NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ VÀ XU HƯỚNG
PHÁT TRIỂN CÁC HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP DỊCH VỤ CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI
1.Sơ lược về sự ra đời phát triển của Ngân hàng
gân hàng được hình thành và phát triển trải qua một quá trình lâu dài với
nhiều hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Tiền thân cuả ngân hàng là
nghề kinh doanh tiền tệ ra đời gắn liền với các quan hệ thương mại. Khi
xã hội phát triển cùng với sự giao lưu hàng hoá giữa các vùng các quốc gia với các
loại tiền khác nhau đã gây khó khăn trở ngại cho việc thanh toán, mua bán, chuyển
đổi và bảo quản tiền tệ. Vì thế đã thúc đẩy sự ra đời của các tổ chức chuyên kinh
doanh tiền tệ. Nghiệp vụ đầu tiên của các tổ chức này là thực hiện việc đổi tiền
đúc, kinh doanh chế tác vàng bạc.
N
Sự phát triển của lưu thông hàng hoá cùng với nghiệp vụ đổi tiền đã kéo theo
các nghiệp vụ khác.Trước hết là nhận tiền gửi, bảo quản vàng bạc rồi tiến tới phát
hành những chứng phiếu làm phương tiện thanh toán thay cho tiền vàng. Đặc biệt
sự ra đời loại tín phiếu chứng nhận về tiền gửi và được dùng trong thanh toán chi
trả gần giống như giấy bạc ngân hàng hiện nay. Các tổ chức kinh doanh tiền tệ đã
phát triển thực hiện nhiều nghiệp vụ mới và dần dần được coi như những Ngân
hàng đầu tiên trên thế giới.
Các Ngân hàng mới này hoạt động độc lập và không ràng buộc lẫn nhau.
Sang thế kỷ XVIII lưu thông hàng hoá ngày càng mở rộng và phát triển.Việc các
Ngân hàng cùng thực hiện chức năng phát hành giấy bạc Ngân hàng làm cho trong
lưu thông có nhiều loại giấy bạc Ngân hàng khác nhau gây cản trở cho quá trình
lưu thông hàng hoá và phát triển kinh tế. Chính điều này dẫn đến sự phân hoá trong
hệ thống Ngân hàng, thông qua sự can thiệp của Nhà nước bằng cách giành quyền
phát hành tiền cho vài Ngân hàng lớn có uy tín gọi là Ngân hàng phát hành. Nhưng
vẫn còn tình trạng một quốc gia cùng một lúc lưu thông vài loại tiền. Cuối cùng chỉ
còn một Ngân hàng duy nhất được phép phát hành tiền trở thành Ngân hàng Nhà
nước hay còn gọi là Ngân hàng Trung ương. Còn lại các Ngân hàng khác không
được phép phát hành tiền trở thành Ngân hàng thương mại chuyên kinh doanh
tiền tệ và làm trung gian thanh toán, tín dụng giữa các chủ thể trong nền kinh tế.
2. Ngân hàng thương mại, chức năng và vai trò của nó trong nền kinh tế.
2.1 : Định nghĩa Ngân hàng Thương mại :
ể đưa ra một định nghĩa về Ngân hàng Thương mại người ta thường dựa
vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính và
đôi khi kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động.Đ
Luật Ngân hàng Pháp năm 1941 định nghĩa Ngân hàng thương mại căn cứ
vào tính chất và mục đích hoạt động là “được coi là Ngân hàng là những xí nghiệp
hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký
thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ
chiết khấu tín dụng hay dịch vụ tài chính “
Luật Ngân hàng Ấn Độ 1950 bổ xung 1959 định nghĩa: ”Ngân hàng là cơ sở
nhận các khoản tiền kí thác để cho vay hay tài trợ đầu tư “
Còn luật Ngân hàng Đan Mạch thì căn cứ vào sự kết hợp với đối tượng hoạt
động năm 1930 đã định nghĩa :”những nhà băng thiết yếu gồm các nghiệp vụ nhận
ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và các giá trị địa ốc, các
phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân, đứng ra
bảo hiểm.v.v..”
Ở Việt Nam điều 20 Luật các Tổ chức Tín dụng có hiệu lực thi hành ngày
01/10/2000 quy định “Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng
với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.”
Mặc dù có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách thể hiện nhưng khi phân tích
và khai thác nội dung ta dễ dàng nhận thấy các Ngân hàng thương mại đều có
chung tính chất đó là nhận tiền gửi ký thác (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ
hạn ) để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ kinh doanh
khác của chính ngân hàng
Trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước Ngân hàng thương mại và cơ cấu hoạt động của nó đóng vai trò quan trọng
trong thể chế tài chính của mỗi quốc gia.
2.2: Chức năng và vai trò của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế.
*Chức năng là trung gian tín dụng
X
uất phát từ điểm tuần hoàn của vốn tiền tệ trong quá trình tuần hoàn vốn xã hội đã
phát sinh hiện tượng cùng một lúc có những doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân
có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng đến. Ngược lại có những doanh
nghiệp, cá nhân, tổ chức kinh tế và các chủ thể khác lại có nhu cầu về vốn để bổ
xung vào sản xuất kinh doanh. Mâu thuẫn này cần được giải quyết để tăng hiệu quả
sử dụng vốn trong nền kinh tế và được thoả mãn bằng quan hệ tín dụng trực tiếp
Cá nhânDoanh nghiệpCác tổ chức kinh tếNgânHàngThươngMại
Cá nhân doanh nghiệpCác tổ chức kinh tế
hoặc gián tiếp. Nhưng quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể gặp nhiều hạn
chế vì các chủ thể khó biết được nhu cầu và khả năng về vốn của nhau. Hơn nữa
giữa họ khó có đủ sự tin tưởng để thực hiện quan hệ chuyển nhượng vốn cho nhau.
Để khắc phục hạn chế này Ngân hàng thương mại đứng ra làm “ chiếc cầu
nối “ giữa người có vốn và người cần vốn
(người thừa vốn) (người thiếu vốn)
1. Gửi tiền, uỷ thácđầu tư 3. Cho vay, đầu tư
2.Chứng chỉ tiền gửi 4. Trái phiếu, cổ phiếu
Ngân hàng thương mại huy động vốn bằng cách phát hành các chứng chỉ tiền gửi
thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội.Những chứng chỉ tiền gửi do Ngân hàng
phát hành hấp dẫn người đầu tư hơn nhiều so với các cổ phiếu, trái phiếu của các
công ty (nhất là trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển như ở Việt
Nam). Bởi vì nó ít chịu rủi ro giá cả, tính thanh khoản cao, lại không phải mất chi
phí giám sát hoạt động của các công ty. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được các
Ngân hàng sử dụng để cho vay hoặc đầu tư vào các công ty bằng cách mua cổ
phiếu trái phiếu do các công ty phát hành từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho các
thành phần kinh tế. Như vậy Ngân hàng là môi giới trung gian giữa người đi vay
và người cho vay mà thực chất Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ kinh doanh bằng
việc đi vay để cho vay. Ngân hàng thực hiện được chức năng này vì Ngân hàng là
một cơ quan chuyên trách, chuyên kinh doanh về tiền tệ, tín dụng có khả năng
nhận biết được tình hình cung cầu về tín dụng. Đó là nơi khách hàng có thể tin
tưởng trong việc gửi tiền. Thông qua việc thu hút tiền gửi với khối lượng lớn Ngân
hàng có thể giải quyết mối quan hệ giữa cung và cầu tiền tệ cả về khối lượng vốn
và thời hạn.
Với chức năng này Ngân hàng Thương mại tạo lợi ích cho các bên trong
quan hệ là người gửi tiền, người đi vay, Ngân hàng và đảm bảo lợi ích cho nền
kinh tế
Đây là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại vì nó phản
ánh bản chất của ngân hàng là đi vay để cho vay, nó quyết định sự duy trì và phát
triển của ngân hàng đồng thời nó tạo tiền đề cho các chức năng khác của Ngân
hàng.
*Chức năng trung gian thanh toán
rên cơ sở nhận tiền gửi của khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán
theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để
thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ hay nhập vào tài khoản tiền gửi đó tiền
thu bán hàng và các khoản thu khác. Ở đây Ngân hàng đóng vai trò là "người thủ
quỹ" cho khách hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì việc thanh toán qua ngân
hàng ngày càng mở rộng.
T
Ngân hàng thực hiện chức năng trung gian thanh toán trên cơ sở nó thực hiện
chức năng trung gian tín dụng. Bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi ngân hàng mở
cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu chi theo lệnh của chủ
tài khoản. Đó chính là cơ sở cho khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng
đặt ngân hàng vào vị trí trung gian thanh toán. Hơn nữa hàng ngày nền kinh tế xuất
hiện hàng loạt các quan hệ giao dịch với khối lượng các khoản thanh toán lớn. Nếu
việc thanh toán được thực hiện bằng tiền mặt trực tiếp sẽ dẫn đến các khoản chi phí
như in ấn vận chuyển bảo quản tiền mặt tăng lên. Đặc biệt khách hàng giao dịch ở
cách xa nhau có khi gặp rủi ro mất tiền trong quá trình thực hiện thanh toán….Điều
đó đã tạo nên nhu cầu khách hàng thực hiện thanh toán qua Ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại thực hiện chức năng này có ý nghĩa rất lớn đối với
nền kinh tế. Nó cung cấp cho khách hàng nhiều công cụ thanh toán như : uỷ nhiệm
thu, uỷ nhiệm chi, séc, thẻ thanh toán.v.v. giúp cho các chủ thể kinh tế không phải
giữ tiền hoặc mang theo tiền trong giao dịch thanh toán. Từ đó giảm lượng tiền mặt
trong lưu thông, góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ luân chuyển vốn tiết
kiệm chi phí in ấn vận chuyển bảo quản tiền mặt
Với bản thân Ngân hàng chức năng này góp phần tăng lợi nhuận thông qua
việc thu lệ phí thanh toán. Ngoài ra còn làm tăng nguồn vốn cho vay của Ngân
hàng. Nhìn vào hệ thống thanh toán của Ngân hàng thương mại người ta có thể
đánh giá ngay được hoạt động của ngân hàng đó có hiệu quả không. Nó còn là cơ
sở thực hiện chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại.
* Chức năng tạo tiền
hi có sự phân hoá trong hệ thống ngân hàng hình thành nên ngân hàng
phát hành và Ngân hàng thương mại thì các ngân hàng thương mại
không còn thực hiện chức năng phát hành giấy bạc ngân hàng. Nhưng
với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán Ngân hàng thương mại
có khả năng tạo ra tiền ghi sổ thực hiện trên tài khoản thanh toán của khách hàng
tại Ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền giao dịch
K
Từ một khoản tiền gửi ban đầu vào một ngân hàng thông qua hành vi cho vay
bằng chuyển khoản kết hợp với thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống ngân
hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi gấp nhiều lần số tiền gửi ban đầu.
Khả năng mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số mở rộng tiền gửi. Hệ số này chịu
tác động của tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ dư thừa và tỉ lệ tiền mặt so với tiền
gửi thanh toán.
Gỉa sử trong điều kiện không có khoản thanh toán nào bằng tiền mặt, không
có khách hàng nào rút tiền hoặc vay bằng tiền mặt, và tất cả các ngân hàng đều
cho vay bằng chuyển khoản hết quỹ cho vay của ngân hàng thì hệ số mở rộng tiền
gửi được tính theo công thức:
1
H = (H:hệ số mở rộng tiền gửi)
Tỷlệ dự trữ bắt buộc
Khi dự trữ bắt buộc là 10% thì hệ số mở rộng tiền gửi là 10. Nghĩa là hệ
thống ngân hàng thương mại có khả năng mở rộng tiền gửi gấp 10 lần tiền gửi
ban đầu
Trong thực tế thì không xảy ra trường hợp trên mà khả năng tạo tiền của
ngân hàng luôn bị giới hạn bởi dự trữ dư thừa,và tỉ lệ rút tiền mặt của công
chúng.Nghĩa là nếu một khách hàng nào đó rút tiền mặt hay vay tiền mặt để thanh
toán thì quá trình tạo tiền sẽ chấm dứt hoặc nếu khách hàng rút hay vay một phần
bằng tiền mặt để thanh toán hoặc ngân hàng không cho vay hết quỹ cho vay thì khả
năng mở rộng tiền gửi cũng giảm đi.
Vậy hệ số mở rộng tiền gửi của ngân hàng thương mại trong thực tế được
tính theo công thức :
1
H =
Tỷ lệ dự trữ Tỷ lệ rút tiền mặt Tỷ lệ dự
bắt buộc + so với tiền gửi thanh toán + trữ dư thừa
Như vậy khả năng mở rộng tiền gửi của các Ngân hàng thương mại phải
được thực hiện trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa nghiệp vụ cho vay và nghiệp vụ
thanh toán không dùng tiền mặt. Do đó đòi hỏi ngân hàng ngày càng hiện đại hoá
hệ thống thanh toán để tạo thành thói quen thanh toán qua ngân hàng. Đồng thời
tận dụng quỹ cho vay để giảm đến mức thấp nhất các khoản dự trữ dư thừa.
Mặt khác khả năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại có thể mang rủi ro
đến cho ngân hàng khi khách hàng có nhu cầu rút vốn ồ ạt mà ngân hàng lại thiếu
phương tiện thanh toán tiền mặt. Để giảm rủi ro ngân hàng thương mại phải gửi
tiền vào tài khoản của mình mở tại Ngân hàng Trung ương và tham gia thanh toán
ra ngoài hệ thống của mình.
Chức năng tạo tiền có ý nghĩa kinh tế to lớn. Thông qua hoạt động này
làm cho nguồn vốn Ngân hàng Thương mại tăng lên tạo điều kiện thanh toán
không dùng tiền mặt trong nền kinh tế.
Hoạt động ngân hàng cùng với các chức năng của nó thể hiện sự phát
triển về mặt tài chính nói riêng và sự phát triển nền kinh tế nói chung của mỗi quốc
gia. Qua các chức năng vị trí vai trò của ngân hàngthương mại được thể hiện:
Thứ nhất Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế :
Vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân doanh
nghiệp và nhà nuớc trong nền kinh tế. Muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc
dân, giảm nhịp độ tiêu dùng. Mà tăng thu nhập quốc dân tức là mở rộng qui mô cả
chiều sâu lẫn chiều rộng của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Để đẩy mạnh sự phát
triển của các ngành trong nền kinh tế cần thiết phải có vốn và ngược lại khi nền
kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra nhiều vốn. Và Ngân hàng thương mại qua nghiệp vụ
huy động vốn và cho vay sẽ là chủ đề chính đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh
doanh
Ta thử hình dung trong một thế giới giản đơn không tồn tại ngân hàng thì
các khoản tiết kiệm của dân chúng chỉ có thể sử dụng hoặc dưới dạng tiền mặt
hoặc dưới dạng đầu tư chứng khoán vào các công ty. Nhưng quy mô luồng vốn vào
các công ty nhìn chung là thấp do người thừa vốn phải mất chi phí rất lớn để có thể
giám sát hoạt động của các công ty hay chi phí chuyển nhượng chứng khoán công
ty và rủi ro biến động giá cả chứng khoán trên thị trường cao". Đó là nguyên nhân
khiến dân chúng giảm động lực tiết kiệm tăng tiêu dùng hoặc tiết kiệm dưới dạng
tiền mặt hoặc vật chất.
Tuy nhiên chúng ta đang sống trong một thế giới mà ở đó hệ thống ngân
hàng phát triển mạnh mẽ và đưọc coi là bộ xương sống của nền kinh tế. Hệ thống
Ngân hàng sẽ cung cấp kênh dẫn vốn từ người có nhu cầu đầu tư đến các công ty
bằng cách Ngân hàng thương mại đứng ra huy động vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn
rỗi của mọi tổ chức cá nhân, các thành phần kinh tế. Vốn huy động được trong xã
hội qua nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng thương mại đã cung cấp vốn cho mọi hoạt
động kinh tế, đáp ứng các nhu cầu vốn một cách kịp thời cho quá trình tái sản xuất
nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thứ hai Ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường
Trong cơ chế thị trường hoạt động của các doanh nghiệp chịu sự tác động
mạnh mẽ của các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật cạnh
tranh, quy luật cung cầu, sản xuất dựa trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường trên
mọi phương diện. Hoạt động của các doanh nghiệp phải đạt hiệu quả kinh tế nhất
định theo quy luật chung của thị trường thì mới đảm bảo đứng vững trong cạnh
tranh.Để đáp ứng được yêu cầu đó thì doanh nghiệp không những nâng cao chất
lượng lao động, củng cố hoàn thiện cơ chế quản lý mà còn mở rộng quy mô sản
xuất, cải tiến máy móc công trình, áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh
doanh. Những đòi hỏi đó cần phải có một lựơng vốn đầu tư lớn nhiều khi vượt quá
khả năng vốn tự có của doanh nghiệp. Để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp
tìm đến Ngân hàng để xin vay vốn. Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng là
“chiếc cầu nối" giữa doanh nghiệp và thị trường. Vốn của Ngân hàng gián tiếp