Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ KIỂM SOÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.75 KB, 27 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ VÀ KIỂM SOÁT
HOẠT ĐỘNG CHO VAY KHÁCH HÀNG DOANH NGHIỆP
1.1. Những vấn đề chung về hệ thống kiểm soát nội bộ
1.1.1. Khái niệm
Hệ thống kiểm soát nội bộ là toàn bộ những chính sách và thủ tục kiểm soát do Ban
giám đốc của đơn vị thiết lập nhằm đảm bảo việc quản lý chặt chẽ và hiệu quả của các hoạt
động trong khả năng có thể. (IAS 400)
Kiểm soát nội bộ theo định nghĩa của COSO, là một quy trình chịu ảnh hưởng bởi
Hội đồng quản trị, các nhà quản lý và các nhân viên khác của một tổ chức, được thiết kế để
cung cấp một sự bảo đảm hợp lý trong việc thực hiện các mục tiêu sau:
- Hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động
- Tính chất đáng tin cậy của báo cáo tài chính
- Sự tuân thủ các luật lệ và quy định hiện hành
Còn theo Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ
thống chính sách và thủ tục được thiết lập nhằm đạt được bốn mục tiêu sau: bảo vệ tài sản
của đơn vị; bảo đảm độ tin cậy của các thông tin; bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp
lý và bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Như vậy hệ thống KSNB thực chất là sự tích hợp một loạt hoạt động, biện pháp, kế
hoạch, quan điểm, nội quy chính sách và nỗ lực của mọi thành viên trong tổ chức để đảm
bảo tổ chức đó hoạt động hiệu quả, đạt được mục tiêu đặt ra một cách hợp lý.
1.1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ
Theo TS Lê Văn Luyện (2009), mục tiêu và nhiệm vụ của hệ thống kiểm soát nội bộ
được tóm tắt như sau
a. Mục tiêu:
 Mục tiêu kết quả hoạt động: Hiệu quả và hiệu năng hoạt động
- Sử dụng có hiệu quả các tài sản và các nguồn lực khác
- Hạn chế rủi ro
- Đảm bảo sự phối hợp, cùng làm việc của toàn bộ nhân viên trong doanh nghiệp
để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp với hiệu năng và sự nhất quán.
- Tránh được các chi phí không đáng có/ việc đặt các lợi ích khác (của nhân viên,
của khách hàng…) lên trên lợi ích của doanh nghiệp.


 Mục tiêu thông tin: Độ tin cậy, tính hoàn thiện và cập nhật thông tin tài chính và quản lý
- Các báo cáo cần thiết được lập đúng hạn và đáng tin cậy để ra quyết định nội bộ
trong doanh nghiệp.
- Thông tin gửi đến Ban TĐ, HĐQT, các cổ đông và các cơ quan giám sát phải có
đủ chất lượng và tính nhất quán.
- BCTC và các báo cáo quản lý khác được trình bày một cách hợp lý và dựa trên
các nguyên tắc kế toán đã được xác định rõ ràng.
 Mục tiêu tuân thủ: Sự tuân thủ pháp luật và quy định. Đảm bảo mọi hoạt động của doanh
nghiệp đều tuân thủ
- Các luật và quy định
- Các yêu cầu về giám sát
- Các chính sách và quy trình nghiệp vụ của doanh nghiệp
b. Nhiệm vụ:
- Ngăn ngừa các sai phạm trong hệ thống xử lý nghiệp vụ
- Phát hiện kịp thời các sai phạm trong quá trình xử lý nghiệp vụ
- Bảo vệ đơn vị trước những thất thoát có thể tránh
- Đảm bảo việc chấp hành chính sách kinh doanh
1.1.3. Sự cần thiết của hệ thống kiểm soát nội bộ
Vấn đề KSNB có ý nghĩa quan trọng đối với hầu hết các đơn vị. Ở các đơn vị nhỏ
thì tổ chức quản lý theo kiểu gia đình; ở các đơn vị có quy mô lớn, quyền hạn càng phân
chia cho nhiều cấp, các quan hệ giữa các bộ phận chức năng và các nhân viên càng trở nên
phức tạp, quá trình truyền đạt và thu thập thông tin phản hồi càng trở nên khó khăn, tài sản
lại càng phân tán ở nhiều địa điểm và trong nhiều hoạt động khác nhau… do đó đòi hỏi
phải có một hệ thống KSNB hữu hiệu.
Trong một tổ chức bất kỳ, sự thống nhất và xung đột quyền lợi chung - quyền lợi
riêng của người sử dụng lao động với người lao động luôn tồn tại song hành. Nếu không có
hệ thống KSNB, làm thế nào để người lao động không vì quyền lợi riêng của mình mà làm
những điều thiệt hại đến lợi ích chung của toàn tổ chức, của người sử dụng lao động? Làm
sao quản lý được các rủi ro? Làm thế nào có thể phân quyền, ủy nhiệm, giao việc cho cấp
dưới một cách chính xác, khoa học chứ không phải chỉ dựa trên sự tin tưởng cảm tính?

Một hệ thống KSNB vững mạnh sẽ đem lại cho tổ chức các lợi ích như: Giảm bớt
nguy cơ rủi ro tiềm ẩn trong sản xuất kinh doanh, chẳng hạn như sai sót vô tình gây thiệt
hại, các rủi ro làm chậm kế hoạch, tăng giá thành, giảm chất lượng sản phẩm... Bảo vệ tài
sản khỏi bị hư hỏng, mất mát bởi hao hụt, gian lận, lừa gạt, trộm cắp. Đảm bảo tính chính
xác của các số liệu kế toán và báo cáo tài chính. Đảm bảo mọi thành viên tuân thủ nội quy,
quy chế, quy trình hoạt động của tổ chức chức cũng như các quy định của luật pháp. Đảm
bảo tổ chức hoạt động hiệu quả, sử dụng tối ưu các nguồn lực và đạt được mục tiêu đặt ra.
Bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cổ đông và gây dựng lòng tin đối với họ trong các Công
ty Cổ phần.
1.1.4. Các bộ phận cấu thành hệ thống kiểm soát nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tổ chức trong các đơn vị, và hệ thống KSNB
giữa các đơn vị vì phụ thuộc vào nhiều yếu tố như quy mô, tính chất hoạt động, mục tiêu…
của từng nơi, thế nhưng bất kỳ hệ thống kiểm soát nội bộ nào cũng phải bao gồm những bộ
phận cơ bản. Báo cáo COSO (1992) cũng đưa ra 5 yếu tố có mối liên hệ với nhau quyết
định tính hiệu quả của hệ thống KSNB:
- Môi trường kiểm soát.
- Đánh giá rủi ro.
- Hoạt động kiểm soát.
- Thông tin và truyền thông
- Giám sát.
1.1.4.1. Môi trường kiểm soát
Môi trường kiểm soát phản ánh sắc thái chung của một đơn vị, nó chi phối ý thức
kiểm soát của mọi thành viên trong đơn vị và là nền tảng đối với các bộ phận khác của
KSNB. Các nhân tố chính thuộc về môi trường kiểm soát:
• Tính chính trực và giá trị đạo đức
Sự hữu hiệu của hệ thống KSNB trước tiên phụ thuộc vào tính chính trực và việc tôn
trọng các giá trị đạo đức của những người liên quan đến các quá trình kiểm soát. Để đáp ứng
yêu cầu này, các nhà quản lý cao cấp phải xây dựng và tự mình thực hiện những chuẩn mực về
đạo đức và cư xử đúng đắn để có thể ngăn chặn các hành vi thiếu đạo đức.
Một cách khác để nâng cao tính chính trực và sự tôn trọng các giá trị đạo đức là

phải loại trừ hoặc giảm thiểu những sức ép hay những điều kiện thuận lợi để nhân viên có
thể thực hiện những hành vi thiếu trung thực.
• Đảm bảo về năng lực
Là sự đảm bảo cho nhân viên có được những kỹ năng hiểu biết cần thiết để thực
hiện nhiệm vụ của mình. Do đó nhà quản lý chỉ nên tuyển dụng các nhân viên có trình độ
đào tạo và kinh nghiệm phù hợp với nhiệm vụ được giao, và phải giám sát, huấn luyện họ
đầy đủ và thường xuyên.
• Hội đồng quản trị và Ủy ban kiểm toán
Hội đồng Quản trị và Ủy ban kiểm toán là những thành viên có kinh nghiệm, uy tín
trong DN. Ủy ban kiểm toán trực thuộc Hội đồng quản trị, gồm những thành viên trong và
ngoài Hội đồng quản trị nhưng không tham gia vào việc điều hành DN.
Ủy ban kiểm toán có thể có những đóng góp quan trọng cho việc thực hiện các mục
tiêu của DN thông qua việc kiểm tra các hoạt động tuân thủ luật pháp, giám sát việc lập
BCTC. Do chức năng quan trọng như trên nên sự hữu hiệu của Hội đồng quản trị và của
Ủy ban kiểm toán có ảnh hưởng quan trọng đến môi trường kiểm soát. Các nhân tố được
xem xét để đánh giá sự hữu hiệu của Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban kiểm toán gồm mức
độ độc lập; kinh nghiệm và uy tín của các thành viên trong Hội đồng quản trị hoặc Ủy ban
kiểm toán; và các mối quan hệ của họ với bộ phận KSNB và kiểm toán độc lập.
• Triết lý quản lý và phong cách điều hành của nhà quản lý.
Triết lý quản lý thể hiện qua quan điểm và nhận thức của người quản lý, phong cách
điều hành lại thể hiện qua cá tính, tư cách và thái độ của họ khi điều hành đơn vị. Sự khác
biệt về triết lý quản lý và phong cách điều hành có thể ảnh hưởng lớn đến môi trường kiểm
soát và tác động đến việc thực hiện mục tiêu của đơn vị. Triết lý quản lý và phong cách
điều hành cũng được phản ánh trong cách thức nhà quản lý: cách thức tiếp xúc và trao đổi
trực tiếp với nhân viên hay cách thức điều hành công việc theo một trật tự đã được xác
định trong cơ cấu tổ chức của đơn vị.
• Cơ cấu tổ chức.
Cơ cấu tổ chức thực chất là sự phân chia trách nhiệm và quyền hạn giữa các bộ
phận trong đơn vị, nó góp phần rất lớn trong việc đạt được các mục tiêu. Điều này có nghĩa
là một cơ cấu tổ chức phù hợp sẽ là cơ sở cho việc lập kế hoạch, điều hành, kiểm soát và

giám sát các hoạt động của đơn vị. Tuy nhiên, điều này sẽ tùy thuộc vào quy mô và tính
chất hoạt động của đơn vị.
• Cách thức phân định quyền hạn và trách nhiệm.
Phân định quyền hạn và trách nhiệm được xem là phần mở rộng của cơ cấu tổ chức.
Nó cụ thể hóa về quyền hạn và trách nhiệm của từng thành viên trong các hoạt động của
đơn vị; mỗi người phải tự hiểu rằng mọi hoạt động của họ sẽ ảnh hưởng đến người khác
như thế nào; và họ sẽ phụ trách cụ thể công việc gì.
• Chính sách nhân sự.
Là các chính sách và thủ tục của nhà quản lý về việc tuyển dụng, huấn luyện, bổ
nhiệm, đánh giá, sa thải, đề bạt và khen thưởng cho các nhân viên. Chính sách nhân sự có
ảnh hưởng đáng kể đến sự hữu hiệu của môi trường kiểm soát.
1.1.4.2. Đánh giá rủi ro
Tất cả các hoạt động đang diễn ra trong đơn vị đều có thể phát sinh những rủi ro và
khó có thể kiểm soát hết tất cả những rủi ro đó. Vì vậy, các nhà quản lý phải thận trọng khi
xác định và phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro làm cho những mục tiêu có thể
không thực hiện được, và phải cố gắng kiểm soát những rủi ro này. Những nguyên nhân
làm xuất hiện những rủi ro là:
- Những thay đổi trong cơ chế của tổ chức hoặc môi trường họat động.
- Sự thay đổi nhân sự.
- Việc tiến hành nghiên cứu mới hoặc sửa đổi hệ thống thông tin.
- Sự tăng trưởng nhanh chóng của đơn vị.
- Sự sắp xếp lại tổ chức mới của đơn vị.
- Những thay đổi về kỹ thuật ảnh hưởng đến quá trình sản xuất sản phẩm hoặc hệ
thống thông tin của đơn vị.
- Những chương trình giới thiệu về lĩnh vực kinh doanh, sản phẩm, hoặc quá trình
sản xuất mới.
- Mở rộng hoặc thanh lý hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị ở nước ngoài.
- Áp dụng nguyên tắc kế toán mới.
Ngoài việc nhận định những nguyên tắc như trên, các nhà quản lý nhất thiết phải
đánh giá những rủi ro trong phạm vi hoạt động kinh doanh của đơn vị, vì trong những vấn

đề kế toán tài chính và lập báo cáo có sự khác biệt rất lớn giữa các ngành (công nghiệp,
ngân hàng, bảo hiểm…), cũng như giữa các đơn vị cùng ngành.
1.1.4.3. Hoạt động kiểm soát
Hoạt động kiểm soát là những chính sách và thủ tục để đảm bảo cho các chỉ thị của
nhà quản lý được thực hiện. Các chính sách và thủ tục này giúp thực thi những hành động
với mục đích chính là giúp kiểm soát các rủi ro mà đơn vị đang hay có thể gặp phải. Có
nhiều loại hoạt động kiểm soát khác nhau có thể được thực hiện. Những hoạt động kiểm
soát chủ yếu trong đơn vị gồm:
• Phân chia trách nhiệm đầy đủ:
Phân chia trách nhiệm là không cho phép một thành viên nào được giải quyết mọi
mặt của nghiệp vụ từ khi hình thành cho đến khi kết thúc.
Mục đích phân chia trách nhiệm nhằm để các nhân viên kiểm soát lẫn nhau, nếu có
sai sót xảy ra sẽ được phát hiện nhanh chóng, đồng thời giảm cơ hội cho bất kỳ thành viên
nào trong quá trình thực hiện nhiệm vụ có thể gây ra và giấu đi sai phạm của mình.
• Kiểm soát quá trình xử lý thông tin và các nghiệp vụ:
Để thông tin đáng tin cậy cần phải thực hiện nhiều hoạt động kiểm soát nhằm kiểm
tra tính xác thực, đầy đủ và việc phê chuẩn các nghiệp vụ. Khi kiểm soát quá trình xử lý
thông tin, cần đảm bảo rằng:
 Phải có một hệ thống chứng từ, sổ sách tốt: Cần chú ý đến các vấn đề sau:
- Các chứng từ phải được đánh số liên tục trước khi sử dụng để có thể kiểm soát,
tránh thất lạc và dễ dàng truy cập khi cần thiết.
- Chứng từ cần được lập ngay khi nghiệp vụ vừa xảy ra, hoặc càng sớm càng tốt.
- Cần thiết kế đơn giản, rõ ràng dễ hiểu và có thể sử dụng cho nhiều công dụng.
- Tổ chức luân chuyển chứng từ khoa học, kịp thời: chứng từ chỉ đi qua các bộ phận có
liên quan đến nghiệp vụ, được xử lý nhanh chóng để chuyển cho bộ phận tiếp theo.
- Sổ sách cần phải đóng chắc chắn, đánh số trang, quy định nguyên tắc ghi chép, có
chữ ký xét duyệt của người kiểm soát…
- Tổ chức lưu trữ, bảo quản tài liệu kế toán khoa học, an toàn, đúng quy định và dễ
dàng truy cập khi cần thiết.
 Phê chuẩn đúng đắn cho các nghiệp vụ hoặc hoạt động:

Cần đảm bảo là tất cả các nghiệp vụ hoặc hoạt động phải được phê chuẩn bởi một
nhân viên quản lý trong phạm vi quyền hạn cho phép.
- Phê chuẩn chung: Là trường hợp người quản lý ban hành các chính sách để áp
dụng cho toàn đơn vị.
- Phê chuẩn cụ thể: Là trường hợp người quản lý xét duyệt từng nghiệp vụ riêng
biệt chứ không đưa ra chính sách chung nào.
• Kiểm soát hiện vật:
Hoạt động này được thực hiện cho các loại sổ sách và tài sản, những ấn chỉ đã được
đánh số trước nhưng chưa sử dụng, các chương trình tin học và những hồ sơ dữ liệu. Chỉ
những người được ủy quyền mới được phép tiếp cận với tài sản của đơn vị.
Việc so sánh, đối chiếu giữa sổ sách kế toán và tài sản hiện có trên thực tế bắt buộc
phải được thực hiện định kỳ để phát hiện chênh lệch, điều tra nguyên nhân, nhờ đó sẽ phát
hiện được những yếu kém trong thủ tục kiểm soát. Nếu không thì tài sản có thể bị bỏ phế,
mất mát hoặc có thể không phát hiện được những hành vi đánh cắp.
• Kiểm tra độc lập việc thực hiện:
Là việc kiểm tra được tiến hành bởi các cá nhân (hoặc bộ phận) khác với các cá
nhân hoặc bộ phận dang thực hiện nghiệp vụ. Nhu cầu cần kiểm tra độc lập xuất phát từ hệ
thống KSNB thường có khuynh huớng bị giảm sút tính hữu hiệu trừ khi có một cơ chế
thường xuyên kiểm tra xét soát lại. Hơn nữa, ngay cả khi chất lượng kiểm soát tốt vẫn có
thể xảy ra những hành vi tham ô hay cố tình sai phạm.
Yêu cầu quan trọng đối với những thành viên thực hiện kiểm tra là họ phải độc lập
với đối tượng được kiểm tra. Sự hữu hiệu của hoạt động này sẽ mất đi nếu người thực hiện
thẩm tra không độc lập vì bất kỳ lý do nào.
• Soát xét lại việc thực hiện:
Hoạt động này chính là xem xét lại những việc đã được thực hiện bằng cách so
sánh số thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán, kỳ trước, và các dữ liệu khác có liên quan
như những thông tin không có tính chất tài chính, đồng thời còn xem xét trong mối liên hệ
với tổng thể để đánh giá quá trình thực hiện. Soát xét lại quá trình thực hiện giúp nhà quản
lý biết được một cách tổng quát là mọi thành viên có theo đuổi mục tiêu của đơn vị một
cách hữu hiệu và hiệu quả hay không. Nhờ thường xuyên nghiên cứu về những vấn đề bất

thường xảy ra trong quá trình thực hiện, nhà quản lý có thể thay đổi kịp thời chiến lược
hoặc kế hoạch hay những điều chỉnh thích hợp.
1.1.4.4. Thông tin và truyền thông
Thông tin và truyền thông có nghĩa là các kế hoạch, môi trường kiểm soát, rủi ro,
các hoạt động kiểm soát và các việc thực hiện chúng phải được báo cáo lên cấp trên,
chuyển từ trên xuống dưới, ngang hàng, ngang cấp trong một DN.
Thông tin và truyền thông gồm hai thành phần gắn kết với nhau. Đó là hệ thống thu
nhận, xử lý, ghi chép thông tin và hệ thống báo cáo thông tin trong nội bộ và bên ngoài.
• Thông tin:
Thông tin cần thiết cho mọi cấp trong DN để sản xuất kinh doanh và thỏa mãn các
mục tiêu về hoạt động kinh doanh, BCTC và tính tuân thủ. Mọi thông tin được sử dụng
trong DN có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
 Hệ thống thông tin:
Thông tin được thu nhập, xử lý bởi hệ thống thông tin. Thông tin có thể chính thức
hoặc không chính thức. Hệ thống thông tin không chỉ nhận dạng, nắm bắt các thông tin cần
thiết về tài chính, phi tài chính mà nó còn đánh giá và báo cáo về những thông tin đó theo
một trình tự để việc quản lý các hoạt động của DN có hiệu quả.
 Chất lượng thông tin:
Chất lượng thông tin ảnh hưởng đến khả năng của nhà quản lý để ra quyết định và
kiểm soát hoạt động của DN. Chất lượng thông tin chỉ ra sự đầy đủ các dữ liệu thích hợp
trong báo cáo. Chất lượng thông tin bao gồm:
- Thông tin thích hợp.
- Thông tin được cung cấp ngay khi cần.
- Thông tin được cập nhật kip thời.
- Thông tin chính xác.
- Thông tin có thể tiếp cận dễ dàng bởi người có thẩm quyền.
 Chiến lược thông tin
DN cần thực hiện thu nhập thông tin bên trong và bên ngoài DN, sau đó cung cấp
cho người quản lý những báo cáo cần thiết về kết quả hoạt động liên quan đến các mục tiêu
được đề ra của DN.

Việc cải tiến và phát triển hệ thống thông tin phải dựa vào kế hoạch chiến lược liên
quan đến toàn bộ chiến lược của DN và đáp ứng các mục tiêu ngày càng phát triển.
Hệ thống thông tin sẽ phát triển nếu có sự hỗ trợ cụ thể của nhà quản lý bằng các
nguồn lực thích hợp bao gồm nhân lực và tài chính.
• Truyền thông:
Truyền thông là thuộc tính vốn có của hệ thống thông tin. Truyền thông là việc cung
cấp thông tin trong đơn vị (từ cấp trên xuống cấp dưới, từ cấp dưới lên cấp trên, hoặc giữa
các bộ phận có quan hệ hàng ngang) và với bên ngoài. KSNB là hữu hiệu khi các thông tin
trung thực, đáng tin cậy và quá trình truyền thông được thực hiện chính xác, kịp thời.
Các phương tiện dùng trong truyền thông rất đa dạng như: bản chỉ dẫn thực hiện,
thư báo, thông báo, băng hình, truyền miệng qua các kỳ họp, các buổi hội thảo... Một
phương tiện truyền thông khác có tác động mạnh là hành động của những nhà quản lý.
 Truyền thông bên trong DN:
Nhiệm vụ quản lý tài chính và các hoạt động quan trọng đòi hỏi thông tin được
cung cấp một cách rõ ràng và chính xác từ các nhà quản lý cấp cao để các nhân viên cấp
dưới thực hiện nghiêm túc.
Song song với phương tiện truyền thông từ trên xuống, các nhà quản lý cũng cần phải
lắng nghe các thông tin phản hồi từ dưới lên để hoạt động của DN đạt hiệu quả cao.
 Truyền thông bên ngoài DN:
Việc truyền thông không chỉ cần thiết bên trong mà còn cả bên ngoài DN. Cổ đông,
người phân tích tài chính, người lập pháp cung cấp những yêu cầu của họ và họ có thể hiểu
được những khó khăn mà DN phải đối phó. Khách hàng và người cung cấp có thể cung cấp
những thông tin quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, làm cho DN có khả năng
đáp ứng những nhu cầu ngày càng phát triển của thị trường.
1.1.4.5. Hệ thống giám sát
Giám sát là bộ phận cuối cùng của KSNB, là một quá trình đánh giá chất lượng của
hệ thống KSNB trong suốt thời kì hoạt động để có các điều chỉnh và cải tiến thích hợp.
Giám sát có một vai trò quan trọng, nó giúp KSNB luôn duy trì sự hữu hiệu qua các thời kì
khác nhau. Quá trình giám sát được thực hiện bởi những người có trách nhiệm nhằm đánh
giá việc thiết lập và thực hiện các thủ tục kiểm soát. Giám sát được thực hiện ở mọi hoạt

động trong DN và theo hai cách: Giám sát thường xuyên và giám sát định kì.
• Giám sát thường xuyên:
Giám sát thường xuyên diễn ra ngay trong quá trình hoạt động của DN, do các nhà
quản lý và nhân viên thực hiện trách nhiệm của mình. Giám sát thường xuyên thường được
áp dụng cho những yếu tố quan trọng trong KSNB. Giám sát để đánh giá việc thực hiện
các hoạt động thường xuyên của nhân viên nhằm xem xét hệ thống KSNB có nên tiếp tục
thực hiện chức năng nữa hay không.
• Đánh giá định kì
Đánh giá định kì được thực hiện thông qua chức năng KSNB và kiểm toán độc lập.
Qua đó phát hiện kịp thời những yếu kém trong hệ thống và đưa ra biện pháp hoàn thiện.
Phạm vi và tần suất giám sát phụ thuộc vào mức độ rủi ro.
Việc đánh giá hệ thống KSNB tự bản thân nó cũng là một quy trình. Người đánh giá
phải am hiểu mọi hoạt động của hệ thống KSNB, phải xác định được làm thế nào để hệ
thống thực sự hoạt động.
1.1.5. Những hạn chế tiềm tàng của hệ thống KSNB

×