lý giáo dục được hiểu là những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất
cả các mắt xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở giáo dục và nhà trường)
nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ
trẻ theo yêu cầu của xã hội.
+ Đối với cấp vi mô: Trong phạm vi nhà trường, hoạt động quản lý bao gồm
nhiều loại, như quản lý các hoạt động giáo dục: hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục
(theo nghĩa hẹp), hoạt động xã hội, hoạt động văn thể, hoạt động lao động, hoạt động
ngoại khóa, hoạt động giáo dục hướng nghiệp… ; quản lý các đối tượng khác nhau:
quản lý GV, HS, quản lý tài chính, quản lý cơ sở vật chất… quản lý (thực ra là tác
động đến) nhiều khách thể khác nhau: quản lý thực hiện xã hội hóa giáo dục, điều tiết

và điều chỉnh ảnh hưởng từ bên ngoài nhà trường, tham mưu với phụ huynh học sinh,

Trên bình diện vi mô, quản lý giáo dục trong phạm vi nhà trường có thể xem là
đồng nghĩa với quản lý nhà trường. Cho nên, một cách khác, ta hiểu:

7


“Quản lý trường học là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi
trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, để
tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và
với từng học sinh” [7, tr. 11].
* Quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Trên cơ sở các khái niệm KNS, giáo dục KNS, quản lý và quản lý giáo dục, quản
lý giáo dục KNS cho học sinh THPT là:
“Quản lý giáo dục KNS cho học sinh THPT là hoạt động có mục đích, có tổ
chức của các chủ thể quản lý giáo dục trong nhà trường, nhằm tổ chức, điều khiển
quá trình giáo dục kỹ năng sống diễn ra theo một chương trình, kế hoạch thống nhất,
phù hợp với tính chất, đặc điểm của nhà trường trung học phổ thông, mục tiêu, nhiệm
vụ giáo dục KNS đã đề ra”.
1.2.2. Quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Điều 15, Luật Giáo dục nêu rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm
bảo chất lượng giáo dục”. Điều 16 nêu: “Cán bộ quản lý giáo dục giữ vai trò quan
trọng trong tổ chức, quản lý, điều hành các hoạt động giáo dục”. Tổng hợp cả hai điều
trên cho thấy chất lượng giáo dục được tạo ra bởi sự tương tác giữa người dạy và
người học, giữa người quản lý và người thực thi công việc trong nhà trường. Để nâng
cao hiệu quả giáo dục KNS người quản lý cần quan tâm quản lý kế hoạch, nội dung,
phương pháp, hình thức, hiệu quả của công tác giáo dục KNS trong nhà trường.
* Quản lý kế hoạch giáo dục kỹ năng sống
Kế hoạch giáo dục KNS là một khâu cơ bản của quá trình giáo dục KNS. Bởi vì,

kế hoạch giáo dục thể hiện rõ mục đích, nội dung chương trình, phương pháp, hình
thức cũng như các điều kiện đảm bảo cho công tác giáo dục đã đề ra. Quản lý kế hoạch
giáo dục KNS phải thực hiện thường xuyên, bao gồm từ kế hoạch nâng cao trình độ
đội ngũ, quản lý phối hợp các lực lượng giáo dục, quản lý kế hoạch kiểm tra đánh
giá…
Từ kế hoạch giáo dục KNS nhà trường cần chủ động xây dựng chương trình,
giáo trình dạy KNS cho trường mình. Nội dung giáo dục KNS cần phù hợp với kinh
nghiệm, nhu cầu của HS và của cả xã hội. Các chủ đề giáo dục KNS phải đưa ra mô
hình thực hành về kỹ năng tư duy phê phán, giải quyết vấn đề, ra quyết định (học để
biết); các kỹ năng thực hành để thực hiện những hành vi mong muốn (học để làm); các
8


kỹ năng giao tiếp liên nhân cách (học để cùng chung sống); các kỹ năng để tự kiểm
soát bản thân (học để khẳng định mình). Do vậy:
- Để quản lý chương trình nội dung giáo dục KNS cho người học, trước hết cần
xác định những KNS cần trang bị cho họ. Khi xác định nội dung giáo dục KNS cho
nhóm đối tượng nào đó cần căn cứ vào đặc điểm tâm, sinh lý - xã hội của nhóm đối
tượng đó; đặc điểm của bối cảnh xã hội mà nhóm đối tượng đó đang sống.
- Sau khi đã xác định được những KNS cần giáo dục cho HS nhà trường cần xây
dựng kế hoạch thực hiện nội dung chương trình giáo dục, trong đó cần xác định rõ con
đường giáo dục những KNS này: những KNS nào có thể hình thành, củng cố và giáo
dục thông qua việc khai thác nội dung các môn học, qua sử dụng các phương pháp dạy
học tích cực, qua hoạt động ngoài giờ lên lớp; những nội dung giáo dục nào cần tiếp
cận theo bốn trụ cột “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, học để chung
sống”.
Như vậy, quản lý việc xây dựng kế hoạch giáo dục KNS sẽ giúp cho người quản
lý có cách nhìn tổng thể về quá trình giáo dục KNS trong một tháng, một học kỳ, một
năm, …
* Quản lý các lực lượng giáo dục kỹ năng sống

Giáo dục KNS là sự tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể, để nâng cao hiệu quả
giáo dục KNS và quản lý tốt công tác giáo dục kỹ năng sống cho HS, cần phải quan tâm tới
cả chủ thể hoạt động và khách thể hoạt động, giải quyết tốt mối quan hệ giữa chủ thể và
khách thể hoạt động giáo dục KNS.
Trước hết nhà trường phải đầu tư xây dựng đội ngũ GV tốt về phẩm chất, năng
lực, đồng bộ về cơ cấu và đủ về số lượng để họ có thể tự tin, sáng tạo đứng trên bục
giảng phân tích những KNS cần thiết mà các em cần trang bị để có cuộc sống tốt đẹp
hơn. Nhà trường cần đẩy mạnh công tác bồi dưỡng đội ngũ cả nội dung, phương pháp,
cách thức tổ chức các hoạt động giáo dục KNS. Từ đó, giúp GV tạo động lực phát
triển nghề nghiệp, tích cực thay đổi cách dạy, tạo phong cách học tập mới cho trò và sử
dụng nhiều dạng thức khác nhau để khích lệ sự tham gia tích cực của trò vào quá trình
giáo dục, kích thích động cơ dạy học của GV và động cơ học tập của HS ở mọi môn
học, mọi hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp hoặc ngoại khóa.
Cán bộ quản lý cần hỗ trợ xây dựng mối quan hệ thân thiện giữa thầy với thầy,
giữa thầy và trò, giữa trò và trò… Mỗi thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về văn hóa
9


học đường cho HS noi theo, từ trang phục đến phong cách làm việc, kỹ năng giao tiếp,
ứng xử trước HS, cha mẹ HS và đồng nghiệp. Đặc biệt cần phát huy cao độ mối quan
hệ giữa GV chủ nhiệm với HS và cha mẹ HS, nâng cao vai trò của GV chủ nhiệm lớp
trong việc đảm nhận trách nhiệm hình thành nếp sống văn hóa cho HS. GV chủ nhiệm
cần được hỗ trợ để tổ chức dẫn dắt các hoạt động tập thể của lớp chủ nhiệm như các
hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nhằm giúp tổ chức này phát
huy tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống theo chuẩn mực văn hóa, giúp HS
tăng cường các hoạt động về giao tiếp, thuyết trình trước tập thể…
* Quản lý phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng
sống
Để thực hiện tốt nội dung giáo dục KNS cho HS theo mục tiêu đã đề ra thì
phương pháp và hình thức tổ chức đóng vai trò quan trọng trong nhận thức của học

sinh. Phương pháp giáo dục phù hợp, hình thức tổ chức phong phú sẽ thu hút HS, làm
cho HS có hứng thú trong học tập thì chắc chắn công tác giáo dục KNS đạt được kết
quả cao. Quản lý phương pháp, hình thức giáo dục KNS trong trường phổ thông bao
gồm quản lý các hoạt động ngoại khóa, giáo dục ngoài giờ lên lớp, phương pháp và
hình thức tổ chức giáo dục KNS của các tổ chức đoàn thể, của đội ngũ giáo viên…Có
nhiều phương pháp giáo dục KNS cho HS, trong đó phương pháp điển hình mà các
trường THPT áp dụng là: Phương pháp động não, thảo luận nhóm và liên hệ thực
tế...Trên cơ sở nội dung giáo dục nhà quản lý phải quản lý được phương pháp và hình
thức giáo dục KNS cho HS.
* Quản lý phương tiện, công cụ hỗ trợ giáo dục kỹ năng sống
“Cơ sở vật chất trường học là tất cả các phương tiện vật chất được giáo viên và
HS sử dụng nhằm thực hiện có hiệu quả các chương trình giáo dục, giảng dạy” [6, tr.
285].
Giáo dục KNS không chỉ qua kênh nghe mà HS cần được trải nghiệm qua các
tình huống cụ thể, được thể hiện chính kiến của mình. Giáo dục KNS có thể thông qua
giờ học trên lớp, qua giờ học thể dục thể thao ngoài sân chơi, bãi tập, các phong trào
văn hóa văn nghệ, hoạt động ngoại khóa, tham quan thực tế, …
Những phương tiện để phục vụ cho giáo viên và HS gồm: trường sở, sân chơi,
bãi tập, phòng bộ môn,…Các công cụ thiết bị hỗ trợ giáo dục có thể kể đến như: loa
đài, video, máy chiếu, công cụ sửa chữa, máy móc gia công cơ khí, công cụ sản xuất,
10


vật tư sản xuất, mô hình cụ thể như tài liệu, tranh ảnh, sách báo, tạp chí,…để giáo dục
KNS hiệu quả, người GV cần có những phương tiện hiện đại khác như đĩa CD-Rom,
đồ dùng đa phương tiện…và các đồ dùng biểu đạt khác như chương trình truyền hình,
truyền thanh…
Nhà trường cần trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, quản lý việc sử dụng các công cụ,
thiết bị giáo dục KNS trong quá trình tổ chức các hoạt động giáo dục KNS, đồng thời
nâng cao nhận thức của giáo viên và HS trong quá trình sử dụng những phương tiện,

công cụ hỗ trợ giáo dục KNS, sao cho cơ sở vật chất, trang thiết bị hỗ trợ giáo dục
KNS phát huy hết tiềm năng, phục vụ tốt nhất việc thực hiện mục tiêu giáo dục đã đề
ra.
* Quản lý việc đánh giá kết quả giáo dục KNS
Kết quả giáo dục KNS thể hiện ở việc đánh giá xem kế hoạch giáo dục KNS
có đạt được mục tiêu tác động đến hành vi người học hay không? UNESCO đưa nội
dung đánh giá KNS theo bốn trụ cột là:
Học để biết (kỹ năng nhận thức); Học để làm (kỹ năng thực hành, làm việc);
Học để cùng chung sống (kỹ năng xã hội); Học để khẳng định mình (kỹ năng xác đinh
giá trị). Do KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính xã hội, giáo dục KNS là giúp
HS hình thành cách sống tích cực, có hành vi lành mạnh nên việc kiểm tra hiệu quả
giáo dục KNS cần kết hợp nhiều phương thức khác nhau như: xây dựng tiêu chí, thông
qua quan sát, xây dựng phiếu hỏi, phiếu điều tra, các bài tập tình huống, phỏng vấn,…
Kiểm tra đánh giá thực hiện theo quá trình từ khâu xây dựng kế hoạch của cán
bộ, giáo viên đến cách thức thực hiện. Đồng thời với kiểm tra giám sát là sự tư vấn,
chỉnh lý, bổ sung nội dung, phương pháp giáo dục KNS cho đội ngũ giáo viên; uốn
nắn những hành vi lệch lạc của HS sao cho kết quả giáo dục KNS cho HS đạt được
mục tiêu đã đề ra.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Nhà trường nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, những nội dung, phương
pháp, mục tiêu giáo dục xây dựng trên cơ sở thực tiễn theo mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định. Giáo dục trong nhà trường được tiến hành có tổ chức, tác động trực tiếp đến
người học, quá trình học tập trong nhà trường người học được bồi dưỡng về phẩm chất
đạo đức, tiếp thu tri thức khoa học, năng lực thực hành, hình thành và phát triển nhân

11


cách. Quản lý công tác giáo dục KNS cho HS góp phần lớn trong mục tiêu giáo dục
con người phát triển toàn diện, các yếu tố tác động tới quản lý giáo dục KNS là:

* Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên
Giáo dục KNS cho HS trung học phổ thông đòi hỏi GV phải có hiểu biết về nội
dung, phương pháp, cách thức thực hiện giáo dục KNS, nhưng thực tế giáo viên giảng
dạy các trường THPT là những giáo viên được đào tạo theo chuyên môn như: Toán
học, Vật lý, Hóa học,...nếu mỗi giáo viên không được bồi dưỡng kiến thức, nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không học hỏi để có kiến thức về KNS sẽ ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục KNS cho HS.
Hơn nữa, HS phải được thực hành, trải nghiệm KNS trong quá trình học tập các
môn học, giáo dục ngoài giờ lên lớp, tổ chức sinh hoạt, hội thảo,...mới là điều kiện tốt
nhất trong nhận thức của HS về KNS, không phải mọi giáo viên đều có khả năng tổ
chức tốt các hoạt động này.
Đội ngũ cán bộ giáo viên là lực lượng nòng cốt trong quản lý giáo dục KNS
cho HS. Bởi vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động này, CBQL và giáo viên cần phải có
những phẩm chất nhân cách cần thiết, có trình độ kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo đáp ứng
yêu cầu của hoạt động quản lý giáo dục KNS cho HS. Tuy nhiên, hiện nay, CBQL và
đội ngũ giáo viên mới được tiếp cận nội dung giáo dục KNS, cần trang bị đầy đủ cho
họ phương tiện, nội dung, phương pháp giáo dục KNS, chắc chắn công tác giáo dục kỹ
năng sống cho HS có hiệu quả.
* Mục tiêu, nội dung, chương trình giáo dục
Nhà trường nước ta nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, những nội dung,
phương pháp, mục tiêu giáo dục xây dựng trên cơ sở thực tiễn theo mỗi giai đoạn lịch
sử nhất định. Giáo dục trong nhà trường được tiến hành có tổ chức, tác động trực tiếp
đến người học, quá trình học tập trong nhà trường người học được bồi dưỡng về phẩm
chất đạo đức, tiếp thu tri thức khoa học, năng lực thực hành, hình thành và phát triển
nhân cách. Nội dung giáo dục KNS đã đưa vào trong trường THPT nhưng hiện nay
chưa có tài liệu chuẩn về giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT, dẫn đến tình
trạng mỗi trường lại có những cách thức giáo dục khác nhau điều này ảnh hưởng lớn
tới công tác quản lý giáo dục KNS cho HS.
* Phương tiện vật chất, trang thiết bị phục vụ giáo dục kỹ năng sống


12


Trong mỗi trường học để thực hiện tốt nội dung, chương trình giáo dục không
những cần đội ngũ giáo viên có kiến thức, có nghiệp vụ sư phạm mà còn có một cơ sở
vật chất đầy đủ như: Trường sở, sân chơi, bãi tập, công cụ hỗ trợ giáo dục KNS,…
Nếu không có sân chơi, bãi tập không thể tổ chức các hoạt động hoạt động tập thể như
hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt tập thể, hoạt động thể dục thể thao,… Không có đầy
đủ phòng học bộ môn, thiết bị hỗ trợ cho công tác giáo dục KNS, HS không phát huy
được tính chủ động, tích cực, sáng tạo, không thể hiện bộc lộ tính cách của bản thân,
hạn chế trong giao tiếp ứng xử,… Cán bộ quản lý khó tìm ra được những ưu, nhược
điểm trong phát triển nhân cách của HS, điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo
dục KNS trong mỗi nhà trường.
* Tiêu chí đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng sống
Kết quả giáo dục kỹ năng sống là kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội,.. nên quá
trình kiểm tra đánh giá gặp không ít khó khăn, chưa có một bộ tiêu chí cụ thể nào để
đánh giá chất lượng giáo dục KNS cho học sinh THPT. Khi học tập ở nhà trường các
em học lý thuyết nhiều hơn, nội dung bài học, bài kiểm tra được thực hiện theo kiến
thức chuẩn sách giáo khoa không có nội dung kiểm tra để đánh giá KNS.
Trong thực tế, HS cần phải thực hành, phải trải nghiệm mới đánh giá được hành
vi, nhận thức của mỗi cá nhân.
Sự thay đổi về hành vi bao giờ cũng khó khăn hơn thay đổi về nhận thức, do đó
cần phải chú ý đến khâu giám sát và đánh giá kết quả học tập KNS của HS. Chức năng
kiểm tra đánh giá của nhà quản lý được thực hiện trong suốt quá trình năm học, theo
từng giai đoạn, theo từng tháng, từng tuần, theo từng công việc. Kiểm tra giám sát càng
chặt chẽ, sát sao, tỉ mỉ cả số lượng, chất lượng và tiến độ công việc để rút kinh nghiệm
kịp thời càng làm cho chương trình tiến hành có chất lượng. Đổi mới kiểm tra, đánh
giá, coi trọng việc phân tích kết quả kiểm tra giáo dục KNS, qua đó giúp giáo viên điều
chỉnh hoạt động giảng dạy, giúp HS phát huy điểm mạnh, khắc phục điểm yếu trong học
tập một cách kịp thời. Thực hiện đồng bộ công tác kiểm tra việc giáo dục KNS là yếu tố

quan trọng trong hoạt động giáo dục KNS cho HS.
* Môi trường học tập và môi trường xã hội
Gia đình, cộng đồng nơi cư trú là nơi sinh sống của mỗi con người. Gia đình là
môi trường đầu tiên của đứa trẻ, cha mẹ là những người giáo dục đầu tiên. Nếp sống

13


gia đình, môi trường lành mạnh ở khu dân cư ảnh hưởng đến sự phát triển tâm lý, trí
tuệ, tình cảm của từng cá nhân.
Ở tuổi đi học, môi trường học tập và môi trường xã hội ảnh hưởng rất lớn tới
HS theo đó, có tác động ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động quản lý giáo dục KNS
cho HS. Khi đến trường HS có tập thể lớp, tổ chức Đoàn thanh niên,...Trong sinh hoạt
tập thể, HS lựa chọn những gì phù hợp với xu hướng năng lực của mình để tham gia
và tiếp thu. Hơn nữa nhóm bạn bè có ảnh hưởng hàng ngày, hàng giờ tới mỗi HS. Sinh
hoạt, học tập, giao lưu trong nhóm bạn bè tốt, họ cùng giúp đỡ nhau, cùng thi đua học
tập, rèn luyện để trở thành người tốt. Sống trong nhóm bạn bè xấu, lười biếng, có
nhiều hành vi không tốt ảnh hưởng rất lớn tới ý thức, thái độ và hành vi của mỗi cá
nhân.
* Ý thức tự giáo dục của học sinh
Muốn giáo dục KNS có hiệu quả hơn hết HS phải nhận thức rằng KNS rất cần
trong xã hội hiện đại, các em tự ý thức được những kỹ năng hữu ích trong cuộc sống,
từ đó hình thành năng lực tự học. Quản lý tốt việc học tập của HS theo quy chế của Bộ
Giáo dục đào tạo. Quản lý HS bao hàm cả quản lý thời gian, chất lượng học tập, quản
lý tinh thần thái độ và phương pháp học tập. Quản lý HS về ý thức tự giáo dục giúp
các em rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, nhận thức được giá trị bản thân, có kỹ
năng làm việc, kỹ năng tâm lý xã hội,…chắc chắn rằng các em có cuộc sống tốt đẹp
hơn.
*


*
*

Có thể nói, còn rất nhiều yếu tố tác động tới quản lý giáo dục KNS cho học sinh
THPT, từ những nội dung cần quản lý đội ngũ giáo viên trong công tác giáo dục KNS,
ta thấy có nhiều yếu tố tác động đến quản lý giáo dục KNS, tuy nhiên những yếu tố
trên là những yếu tố cơ bản nhất, tác động mạnh nhất đến quản lý giáo dục KNS cho
học sinh THPT. Để nâng cao hiệu quả giáo dục KNS cho học sinh cần có những giải
pháp phù hợp để quản lý, chỉ đạo đội ngũ GV trong công tác giáo dục HS.

14


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
THÔNG QUA MÔN HỌC CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HAI BÀ TRƯNG HIỆN NAY

2.1. Thực trạng việc quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống thông qua các môn
học ở trường THPT Hai Bà Trưng hiện nay
2.1.1. Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên
* Về đội ngũ cán bộ quản lý
Về đội ngũ cán bộ quản lý của nhà trường hiện nay gồm 03 đồng chí trong
BGH, trong đó 01 đồng chí hiệu trưởng, 02 đồng chí phó hiệu trưởng. Trình độ chuyên
môn có 01 đồng chí được đào tạo chuyên ngành Ngữ văn, 01 đồng chí môn Tiếng Anh,
01 đồng chí chuyên ngành Toán, đây cũng là điểm thuận lợi trong công tác quản lý đổi
mới kiểm tra đánh giá HS hiện nay. Ngay từ đầu năm học BGH đã xây dựng đầy đủ kế
hoạch trong đó có kế hoạch chuyên môn đã chỉ đạo rõ tổ chuyên môn phải thực hiện
đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh giá, trong đó đánh giá
học sinh một cách toàn diện, đánh giá cả kiến thức và kỹ năng đến từng bài học cụ

thể…Tuy nhiên, trong công tác quản lý chỉ đạo tổ chuyên vẫn còn khó khăn đó là đội
ngũ cán bộ tổ chuyên môn có đủ về số lượng (04 đồng chí tổ trưởng), các đồng chí đều
là những cán bộ trẻ, nhiệt tình nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý, cả
04 đồng chí chưa được học bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý tổ bộ môn.
* Về đội ngũ giáo viên
Nhà trường có 73 cán bộ, giáo viên, nhân viên, trình độ thạc sĩ: 30/73 cán bộ,
giáo viên (Chiếm 41,1 %.), GV trong nhà trường có đủ và dư trong tất cả các môn học,
trình độ chuyên môn trên chuẩn cao đáp ứng đủ cho yêu cầu giảng dạy chuyên môn
cũng như đáp ứng yêu cầu đổi mới trong giáo dục cho HS được thể hiện trong bảng
sau:

15


GV

Toán- Ngữ

Tiếng Vật

Hóa

Sinh

Lịch

Địa

thuộc


Tin

Văn

Anh



Học

Học

Sử



13

13

6

6

5

2

2


GDCD

CN

Thể
dục

bộ
môn
Số

9

1

4

5

lượng

Số lượng giáo viên dạy các môn học trong nhà trường
2.1.2. Thực trạng chất lượng giáo dục hai mặt và giáo dục mũi nhọn
Thực trạng chất lượng giáo dục hai mặt
Trường THPT Hai Bà Trưng được thành lập trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại
trường THCS&THPT Hai Bà Trưng, trường THPT Phúc Yên, do đặc điểm học tập của
các em có thế mạnh riêng trong các môn học, các em trường THCS&THPT Hai Bà
trưng có xu thế mạnh học các môn tự nhiên, các em trường THPT Phúc Yên có thế
mạnh ở các môn khoa học xã hội,...
Phát huy những điểm mạnh của hai nhà trường, thực hiện sự nghiệp đổi mới

giáo dục được bắt đầu từ quan điểm chỉ đạo của Đảng về “ Phát triển giáo dục” từ năm
1986 đến nay đó là giáo dục toàn diện, trò ra trò, học ra học, thầy ra thầy, dạy ra dạy,
trường ra trường, lớp ra lớp, đổi mới quản lý giáo dục.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, các cơ sở giáo dục nói chung, trường THPT
Hai Bà Trưng nói riêng đã đổi mới phương pháp quản lý về mọi mặt, chất lượng giáo
dục những năm gần đây đạt được một số kết quả sau:
* Về giáo dục đạo đức
Nhà trường nằm trên địa bàn đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ về kinh tế - văn
hóa - xã hội, cơ sở vật chất ngày càng phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Từ
đó nhận thức người dân về giáo dục cũng căn bản được thay đổi. Song bên cạnh đó những ảnh
hưởng không tốt, những biểu hiện mặt trái của xã hội cũng có cơ hội len lỏi xâm nhập vào địa
phương. Nắm bắt được vấn đề này, nhà trường đã có nhiều biện pháp hiệu quả để giáo dục
đạo đức cho học sinh: qua giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh
bằng sử dụng sổ liên lạc, thực hiện nghiêm túc chương trình môn Giáo dục công dân, tổ chức
tốt các chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp, thành lập ban quản sinh để quản lý nền nếp
học tập, phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội tại địa
16


phương để giáo dục đạo đức cho học sinh. Đặc biệt nhà trường phối hợp với Đoàn thanh niên
chú trọng đến việc giáo dục truyền thống của nhà trường cũng như của địa phương. Một số
việc làm cụ thể như: Tổ chức giáo dục kỹ năng sống an toàn lành mạnh; Tố chức lao động
dọn vệ sinh, trồng cây chăm sóc di tích lịch sử ... Do làm tốt công tác giáo dục đạo đức cho
học sinh nhiều năm liên tục nhà trường không có học sinh vi phạm pháp luật hay mắc các tệ
nạn xã hội. Cụ thể:

Năm học

Số


Tổng

lớp

số

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%


HS
2018- 2019
2019-2020
(KI)

25

928

890

95,91

31

3,34

6

0,65

1

0,11

23

883

836


94,68

43

4,87

3

0,34

1

0,11

1811

1726

95,31

74

4,09

9

0,49

2


0,11

Cộng

Kết quả xếp loại hạnh kiểm
* Về chất lượng giáo dục văn hoá
Nhà trường thực hiện nghiêm túc chương trình giảng dạy theo quy định của Bộ
giáo dục. Ban giám hiệu nhà trường luôn có biện pháp chỉ đạo sát sao chất lượng giáo
dục đại trà cũng như chất lượng mũi nhọn bằng việc tổ chức bồi dưỡng chuyên đề, bồi
dưỡng các đội tuyển học sinh giỏi, bồi dưỡng học sinh yếu, tổ chức tốt công tác kiểm
tra đánh giá, phấn đấu đạt kết quả cao và ổn định trong nhiều năm. Tỷ lệ học sinh xếp
loại học lực giỏi khá ngày càng tăng; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông hàng năm
luôn đạt tỷ lệ 99,8% trở lên, tỷ lệ học sinh đỗ đại học, cao đẳng đạt tỷ lệ từ 94% trở
lên. Các chỉ số về học lực, học sinh giỏi như sau:
Năm học
2018 - 2019
2019 - 2020
(KI)
Cộng

Số

Tổng

Giỏi

Khá

Trung bình


Yếu

lớp

số HS

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

25

928

295

31,79


500

53,88

129

13,90

4

0,43

25

883

228

25,82

430

48,70

215

24,35

10


1,13

1811

523

28,88

930

51,36

344

18,99

14

0,77

Kết quả xếp loại học lực
17


Tiêu chí

HS đạt giải
Cấp Trường


Cấp Tỉnh

2018 – 2019

635

136

2019 – 2020

223

39

858

175

Năm học

Cấp Quốc gia
02

( Kết quả K12K11, K10 chưa thi)
Cộng

02

Kết quả thi học sinh giỏi cấp trường, cấpTỉnh, cấp Quốc Gia
Có thể nói, từ sự đổi mới của công tác quản lý, tạo động lực cho giáo viên nhiệt tình

giảng dạy, tích cực tìm tòi sáng tạo, phát huy khả năng tư duy của học sinh, giúp học
sinh tiếp cận tri thức mới, có đạo đức, có tri thức, có lối sống lành mạnh.
Số lượng học sinh ổn định, không có học sinh bỏ học. Số đông học sinh sau khi
tốt nghiệp trung học phổ thông có hoài bão lập thân, lập nghiệp, đi học đại học, cao
đẳng, các trường dạy nghề, chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng phát triển,
trong những năm qua thành tích của nhà trường góp phần quan trọng trong việc nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững an ninh chính trị cho địa phương.
2.1.3.Thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường THPT Hai Bà
Trưng
* Thực trạng nhận thức của cán bộ, giáo viên về công tác giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh THPT
Giáo dục KNS có được quan tâm hay không phụ thuộc vào chủ thể giáo dục
nhận thức có đầy đủ về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác giáo dục KNS. Quá
trình điều tra nhận thức về công tác giáo dục KNS cho HS qua 50 phiếu đối với
CBQL, cán bộ công đoàn, đoàn thanh niên GV và phụ huynh trường THPT Hai Bà
Trưng thu được kết quả:
TT
1
2
3
4

Nhận thức
Rất quan trọng
Quan trọng
Ít quan trọng
Không quan trọng

Số lượng

41
9
0
0

Tỷ lệ (%)
82
18
0
0
18


Bảng 1: Tầm quan trọng của công tác giáo dục KNS cho học sinh THPT
Về mức độ đánh giá tầm quan trọng của công tác giáo dục KNS qua kết quả
điều tra ở bảng 1 cho thấy: 100% những người được điều tra đều khẳng định công tác
giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường THPT là rất quan trọng và quan trọng,
không có ý kiến nào trả lời công tác giáo dục KNS ít quan trọng và không quan trọng.
Điều này cho thấy CBQL, giáo viên, phụ huynh nhà trường đã nhận thức đầy đủ, đúng
đắn về tầm quan trọng của việc giáo dục KNS cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện
nay.
Để tìm hiểu sâu hơn về nhận thức của cán bộ GV trong công tác giáo dục KNS
cho HS, chúng tôi tìm hiểu những đánh giá của 100 HS về những yếu tố ảnh hưởng tới
giáo dục KNS cho HS, đây là vấn đề mà các nhà quản lý giáo dục cần quan tâm. Kết
quả thu được
Rất ảnh
TT
1

Những yếu tố ảnh hưởng


hưởng
SL %
Giáo dục KNS chưa được 85
85

Ảnh

Ít ảnh

K. ảnh

hưởng
SL %
15
15

hưởng
SL %
0
0

hưởng
SL %
0
0

nhận thức đầy đủ về tầm
quan trọng của nó trong nhà
2

3

trường và xã hội
Học sinh chỉ quan tâm đến 62

62

38

38

0

0

0

0

học văn hóa
Một số bộ phận giáo viên chưa 84

84

16

16

0


0

0

0

quan tâm đến giáo dục KNS
4

Nội dung giáo dục KNS chưa 62

62

38

38

0

0

0

0

5

thiết thực
Hiểu biết của HS về nội dung 32


32

45

45

23

23

0

0

6

KNS chưa đầy đủ
Hình thức giáo dục KNS 62

62

38

38

0

0

0


0

7

chưa phong phú
Gia đình chưa quan tâm đến 65

65

35

35

0

0

0

0

8

giáo dục KNS
Nhiều đoàn thể xã hội chưa 35

35

36


36

29

29

0

0

quan tâm đến giáo dục KNS,
19


coi đó là trách nhiệm của nhà
9

trường
Sự phối hợp giữa các lực lượng 62

62

38

38

0

0


0

0

10
11
12

giáo dục chưa thường xuyên
Do tệ nạn xã hội
23
Do thiếu cơ sở vật chất
35
Việc kiểm tra đánh giá các 65

23
35
65

35
39
35

35
39
35

42
26

0

42
26
0

0
0
0

0
0
0

hoạt động giáo dục KNS
chưa thường xuyên
Bảng 2: Những yếu tố ảnh hưởng tới việc giáo dục KNS cho học sinh THPT
Kết quả thu được từ bảng 2 ta thấy, có nhiều yếu tố ảnh hưởng tới công tác giáo dục
KNS. Tuy nhiên, những yếu tố được đánh giá ảnh hưởng nhiều nhất đó là sự nhận thức
chưa đầy đủ về tầm quan trọng của KNS ở các nhà trường và xã hội, có tới 85% ý kiến
đánh giá rất ảnh hưởng; mức đánh giá 84% rất ảnh hưởng là đội ngũ GV chưa quan
tâm đến giáo dục KNS; tiếp theo đó là ảnh hưởng từ phía gia đình; việc kiểm tra đánh
giá các hoạt động giáo dục KNS chưa thường xuyên ảnh hưởng thứ ba. HS chỉ quan
tâm đến học văn hóa, sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục, nội dung, hình thức
giáo dục cũng đóng vai trò quan trọng, yếu tố điều tra cho thấy mức độ rất ảnh hưởng
tới 62%, được đánh giá mức độ ảnh hưởng thứ tư. Cơ sở vật chất thiếu thốn, đoàn thể
địa phương không quan tâm tới giáo dục KNS sẽ ảnh hưởng tới hiệu quả giáo dục
KNS trong các nhà trường.
KNS cần thiết cho học sinh, nhưng học sinh THPT thì những KN nào là cần và
rất cần giáo dục trong giai đoạn hiện nay? Đó là câu hỏi phỏng vấn sâu cho các lực

lượng giáo dục, kết hợp cùng 100 phiếu điều tra về vấn đề này với nhóm KN nhận
thức, quản lý bản thân, nhóm KN xã hội. Kết quả thu được:
TT

Kỹ năng sống

Nhóm Nhận thức bản thân
Xây dựng kế hoạch
kỹ
Khắc phục khó khăn để
năng
đạt mục tiêu
nhận Tư duy tích cực và tư
thức

Rất cần
SL
%
53
53
48
48
55
55

Cần
SL
%
47
47

52
52
45
45

65

35

65

35

Ít cần
SL
%
0
0
0
0
0
0
0

0

Chưa cần
SL
%
0

0
0
0
0
0
0

0

duy sáng tạo

20




Xác định điểm mạnh và

quản

52

52

48

48

0


0

0

0

Kỹ năng giao tiếp hiệu

57

57

43

43

0

0

0

0

quả
Kỹ năng đồng cảm
Kỹ năng quan sát
Kỹ năng kiên định
Kỹ năng thuyết phục và


48
38
49
38

48
38
49
38

52
62
51
62

52
62
51
62

0
0
0
0

0
0
0
0


0
0
0
0

0
0
0
0

gây ảnh hưởng
Kỹ năng làm việc nhóm
Kỹ năng lãnh đạo (làm

51
41

51
41

49
59

49
59

0
0

0

0

0
0

0
0

điểm yếu của bản thân

lý bản
thân
Nhóm
kỹ
năng
xã hội

thủ lĩnh)
Bảng 3: Mức độ cần thiết của các KNS đối với học sinh THPT
Từ kết quả ở bảng 3 cho thấy nhóm kỹ năng giúp HS nhận thức, quản lý bản thân
và nhóm kỹ năng xã hội đều được đánh giá rất cần thiết và cần thiết được giáo dục
trong các nhà trường hiện nay. 100% số người được hỏi đều trả lời rất cần và cần phải
giáo dục cho học sinh THPT. Từ kết quả điều tra trên có thể nói, công tác giáo dục
KNS trong nhà trường đã được cán bộ quản lý quan tâm chỉ đạo sát sao đến cán bộ
GV, để họ thấy rằng nhiệm vụ giáo dục KNS cho học sinh THPT hiện nay là rất quan
trọng. Từ mức độ nhận thức về tầm quan trọng trong công tác giáo dục KNS, cán bộ
GV trong các nhà trường đã quan tâm tới những KNS rất cần thiết phải giáo dục cho
HS, họ đánh giá được những yếu tố ảnh hưởng tới công tác giáo dục KNS một cách
đầy đủ, khách quan. Điều này giúp cho các nhà quản lý nhà trường có những biện
pháp quản lý phù hợp, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS

trong giai đoạn hiện nay.
*Thực trạng nhận thức của học sinh về kỹ năng sống
Để kiểm tra mức độ nhận thức và hiểu biết của HS về KNS, tác giả đã tiến hành
khảo sát 300 em HS từ những tình huống kỹ năng cụ thể đến những kiến thức hiểu biết
sâu về KNS thông qua 10 câu hỏi (phụ lục 01), kết quả thu được:
TT

Nội dung
Tốt

1

Tự tin trong quan

SL
0

%
0

Mức độ đánh giá
Khá
Trung bình
SL
%
SL
%
15
5
118 39.3


Yếu
SL
%
152 50.7
21


2

hệ giao tiếp
Kiên định trước

60

20

165

55

70

23.3

5

1.7

3


sống
Khả năng bình tĩnh

90

30

105

35

45

15

60

20

4

biết kiểm chế
Nhận thức về bản

0

0

0


0

186

62

114

38

5

thân
Tích cực trong các

66

22

50

16.7

70

23.3

114


38

48

16

57

19

152

50.7

43

14.3

90
30
165
55
23
7.7
0
0
0
0
114
38

Bảng 4: Nhận thức của học sinh về KNS

22
186

7.3
62

khó khăn của cuộc

hoạt động nhóm
6

(tập thể)
Biết chia sẻ, đồng

7
8

cảm
Tư duy tích cực
Hiểu về KNS

Từ bảng 4 ta thấy KNS của hầu hết HS đều đạt ở mức trung bình hoặc chưa tốt.
Cụ thể trong kỹ năng giao tiếp có 51% thể hiện là chưa biết cách cư xử trong giao
tiếp; kỹ năng kiên định trước khó khăn của cuộc sống được thể hiện mức cao hơn 75%
đánh giá mức khá và tốt nhưng trong khả năng kiên định, HS chưa thể hiện được sự
khéo léo để từ chối (có 55% kiên quyết từ chối, 20% HS biết thương lượng để từ chối câu 2); khả năng bình tĩnh biết kiềm chế đối với những khó khăn trong cuộc sống và
biết tư duy tích cực chỉ đạt được 30% là mức độ tốt, số HS còn lại đều lúng túng trong
cách lựa chọn phương án trả lời khi gặp khó khăn với người lớn tuổi thì phương án lựa

chọn chủ yếu là “khóc”, gặp những tình huống khó khăn với bạn bè có 45% thể hiện
mức độ “không thèm nói gì”; kỹ năng nhận thức về bản thân thể hiện chưa rõ nét với
những HS được hỏi, trong câu hỏi cụ thể như “sự lựa chọn nghề trong tương lai?” có
62% HS trả lời “theo khả năng của bản thân”, nhưng ở câu hỏi 10 HS lại không biết
“điểm mạnh và điểm yếu của bản thân là gì?”. Cuộc sống hiện tại, khả năng hoạt động
nhóm, hoạt động tập thể rất cần thiết, qua điều tra các em đều muốn tham gia vào các
hoạt động tập thể nhưng còn e ngại và rụt rè, chưa có khả năng tự tin để thể hiện mình
trước tập thể, chỉ có 22% HS tham gia tích cực vào các phong trào tập thể. Mặc dù HS
còn yếu nhiều kỹ năng trong giao tiếp ứng xử, khó khăn trong học tập, khó khăn trong
cuộc sống nhưng sự chia sẻ, sự cảm thông của các em với những người thân lại rất ít,
các em thường giữ kín trong lòng, ngại nói cho mọi người xung quanh, chỉ đôi khi
22


muốn thổ lộ, chia sẻ (35%), mức độ thường xuyên chia sẻ là 16%. Đặc biệt sự hiểu sâu
về khái niệm KNS trong 300 HS đều trả lời chưa hiểu rõ thế nào là khái niệm KNS.
Từ những kết quả phân tích ở trên, chúng ta thấy học sinh trong nhà trường đã có
những kỹ năng cần thiết trong những tình huống cụ thể. Nhưng cuộc sống còn muôn
vàn những khó khăn khác nhau, học sinh chưa có đầy đủ những kiến thức cơ bản về
KNS thì rất khó để vượt qua những khó khăn thách thức của cuộc sống hiện tại cũng
như trong tương lai. Tuy nhiên trong kết quả điều tra, điều rất đáng mừng là hầu hết
các em được hỏi đều nhận thấy KNS rất cần (198 HS - 66%) và cần (102 HS - 34%)
trong cuộc sống (câu 8 phụ lục 1).
Như vậy, có thể thấy nguyên nhân của những khó khăn mà học sinh THPT chính là
do sự phát triển kinh tế xã hội, sự phát triển nhanh về nền công nghiệp của thị xã. Khi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đi vào đến từng phố nhỏ, ngõ nhỏ trên địa bàn
dân cư, cha mẹ đòi hỏi và kỳ vọng nhiều ở các con, dẫn đến những áp lực cho các con
trong học tập, áp lực cho việc lựa chọn nghề. Hơn nữa thời gian mà cha mẹ, thầy cô dành
cho các em quá ít, dẫn đến tình trạng các em gặp những khó khăn về bản thân, về quan hệ
với bạn bè người thân, những khó khăn trong học tập mà chưa tìm được cách tháo gỡ. Với

hệ thống câu hỏi phỏng vấn sâu các em đều mong muốn nguyện vọng của mình là được
gia đình và nhà trường quan tâm nhiều hơn nữa trong giáo dục toàn diện để các em có
khả năng tự tin trong cuộc sống.
* Thực trạng nội dung chương trình giáo dục kỹ năng sống
Nội dung chương trình giáo dục KNS trong các nhà trường THPT cho đến nay
chưa thống nhất giữa các trường. Nội dung giáo dục chủ yếu đưa ra trong các cuộc hội
thảo, chuyên đề như: giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên; giáo dục giới tính; giáo
dục phòng chống HIV/ AIDS,…Nội dung giáo dục KNS trong trường THPT được
quan tâm nhiều hơn năm 2010, nhưng vẫn chưa có giáo trình cụ thể mà Bộ GD&ĐT
định hướng một số nội dung cần giáo dục cho HS thông qua một số mộn học tiềm
năng, chúng tôi tiến hành trao đổi 50 GV với câu hỏi “đồng chí đánh giá thế nào về
việc thực hiện nội dung giáo dục KNS cho HS thông qua các môn học?”, kết quả cho
thấy giáo dục KNS của GV thông qua các môn học có tỷ lệ chưa tốt là cao nhất 50%,
mức độ thực hiện trung bình là 50%, không có ý kiến nào đánh giá là khá và tốt. Chúng
tôi tiếp tục phỏng vấn 25 GV giảng dạy môn khoa học tự nhiên, 25 GV giảng dạy các
môn khoa học xã hội với câu hỏi “Đồng chí có thực hiện giáo dục KNS cho HS qua
23


môn học của mình không?”. Với GV giảng dạy các môn khoa học xã hội có 11 GV
(44%) trả lời có thực hiện giáo dục KNS cho HS nhưng tùy thuộc vào từng bài cụ thể,
14 GV (56%) chưa thực hiện giáo dục KNS qua bài học với lý do nội dung bài học quá
dài không có thời gian để giáo dục KNS. Với GV giảng dạy các môn khoa học tự nhiên
chỉ có 6 GV (24%) trả lời có thực hiện giáo dục KNS ở một số bài cụ thể, 19 GV (76%)
trả lời chưa thực hiện giáo dục KNS vì thời gian giảng dạy không đủ với nội dung bài
học trên lớp và họ chưa nghiên cứu về vấn đề này.
* Thực trạng việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo giáo dục KNS cho học sinh
Giáo dục KNS muốn có hiệu quả phụ thuộc rất nhiều vào khâu lập kế hoạch, xây
dựng chương trình, nội dung, chỉ đạo các hoạt động giáo dục. Đánh giá đúng mức việc
xây dựng kế hoạch và chỉ đạo giáo dục KNS, chúng tôi tiến hành điều tra mức độ thực

hiện công tác xây dựng kế hoạch giáo dục KNS của 50 cán bộ GV, cán bộ quản lý. Kết
quả thu được:
Nội dung
Việc xây dựng kế hoạch quản lý công

SL
25

%
50

Mức độ thực hiện
Khá
TB
SL
%
SL
%
15
30
10
20

tác giáo dục KNS cho học sinh
Chương trình, nội dung giáo dục

3

6


20

40

27

54

0

0

KNS phù hợp với từng khối lớp
Công tác tổ chức chỉ đạo việc thực hiện

3

6

16

32

31

62

0

0


kế hoạch, nội dung giáo dục KNS
Phát huy tốt vai trò của các tổ chức

4

8

20

40

6

12

20

40

đoàn thể
Việc chỉ đạo dạy KNS thông qua

15

30

16

32


19

38

0

0

các môn học khoa học xã hội
Việc chỉ đạo dạy KNS qua tất cả

0

0

0

0

25

50

25

50

các môn học
Phối hợp tốt giữa nhà trường, gia


3

6

16

32

31

62

0

0

30

60

15

30

5

10

0


0

5

10

15

20

20

40

10

20

Tốt

Yếu
SL
%
0
0

đình, xã hội trong công tác giáo
dục KNS
Xây dựng môi trường lành mạnh và

tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
giáo dục KNS
Việc nâng cao nhận thức về vai trò

24


của KNS cho HS
Bảng 5: Mức độ thực hiện công tác xây dựng kế hoạch
và chỉ đạo giáo dục KNS
Những ý kiến đánh giá của GV, cán bộ quản lý thu được ở bảng 5 cho thấy, các
nhà trường đã xây dựng kế hoạch, xác định nội dung chương trình và chỉ đạo việc thực
hiện kế hoạch, nội dung giáo dục KNS một cách đầy đủ không có ý kiến nào mức độ
thực hiện yếu;cán bộ, GV của nhà trường đều chú trọng việc xây dựng môi trường sư
phạm lành mạnh tạo thuận lợi cho công tác giáo dục KNS, việc nâng cao nhận thức về
vai trò KNS cho HS đã được quan tâm. Tuy nhiên, nội dung giáo dục KNS phù hợp
với từng khối lớp chưa được đánh giá cao, mức độ trung bình đạt tới 54%. Việc chỉ
đạo dạy KNS thông qua tất cả các môn học thực sự chưa tốt tới 50% đánh giá yếu.
Nhà trường mới quan tâm nhiều tới chỉ đạo giáo dục KNS thông qua các môn khoa
học xã hội, đây là mặt yếu trong công tác quản lý, chỉ đạo giáo dục KNS của nhà
trường.
* Thực trạng quản lý các lực lượng giáo dục KNS cho học sinh THPT ở trường
THPT Hai Bà Trưng
Dưới sự chỉ đạo sát sao của BGH, các thầy cô giáo trong nhà trường đã có nhiều
cố gắng trong công tác giáo dục toàn diện cho HS như rèn luyện khả năng học tập, giáo
dục đạo đức, tham gia các hoạt động xã hội…Tuy nhiên mức độ thực hiện về giáo dục
KNS cho HS của các tổ chức đoàn thể, cán bộ quản lý, của GV chủ nhiệm và GV bộ
môn trong nhà trường cũng khác nhau.
Chúng tôi tiến hành điều tra 50 cán bộ GV về mức độ thực hiện giáo dục KNS.
Kết quả thu được:

Tổ chức
Tốt
Tổ chức Đoàn thanh niên
Tổ chức Công đoàn
Giáo viên chủ nhiệm
Giáo viên giảng dạy bộ môn

SL
13
0
20
0

%
26
0
40
0

Mức độ thực hiện
Khá
TB
SL
%
SL
%
23
46
14
28

15
30 35
70
15
30
15 30
0
0
26
52

Yếu
SL
%
0
0
0
0
0
0
24
48

thông qua các môn học
Bảng 6: Mức độ thực hiện giáo dục KNS cho học sinh
của các lực lượng giáo dục trong nhà trường

25



×