Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn sinh học lớp 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.27 KB, 16 trang )

PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG THCS HOÀNG LÂU

HỒ SƠ ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
CẤP HUYỆN NĂM HỌC 2018-2019

Tên sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực
trong dạy học môn sinh học lớp 8

Tác giả sáng kiến: Nguyễn Văn Trường
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị: Trường THCS Hoàng Lâu huyện Tam Dương, tỉnh
Vĩnh Phúc.
HỒ SƠ GỒM CÓ:
1. Đơn đề nghị công nhận Sáng kiến cấp huyện;
2. Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến.
3. Giấy chứng nhận Sáng kiến cấp cơ sở;


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

ĐƠN ĐỀ NGHỊ
CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP HUYỆN
Kính gửi: Hội đồng Sáng kiến huyện Tam Dương
Tên tôi là: Nguyễn Văn Trường
Chức vụ (nếu có): Giáo viên
Đơn vị/địa phương: Trường THCS Hoàng Lâu
Điện thoại: 0979.866.762
Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng Sáng kiến Huyện Tam


Dương xem xét và công nhận sáng kiến cấp huyện cho tôi đối với sáng kiến
đã được Hội đồng Sáng kiến cơ sở công nhận sau đây:
1. Tên sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực
trong dạy học môn sinh học lớp 8
(Có Báo cáo Báo cáo kết quả nghiên cứu, ứng dụng sáng kiến và Giấy
chứng nhận Sáng kiến cấp trường kèm theo)
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu
trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn.
Xác nhận của Thủ trưởng đơn vị
(hoặc Chính quyền địa phương)

(Ký tên, đóng dấu)

Hoàng Lâu, ngày 3 tháng 3 năm2019
Người nộp đơn
(Ký tên, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Văn Trường


PHÒNG GD&ĐT TAM DƯƠNG
TRƯỜNG THCS HOÀNG LÂU

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN

Tên sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực
trong dạy học môn sinh học lớp 8


Tác giả sáng kiến: Nguyễn Văn Trường

Tam Dương, năm 2019


BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG
KIẾN 1. Lời giới thiệu
Như chúng ta đã biết, phương pháp dạy học chủ yếu hiện nay là lấy học
sinh làm trung tâm. Học sinh được xem như một chủ thể hành động, người
thầy giáo đóng vai trò chỉ đạo. Có như vậy mới thực sự phát huy được tính
tích cực tự giác, tư duy sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Chính vì vậy việc tổ chức 1 tiết học có hiệu quả là một vấn đề khó khăn (nhất
là trong thời kỳ quá độ chuyển từ phương pháp dạy học truyền thống sang
phương pháp dạy học mới thì tư tưởng cũ đã ăn quá sâu trong tiềm thức của
Gv, đặc biệt là những Gv đã giảng dạy lâu năm trong nghề )
Hiện nay một thực trạng xảy ra trong các nhà trường là hầu hết Gv rất lúng
túng khi phải đứng trước một thực tế : Phải đổi mới 1cách toàn diện, đặc biệt
là vấn đề tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm học tập, đảm bảo cho các
em được bàn bạc, thảo luận để thống nhât ý kiến dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn
của mình. Đứng trước yêu cầu đó thì việc lựa chọn các đồ dùng học tập để
phục vụ cho một tiết học mang lại hiệu quả cao là một vấn đề đang được tranh
luận rộng rãi trong hàng ngũ giáo viên.
Qua thực tế bản thân tôi nhận thấy nhiều giờ dạy một số giáo viên đã có
hướng sử dụng phiếu học tập để phục vụ cho hoạt động dạy học, tuy nhiên việc
sử dụng còn lúng túng, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong việc đổi mới
phương pháp dạy học, đặc biệt là khâu tổ chức các hoạt động nhận thức cho học
sinh. Vấn đề đáng chú ý là khi sử dụng phiếu học tập là phải rèn luyện cho học
sinh các thao tác kỷ năng hoạt động, phát huy năng lực độc lập nâng cao tinh
thần trách nhiệm của học sinh trong học tập, rèn cho học sinh phương pháp tư

duy khái quát có khả năng tiếp nhận kiến thức ở mức độ cao. Quan trọng hơn cả
là giúp học sinh vừa chiếm lỉnh kiến thức vừa nắm vững kiến thức tái tạo cho
bản thân về kiến thức đó, phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và thói quen
tự học, giúp học sinh có thể tự học suốt đời.Ngoài ra tình trạng học sinh hiện
nay luôn có thói quen tiện tay là điền ngay thông tin kiến thức vào bảng gợi ý
của sách giáo khoa, dẫn đến các trang sách bị bẩn và không thể tận dụng cuốn
sách cho thế hệ học sinh kế tiếp năm học sau, dẫn đến tình trạng thiếu sách giáo
khoa như năm học 2018-2019, vấn đề này Bộ Giáo Dục đã chỉ đạo từ đầu năm
học là: “Giáo viên và học sinh phải cải tiến phương pháp dạy và học để giảm
tình trạng thiếu sách giáo khoa như hiện nay”. Đây là những yêu cầu căn bản
của lý luận dạy học nói chung. Bằng việc sử dụng các phiếu học tập là điều kiện
để giáo viên chuyển hoạt động của mình từ trình bày giảng giải thuyết minh
sang hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo, để từ đó học sinh tham gia hoạt động học
tập tích cực tự nghiên cứu, không còn hiện tượng thụ động nghe giảng. Từ
những lý do trên và mong muốn để góp phần phát huy các biện pháp tổ chức


cho dạy và học môn sinh học nói chung và sinh học lớp 8 nói riêng, tôi mạnh
dạn lựa chọn đề tài “Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong
dạy học môn sinh học lớp 8” nhằm phát huy năng lực độc lập tự nghiên cứu
bài học của học sinh trong dạy học sinh học.
2. Tên sáng kiến: “Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực
trong dạy học môn sinh học lớp 8”
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Nguyễn Văn Trường
- Địa chỉ tác giả sáng kiên: Trường THCS Hoàng Lâu, huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0979 866 762
E_mail:
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Văn Trường

5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy
tính tích cực trong dạy học môn sinh học lớp 8
6. Ngày sáng kiến được áp dụng: Tháng 2/2018 đến tháng 2/2019.
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1.Về nội dung của sáng kiến
Phó Giáo Sư-Tiến Sỹ Nguyễn Đức Thành đã khái niệm về phiếu học
tập như sau: "Để tổ chức các hoạt động của học sinh, người ta phải dùng các
phiếu hoạt động học tập gọi tắt là phiếu học tập. Còn gọi cách khác là phiếu
hoạt động hay phiếu làm việc. Phiếu học tập là những tờ giấy rời, in sẵn
những công tác độc lập hay làm theo nhóm nhỏ, được phát cho học sinh để
học sinh hoàn thành trong một thời gian ngắn của tiết học. Trong mỗi phiếu
học tập có ghi rõ một vài nhiệm vụ nhận thức nhằm hướng tới hình thành kiến
thức, kĩ năng hay rèn luyện thao tác tư duy để giao cho học sinh ".
Nội dung hoạt động được ghi trong phiếu có thể là tìm ý điền tiếp hoặc
tìm thông tin phù hợp với yêu cầu của hàng và cột, hoặc trả lời câu hỏi. Nguồn
thông tin để học sinh hoàn thành phiếu học tập có thể từ tài liệu giáo khoa, từ
hình vẽ, từ các thí nghiệm, từ mô hình, mẫu vật hoặc sơ đồ hoặc từ những mẩu
tư liệu được giáo viên giao cho mỗi học sinh sưu tầm trước khi học.

Vậy theo tôi, phiếu học tập về mục tiêu nó là một trong những công cụ
cụ thể hoá hoạt động học tập của học sinh , là công cụ hữu hiệu trong việc xử
lý thông tin ngược.
Theo tác giả PGS. TS. Nguyễn Đức Thành : "Phiếu học tập có ưu thế hơn
câu hỏi, bài tập ở chỗ muốn xác định một nội dung kiến thức nào đó thoả mãn
nhiều tiêu chí hoặc xác định nhiều nội dung từ các tiêu chí khác nhau, nếu diễn


đạt bằng câu hỏi thì dài dòng. Ta có thể thay bằng một bảng có các tiêu chí
thuộc các cột, các hàng khác nhau. Học sinh căn cứ vào tiêu chí ở cột và hàng
để tìm ý điền vào ô trống cho phù hợp. Như vậy giá trị lớn nhất của phiếu học

tập là với nhiệm vụ học tập phức tạp được định hướng rõ ràng, diễn đạt ngắn
gọn bằng một bảng gồm có các hàng, cột ghi rõ các tiêu chí cụ thể".
Phiếu học tập là một phương tiện DH do GV tự thiết kế bao gồm
những nhiệm vụ học tập được trình bày một cách logic, khoa học, trong đó
GV đã tính toán kĩ từng bước nhỏ, vừa sức với HS để các em có thể tự làm
được, qua đó có thể tự mình chiếm lĩnh kiến thức mới. Phiếu học tập đồng
thời cũng là công cụ để GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS. HS sử
dụng PHT như một tài liệu học tập để thực hiện các nhiệm vụ học tập được
giao nhằm lĩnh hội kiến thức mới. Thông qua các hoạt động cá nhân hay hoạt
động nhóm, HS rèn luyện được kỹ năng học tập độc lập hay học tập hợp tác,
kỹ năng trình bày ý kiến, thảo luận,...
Khi sử dụng PHT, HS phải tự nghiên cứu SGK và các tài liệu tham khảo,
mọi HS phải tự thực hiện nhiệm vụ được giao trong PHT, hạn chế được thói
quen ỷ lại, dựa dẫm và tiện tay điền ngay thông tin vào sách giáo khoa, làm cho
sách bị bẩn và không thể sử dụng cho học sinh thế hệ sau, tình trạng này đa số là
HS kém và trung bình. Trong lúc HS tiến hành các hoạt động học tập bằng tay,
các biến đổi sinh hóa được diễn ra một cách mạnh mẽ, sâu sắc trong não của các
em, giúp các em hiểu sâu và nhớ lâu bài học. Trong quá trình thảo luận để hoàn
thành phiếu, HS được tự do trình bày ý kiến của mình trước lớp, qua đó sẽ bộc lộ
những quan niệm của HS, từ đó GV sẽ có hướng khắc phục các quan niệm của
HS, đặc biệt là những quan niệm sai lầm, không chính xác. Đồng thời, khi tiếp
nhận những ý kiến đóng góp, sửa đổi của các HS khác trong nhóm, lớp, của GV,
các em sẽ phần nào tự đánh giá được kết quả làm việc của mình.

Mặt khác, trong quá trình HS thực hiện nhiệm vụ trong PHT, qua quan
sát, GV có thể thu nhận được thông tin về năng lực, thái độ học tập của HS để
có biện pháp uốn nắn kịp thời. Đồng thời, qua các sản phẩm của quá trình làm
việc bằng tay của HS, GV có được nguồn thông tin phản hồi trung thực hơn,
từ đó điều chỉnh được PPDH của mình. Như vậy, việc sử dụng PHT đóng một
vai trò quan trọng trong DH phát huy tính tích cực nhận thức của HS. Do đó,

việc nghiên cứu thiết kế và đưa vào sử dụng PHT trong DH SH là rất quan
trọng và cần thiết.
Có rất nhiều kiểu loại và hình thức PHT khác nhau, nhưng nhìn chung
chúng đều có những chức năng giáo dục tương đối chung và có thể nhận biết
được. Theo nhiều tài liệu, các nhà nghiên cứu đều có sự thống nhất về 2 chức
năng cơ bản của PHT như sau:
PHT thực hiện chức năng cung cấp thông tin và sự kiện cho HS. Những
thông tin, sự kiện này là những thông tin, sự kiện không có trong SGK nhưng có
liên quan đến bài học. GV có thể cung cấp những thông tin này hoặc có thể giới


thiệu cho HS cách tự tìm thông tin, từ đó, yêu cầu HS phân tích để rút ra những
tri thức cho bài học, hoặc để minh họa, làm sáng tỏ thêm kiến thức cho bài học.
Theo tác giả Đặng Thành Hưng thì “trong PHT có thể là văn bản, biểu số liệu,
hình ảnh, sơ đồ..., tóm tắt hoặc trình bày bằng những cấu trúc nhất định một
lượng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện xuất phát cần thiết cho người học”.

Như vậy những thông tin, sự kiện trong PHT có thể là văn bản, biểu số
liệu, hình ảnh ... không có trong SGK nhưng cần thiết cho người học. Nguồn
của các thông tin này có thể là các sách, báo, tạp chí, mạng internet ...
Chức năng công cụ hoạt động và giao tiếp. Đây là chức năng quan
trọng và được lưu ý hơn chức năng cung cấp thông tin và sự kiện. Bởi trong
thời đại này, nguồn tư liệu học tập rất phong phú nên việc tìm kiếm thông tin,
sự kiện không khó đối với HS. Theo tác giả Đặng Thành Hưng, “PHT còn nêu
lên những nhiệm vụ học tập, những yêu cầu hoạt động, những hướng dẫn học
tập, những công việc và vấn đề để người học thực hiện hoặc giải quyết. Thông
qua nội dung và tính chất này nó thực hiện chức năng công cụ hoạt động và
giao tiếp trong quá trình học tập của người học”. Tác giả Nguyễn Đức Vũ khi
bàn về chức năng này cũng cho rằng đây là chức năng cơ bản của PHT: “PHT
chứa đựng các câu hỏi, bài tập, yêu cầu hoạt động, những vấn đề và công việc

để HS giải quyết hoặc thực hiện, kèm theo hướng dẫn, gợi ý cách làm. Thông
qua các nội dung này, PHT thực hiện chức năng là công cụ hoạt động và giao
tiếp trong quá trình học tập của HS”.
Như vậy, ngoài chức năng cung cấp thông tin và sự kiện, PHT còn thực
hiện một chức năng quan trọng hơn đó là công cụ hoạt động và giao tiếp. PHT
là công cụ để HS hoạt động theo hình thức cá nhân hay hoạt động theo nhóm.
PHT hỗ trợ các hoạt động và quan hệ của người học, tương tác chia sẻ giữa
người học với nhau và với GV.
7. 2. Thực trạng
7.2.1.Thuận lợi
- Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Ban Giám Hiệu nhà trường, sự
ủng hộ nhiệt tình của các đồng nghiệp, các bậc phụ huynh đối với việc sử
dụng phiếu học tập, phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh.
- Phương tiện, thiết bị, đồ dùng học tập được trang bị đầy đủ cho việc
thực hiện và áp dụng đề tài.
- Phần lớn học sinh đều là con em trong xã nên việc đi lại thuận tiện, có
đầy đủ đồ dùng học tập.
7.2.2.Khó khăn
Việc thiết kế phiếu học tập của một số giáo viên chưa khoa học, nhiều
nội dung bài học rất khó thuyết trình hoặc giải thích bằng lời để học sinh hiểu
dẫn đến hiệu quả chưa cao.
-


- Một số học sinh chưa quen với việc thực hiện trên phiếu học tập, có
thói quen ỷ lại, dựa dẫm, tiện tay điền ngay thông tin vào sách giáo khoa nên
còn lúng túng trong quá trình thảo luận, do vậy kết quả hoạt động, tìm hiểu
kiến thức còn hạn chế.
Kết quả khảo sát chất lượng học sinh đầu năm
Trước khi áp dụng sáng kiến

Lớp

8A

8B

SLHS

Tỉ lệ%

Điểm giỏi

5

3

8

9,8%

Điểm khá

16

11

27

32,9%


Điểm TB

18

24

42

51,2%

Điểm yếu

1

4

5

6,1%

Cộng

40

42

82

100%


Qua kết quả khảo sát chất lượng môn sinh của học sinh khối 8, tôi thấy
vẫn còn tình trạng học sinh yếu kém. Vì vậy nâng cao chất lượng, phát huy
tính tích cực học tập của học sinh là hết sức cần thiết. Vì vậy tôi đã chọn đề
tài này để áp dụng thực tiễn vào giảng dạy.
7.3. Một số phương pháp sử dụng phiếu học tập
Trong dạy học truyền thống giáo viên là trung tâm hoạt động, trong một
giờ học hoạt động của giáo viên chiếm phần lớn, giáo viên trình bày giảng giải
biểu diễn thí nghiệm, phân tích tổng hợp minh hoạ .v.v. còn học sinh thì ngồi
nghe ghi chép, nhìn quan sát một cách thụ động, khi giáo viên nêu những câu hỏi
thì học sinh trả lời, nhưng chỉ có một vài học sinh được hoạt động vì thời gian có
hạn còn hầu hết học sinh ngồi nghe câu trả lời của các bạn của giáo viên. Vì vậy
không được hoạt động, không được rèn luyện kĩ năng và bộc lộ kĩ năng hoạt
động, ảnh hưởng đến tính tích cực hoạt động của học sinh. Giáo viên chỉ đánh
giá thông qua gọi kiểm tra và ở một số học sinh hay trả lời câu hỏi.

Bằng việc sử dụng các phiếu học tập, chuyển hoạt động của giáo viên từ
trình bày, giảng giải, thuyết minh sang hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo. Mọi học
sinh được tham gia hoạt động tích cực,tự nghiên cứu thông tin kiến thức,
không còn hiện tượng thụ động nghe giảng.
7.3.1. Sử dụng PHT để hình thành kiến thức mới
Trong dạy học truyền thống, giáo viên là trung tâm hoạt động, vai trò
trung tâm của học sinh bị xem nhẹ. Vì vậy không được hoạt động, rèn luyện và
bộc lộ kĩ năng hoạt động, ảnh hưởng đến tính tích cực trong hoạt động của học


sinh. Giáo viên chỉ đánh giá thông qua gọi kiểm tra và ở một số học sinh hay
trả lời câu hỏi. Bằng việc sử dụng các phiếu học tập đã phá vở những khuyết
điểm đó của giáo viên trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh.
7.3.2. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng quan sát
Khi quan sát hình vẽ có nhiều chi tiết hoặc quan sát thiên nhiên có nhiều

hiện tượng đồng thời xảy ra, nhưng cần nghiên cứu một hiện tượng trong đó,
giáo viên phải rèn luyện cho học sinh có kĩ năng quan sát và nhận biết, ta
thường dùng PHT để học sinh tìm tòi kiến thức qua quan sát.
VD: Khi dạy bài 11"Tiến hóa của hệ vận động vệ sinh hệ vận động" Sinh học
8. Giáo viên cho học sinh quan sát hình 11.5 SGK. Nếu để tự học sinh quan
sát, khó có thể xác định được mình cần quan sát cái gì và rút ra kết luận gì
qua quan sát. Trong trường hợp này giáo viên yêu cầu học sinh quan sát đồng
thời phát PHT vừa là gợi ý, vừa là định hướng phát hiện vấn đề bản chất mà
hình 11.5 biểu hiện.

Giáo viên có thể sử dụng PHT như sau:
Hệ cơ
quan thực
hiện vận
động
Bộ xương
Hệ cơ

Bảng: Sự vận động của cơ thể
Đặc điểm cấu tạo
Chức năng
đặc trưng

Vai trò
chung

7.3.3. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng phân tích
Khi đi sâu nghiên cứu một nội dung nào đó cần phân tích, nếu giáo viên
không yêu cầu học sinh cần phân tích nội dung gì thì học sinh khó mà rút ra
kết luận. Trong trường hợp này giáo viên yêu cầu đọc thông tin, trong SGK

rồi từ đó phân tích nội dung nghiên cứu.
VD: Khi dạy bài 42 “Vệ sinh da" ta có thể sử dụng dạng phiếu học tập
sau:
Dựa vào thông tin trong SGK, nghiên cứu mục II- Rèn luyện da; hãy
cho biết những nguyên tắc nào dưới đây phù hợp với rèn luyện da bằng cách
đánh dấu V:
Các nguyên tắc rèn luyện da
- Phải luôn cố gắng rèn luyện da tới mức tối da



- Phải rèn luyện từ từ, nâng dần sức chịu đựng



- Rèn luyện thích hợp với tình trạng sức khỏe của từng người






- Rèn luyện trong nhà tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời
7.3.4. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng so sánh

Nhiều khi nghiên cứu 1 vấn đề mà chứa đựng nhiều nội dung, muốn phân biệt
chúng người học không dễ gì xác định được điểm giống nhau và khác nhau đó.
Do vậy giáo viên cần định hướng cho người học bằng 1 yêu cầu thông qua PHT.

VD: Khi dạy bài 24: Tiêu Hóa Và Các Cơ quan Tiêu Hóa

Bảng: Tiêu hoá
Hệ cơ quan – Các chất

Gluxit
Lipit

Khoang

Thực

Dạ

miệng

quản

dày

Hấp thụ

Ruột già

x
x

x

Prôtêin

Ruột non


x

x

Đường
Axit béo và glixêrin
Axit amin

- Khi củng cố Bài 11- “Tiến hóa của hệ vận độngvệ sinh hệ vận động”
ta có thể cho học sinh làm việc bằng phiếu học tập sau:
Qua bài 11 hãy xác định những điểm khác nhau giữa xương người và
xương thú theo bảng sau:
Bảng 11- Sự khác nhau giữa bộ xương người và xương thú
Các phần so sánh

Bộ xương người

Bộ xương thú

- Tỉ lệ sọ/mặt
- Lồi cằm xương mặt
- Cột sống
- Lồng ngực
- Xương chậu
- Xương đùi
- Xương bàn chân
- Xương gót
7.3.5. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng suy luận đề xuất giả thuyết



Trong những nội dung cần nghiên cứu, để giúp học sinh tìm ra kiến thức
mới bằng kĩ năng suy luận, đề xuất giả thuyết thì giáo viên phải gợi ý định
hướng cho học sinh bằng PHT sau:
Ví dụ : Bài 16- Tuần Hoàn Máu Và Lưu Thông Bạch Huyết
Cơ quan
Tim

Bảng: Tuần hoàn máu
Đặc điểm cấu tạo
Chức năng
đặc trưng
- Có van nhĩ thất và
van động mạch.

Vai trò chung

Hệ mạch
- Ngoài những dạng phiếu học tập đã nêu ở trên, để nghiên cứu tài liệu
mới, củng cố, ôn tập ta cũng có thể dùng phiếu học tập nhưng ở dạng tổng
hợp hơn. Nghĩa là trong một tờ giấy rời được xây dựng một số hoạt động
nhằm tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, mở rộng một số kiến thức.
7.3.6. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng quy nạp, khái quát hoá
Hoàn thiện hệ thống hoá kiến thức thường thực hiện vào cuối chương hay
cuối một chủ đề lớn. Do vậy học sinh phải được chuẩn bị trước, mà chuẩn bị
trước tốt nhất là chuẩn bị theo PHT. Ta có thể cho từng học sinh đủ số phiếu
để hệ thống hoá được toàn bộ kiến thức khi ôn tập, học sinh tự hoàn thành ở
nhà, đến lớp cho học sinh báo cáo bổ sung, cuối cùng giáo viên tổng kết hệ
thống làm nội dung học tập chính thức.
Sau khi học xong một chương hay một học kỳ, giáo viên hệ thống lại toàn

bộ kiến thức 1 cách khái quát nhằm cho học sinh thấy được bức tranh toàn
diện những nội dung đã học. Sử dụng PHT để hoàn thiện, hệ thống hoá kiến
thức của các yêu cầu sau:
- Yêu cầu học sinh lập bảng so sánh, phân tích, tổng hợp lập sơ đồ hệ thống
hoá kiến thức.
VD: Khi dạy bài 35 "Ôn tập"Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành PHT sau:
Bảng: Các loại nơron
Các loại nơron

Vị trí

Chức năng

Nơron hướng tâm

- Thân nằm bên ngoài TƯ
thần kinh

- Truyền xung thần kinh
từ cơ quan đến TƯ thần
kinh (thụ cảm).

(nơron cảm giác)
Nơron trung gian


(nơron liên lạc)
Nơron li tâm
(nơron vận động)
* Một số chú ý khi sử dụng phiếu học tập

- Tuỳ theo nội dung từng bài có thể thay đổi số nhóm học tập cho phù hợp
- Thời gian sử dụng có thể nhiều hay ít nhưng không nên quá ít (trên 10 phút)
- Phải đưa ra đúng lúc, đúng thời điểm cần thiết tránh phân tán tư tưởng
học sinh
- Trong quá trình học sinh làm việc với phiếu, giáo viên phải giám sát
chặt chẽ các nhóm đặc biệt là những học sinh lười hoạt động ,những học sinh
hay phá rối trong các giờ học
- Trước khi phát phiếu cho các nhóm làm việc, giáo viên nên có những
qui định cụ thể về thời gian, về nội dung cần thảo luận, hình thức trình bày và
1số qui định khác.
- Sau khi hoàn thành thảo luận nhóm, nên cho các nhóm tiến hành trao
đổi chéo để kiểm tra lẫn nhau và có thể giúp các em tự đánh giá được kiến
thức của mình và của các bạn trong nhóm cũng như của nhóm khác
- GV có thể thông qua phiếu học tập để đánh giá và cho điểm các nhóm bằng
cách sau khi đưa đáp án kết luận, GVđưa ra thang điểm cụ thể cho các nhóm chấm
lẫn nhau kích thích hứng thú cho các em vừa khắc sâu được kiến thức.

Như vậy bằng việc hoàn thành phiếu học tập, học sinh tự đánh giá được
hoạt động tích cực, tạo được hứng thú trong giờ học, kích thích tư duy của
học sinh.Khi dùng phiếu học tập, giáo viên có thể kiểm soát đánh giá được
trình độ của học sinh và từ đó có những điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với
đối tượng và tăng hiệu quả dạy học. Để việc sử dụng phiếu học tập đạt kết quả
cao trong dạy học người giáo viên cần xác định được một số vấn đề sau:
8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Cơ sở vật chất nhà trường, trang thiết bị, đồ dùng, …
- Con người: Giáo viên, học sinh trường THCS Hoàng Lâu.
10. Đánh giá lợi ích thu được
Qua thời gian thử nghiệm 2 học kỳ ở các lớp 8 tôi đã có những kết quả
thu được như sau:

Về mặt tâm sinh lí, tôi nhận thấy các em thích được sử dụng PHIẾU để
sinh hoạt nhóm và việc sử dụng phiếu tổng hợp được kiến thức trọng tâm, dễ


nhớ, dễ hiểu và đem lại hiệu quả cao hơn, số học sinh hiểu bài nhiều hơn (đặc
biệt là việc các em được tự do công khai kiểm tra đánh giá kiến thức của các
bạn khác cũng như tự đánh giá kiến thức của mình qua những lần tự chấm
điểm ngay tại lớp đã kích thích các em say mê hơn, tăng thêm hứng thú và tự
giác trong học tập ,tạo không khí thi đua sôi nổi trong các nhóm. giúp học
sinh phát huy khả năng tự nghiên cứu bài học. Kết quả số HS khá giỏi nhiều
hơn những năm trước.
Trước khi áp dụng sáng kiến

Sau khi áp dụng sáng kiến

Lớp

8A

8B

SLHS

Tỉ lệ%

8A

8B

SLHS


Tỉ lệ %

Điểm giỏi

5

3

8

9,8%

13

8

21

25,6%

Điểm khá

16

11

27

32,9%


18

17

35

42,7%

Điểm TB

18

24

42

51,2%

9

17

26

31,7%

Điểm yếu

1


4

5

6,1%

0

0

0

0

Cộng

40

42

82

100%

40

42

82


100%

Qua bảng so sánh cho thấy sau khi áp dụng đề tài vào thực tế đã mang
lại kết quả khả quan:
+ Học sinh có điểm giỏi: 21/82 đạt 25,6% tăng 13 học sinh so với đầu
năm khi chưa áp dụng đề tài.
+ Học sinh có điểm khá: 35/82 đạt 42,7 % tăng 8 học sinh so với đầu
năm khi chưa áp dụng đề tài.
+ Học sinh có điểm trung bình: 26/82 đạt 31,7% giảm 16 học sinh so với
đầu năm khi chưa áp dụng đề tài.
+ Học sinh có điểm yếu: 0/82 giảm 5 học sinh so với đầu năm khi chưa
áp dụng đề tài.
10.1. Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tác giả
- Tác giả đã rút ra được nhiều kinh nghiệm trong khâu tổ chức cho học
sinh hoạt động cá nhân hay theo từng nhóm phù hợp với từng nội dung bài
một cách chính xác khoa học.
- Bản thân mỗi giáo viên có thể bao quát được lớp học và nhận ra khả
năng phát huy trí tuệ của từng cá nhân học sinh.
- khi sử dụng phiếu học tập, học sinh có nhiều đáp án khác nhau nên đã
tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả thu thập và củng cố được nhiều thông tin
kiến thức mới, góp phần xây dựng kiến thức của bản thân.


- Rèn luyện thao tác và kỹ năng sử dụng đồ dùng thiết bị một cách linh
hoạt, chính xác khoa học phù hợp cho từng nội dung bài dạy
- Tạo thuận lợi cho tác giả nhanh gọn trong khâu củng cố kiến thức và
kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh một cách chính xác.
- Sử dụng phiếu học tập là hành trang giúp cho tác giả tự tin truyền thụ
kiến thức và giữ được lập trường, tư tưởng vững vàng, là cơ sở để trao đổi

kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ với đồng nghiệp.
- Đề tài đã góp phần vào công việc chống lãng phí sách giáo khoa và
tình trạng thiếu sách giáo khoa như hiện nay mà Bộ Giáo dục đã chỉ thị giáo
viên, học sinh hãy tận dụng nguồn sách giáo khoa cũ cho thế hệ học sinh kế
tiếp năm sau.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tổ chức, cá nhân
Sau khi áp dụng đề tài cho thấy, chất lượng học sinh khối 8 bước đầu đã
dần được nâng cao, học sinh hứng thú học tập và tích cực nghiên cứu bài học,
phát huy tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ và tính tự chủ của học sinh. Đã góp
phần hạn chế học sinh có thói quen điền thông tin kiến thức vào trong sách
giáo khoa gây lên tình trạng thiếu sách giáo khoa như hiện nay. Góp phần
nâng cao khả năng sáng tạo và sử dụng phiếu học tập của giáo viên. Kết quả
được thể hiện qua khảo sát chất lượng, số học sinh khá giỏi tăng, không có
học sinh yếu kém so với đầu năm học.
Vì vậy sáng kiến đã được các đồng chí trong nhà trường đánh giá cao
và cho rằng có thể áp dụng vào các năm học tiếp theo.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi và đồng nghiệp đã áp
dụng cho học sinh khối 8 tại nhà trường trong năm học 2018-2019. Tôi tin
rằng đề tài sáng kiến này ít nhiều cũng đã mở cho bản thân tôi cùng các giáo
viên trong trường và trường bạn một hành trang mới để tiếp tục thực hiện
nhiệm vụ trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người hiện nay.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử
hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu:
Số
Tên tổ
TT chức/cá nhân
1

Lớp 8A


Địa chỉ

Phạm vi/Lĩnh vực
áp dụng sáng kiến

Trường THCS Hoàng Sử dụng phiếu học tập để
Lâu, huyện Tam Dương, phát huy tính tích cực trong
tỉnh Vĩnh Phúc
dạy học môn sinh học lớp 8
trường THCS Hoàng
Lâu,
huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh
Phúc.

2

Lớp 8B

Trường

THCS

Hoàng Sử dụng phiếu học tập

để


Lâu, huyện Tam Dương, phát huy tính tích cực trong
tỉnh Vĩnh Phúc
dạy học môn sinh học lớp 8

trường THCS Hoàng Lâu,
huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh
Phúc.

Hoàng Lâu, ngày 6 thán 3 năm 2019 Hoàng Lâu, ngày 3 tháng 3 năm 2019
Thủ trưởng đơn vị
Tác giả sáng kiến
(Ký tên, đóng dấu)

(Ký, ghi rõ họ tên)

Nguyễn Văn Trường


HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
THCS HOÀNG LÂU
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

GIẤY CHỨNG NHẬN
SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG
Số: 01/CN-SKHL
Căn cứ kết quả họp Hội đồng chấm sáng kiến, ngày 06/03/2019
HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN THCS HOÀNG LÂU
CHỨNG NHẬN
Ông (bà): Nguyễn Văn Trường
Chức vụ (nếu có): Giáo viên -THCS Hoàng Lâu.
Địa chỉ: THCS Hoàng lâu-Tam Dương-Vĩnh Phúc
Là tác giả của sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực
trong dạy học môn sinh học lớp 8.
1. Thời gian sáng kiến được áp dụng: Ngày 02 tháng 2 năm 2018 đến

tháng 2 năm 2019
2. Tóm tắt nội dung sáng kiến: Đảm bảo tính mới, khoa học và mang lại
hiệu quả trong công tác dạy và học. Đề tài đã nêu được các giải pháp chủ
yếu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong trường THCS Hoàng Lâu.
3. Lợi ích kinh tế - xã hội có thể thu được do áp dụng sáng kiến:
Kết quả là nâng cao chất lượng HSG qua các kỳ thi khảo sát và thi HSG:
Cấp huyện, Tỉnh và tái sử dụng lại một số sách giáo khoa cũ.
4. Kết quả công nhận của Hội đồng, đạt (Trung bình, Khá, Xuất sắc): Xuất sắc
Hoàng Lâu, ngày 6 tháng 3 năm 2019
P.CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

Nguyễn Việt Trung



×